Mục lục
Trang
Lời nói đầu 1
Chương 1: Khái quát chung về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế 4
1.1. Khái niệm, lịch sử phát triển và vai trò của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế 4
1.1.1. Khái niệm 4
1.1.2. Lịch sử phát triển của các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế 12
1.1.2.1 Theo quy định của GATT 1947 12
1.1.2.2 Theo quy định của WTO 14
1.1.3. Vai trò của các biện pháp tự vệ 15
1.2. Các biện pháp tự vệ theo hiệp định đa biên của WTO 17
1.2.1. Biện pháp thuế quan 17
1.2.2. Biện pháp phi thuế quan 19
1.3. Nguyên tắc và thủ tục áp dụng các biện pháp tự vệ 22
1.3.1. Điều kiện để áp dụng các biện pháp tự vệ 22
1.3.2. Nguyên tắc áp dụng 24
1.3.2.1 Nguyên tắc không phân biệt đối xử 24
1.3.2.2 Nguyên tắc áp dụng các biện pháp tự vệ trong phạm vi và mức độ cần thiết 25
1.3.2.3 Nguyên tắc đảm bảo việc bồi thường tổn thất thương mại 26
1.3.3. Thủ tục, thời hạn và một số vấn đề liên quan đến việc áp dụng biện pháp tự vệ 27
1.3.3.1 Thủ tục điều tra 27
a. Căn cứ tiến hành điều tra 27
b. Thủ tục điều tra 28
1.3.3.2 áp dụng các biện pháp tự vệ 30
1.3.3.3 Thời hạn áp dụng 31
1.3.3.4 Đình chỉ, rà soát, gia hạn và tái áp dụng các biện pháp tự vệ 32
Đình chỉ 32
Rà soát 33
Gia hạn 33
Vấn đề tái áp dụng 34
Chương 2: Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ ở một số nước và khu vực trên thế giới 35
2.1. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Mỹ 35
2.1.1. Lịch sử ra đời của các biện pháp tự vệ ở Mỹ 35
2.1.2. Thủ tục điều tra và áp dụng các biện pháp tự vệ 37
2.1.3. Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ 40
2.1.4. Thực tế một số trường hợp cụ thể về việc áp dụng các biện pháp tự vệ ở Mỹ 42
2.2. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở EU 48
2.2.1. Sơ lược về Quy chế 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ của EU 48
2.2.2. Thủ tục áp biện pháp tự vệ của EU 49
2.2.2.1 Thủ tục cung cấp thông tin và tham vấn 49
2.2.2.2 Thủ tục điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ 50
2.2.3. áp dụng và thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ 52
2.2.4. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở EU 54
2.3. Thực tiễn sử dụng các biện pháp tự vệ thương mại ở Trung Quốc và Nhật bản 57
2.3.1. Khái quát về chính sách tự vệ thương mại của Trung Quốc 57
2.3.1.1 Điều kiện để tiến hành điều tra áp dụng biện pháp tự vệ 58
2.3.1.2 Điều tra để xác định sự tồn tại của thiệt hại 60
2.3.1.3 áp dụng các biện pháp tự vệ 61
2.3.1.4 Thời hạn áp dụng và thủ tục rà soát các biện pháp tự vệ 62
2.3.2. Khái quát về chính sách tự vệ của Nhật Bản 62
2.3.2.1 Theo Quy tắc về các biện pháp khẩn cấp 62
2.3.2.2 Theo Sắc lệnh liên bộ về thuế quan nhập khẩu đặc biệt 65
2.3.3. Thực tế một số trường hợp áp dụng biện pháp tự vệ ở Trung Quốc và Nhật 66
Chương 3: Thực tiễn về tự vệ thương mại ở Việt Nam và một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay 70
3.1. Thực trạng về tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua 70
3.1.1. Về chính sách tự vệ thương mại của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế 70
3.1.1.1 Khái quát về chủ trương và sự cần thiết phải thực hiện chính sách tự vệ thương mại của Nhà nước Việt Nam 70
3.1.1.2 Thực tế tiến hành tự vệ thương mại của Việt Nam 72
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng trên 74
3.1.2.1 Nguyên nhân nhận thức 74
3.1.2.2 Nguyên nhân thực tiễn 75
3.1.3. Thực trạng pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam 76
3.1.3.1 Sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật về tự vệ thương mại 76
3.1.3.2 Một số vấn đề cơ bản của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam 77
3.1.3.3 Tác động của việc ban hành Pháp lệnh về tự vệ 79
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam 80
3.2.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tự vệ trong thương mại 80
3.2.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam 80
3.2.1.2 Phương hướng triển khai và hoàn thiện công tác tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới 82
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam 83
3.2.2.1 Đối với Nhà nước 83
3.2.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt là pháp luật về tự vệ thương mại 83
3.2.2.1.2 Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại 85
3.2.2.1.3 Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại 87
3.2.2.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại 88
3.2.2.2 Đối với doanh nghiệp 88
3.2.2.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại 88
3.2.2.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ thương mại để sử dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ 89
3.2.2.2.3 Khẩn trương tìm hiểu và chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để tiến hành yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ và biện pháp trả đũa thương mại 90
3.2.2.3 Một số kiến nghị khác 91
Kết luận 93
Danh mục tài liệu tham khảo
105 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 3675 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế - Thực tiễn sử dụng ở một số nước trên thế giới và Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thức của WTO nhưng chúng ta đã có những bước tiến lớn trong việc chuẩn bị đầy đủ điều kiện pháp lý để đàm phán gia nhập vào tổ chức này. Thời gian vừa qua, sự ra đời của Luật doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài sửa đổi bổ sung, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi bổ sung và mới đây là sự ra đời của hai pháp lệnh mới: Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam đã cho thấy sự nỗ lực của Nhà nước Việt Nam trong việc xây dựng và điều chỉnh luật pháp quốc gia ngày càng phù hợp hơn với chuẩn mực và tập quán quốc tế tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp phát huy hoạt động của mình trong thương mại quốc tế, góp phần minh bạch hoá các chính sách luật lệ, đáp ứng được những đòi hỏi của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Như vậy việc xây dựng hệ thống chính sách thương mại nói chung và một chính sách tự vệ thương mại nói riêng như là một công cụ bảo hộ hiệu quả nhằm hỗ trợ cho các nhà sản xuất trong nước khi có hiện tượng gia tăng hàng nhập khẩu một cách bất thường gây ra hay đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho họ là một vấn đề hết sức thiết thực và cần thiết nhất là đối với những nền kinh tế mới mở của như Việt Nam để từng bước thích ứng được với môi trường cạnh tranh quốc tế đầy biến động.
3.1.1.2 Thực tiễn tiến hành tự vệ thương mại ở Việt Nam
Trong những năm gần đây hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu ra nước ngoài cũng như hàng hoá sản xuất trong nước phải chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ phía hàng hoá nước ngoài. Hàng hoá Việt Nam ở nước ngoài liên tục phải đối mặt với các vụ kiện của các công ty nước ngoài về bán phá giá như vụ kiện về bán phá giá bật lửa ga trên thị trường Hàn quốc và EU, vụ kiện về giầy dép với Canada và nổi bật nhất là vụ kiện bán phá giá cá da trơn trên thị trường Mỹ vào năm 2002. Những vụ kiện và tranh chấp thương mại trên mà hệ quả là hàng hoá xuất khẩu của chúng ta bị áp dụng các biện pháp trừng phạt như chịu thuế suất bổ sung và áp đặt hạn ngạch từ phía các đối tác nước ngoài đã gây ra không ít khó khăn về tiếp cận thị trường và chiến lược xuất khẩu của Việt Nam. ở trong nước, hàng hoá của chúng ta tuy được thi đấu trên sân nhà nhưng cũng không tránh khỏi nguy cơ bị mất thị trường trước sự gia tăng của hàng hoá nước ngoài. Tại thị trường Việt Nam hiện đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các công ty đa quốc gia lớn mạnh hơn chúng ta về mọi mặt. Một số doanh nghiệp một thời hàng đầu của chúng ta bị dồn vào chân tường với thị phần nhỏ hẹp. Chính sách mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã tạo điều kiện cho hàng hoá nước ngoài tràn vào thị trường Việt Nam. Hàng hoá Việt Nam không còn là sự lựa chọn như trước nữa với tâm lý “sính ngoại” của người tiêu dùng không chỉ vì hàng ngoại có chất lượng tốt hơn hàng nội mà giá của các sản phẩm, mặt hàng do Việt Nam sản xuất cũng không thể cạnh tranh được với hàng nước ngoài, nhất là hàng nhập khẩu từ Trung Quốc. Không chỉ có ưu thế về chất lượng và giá cả, hàng hoá nước ngoài cũng tham gia vào các chiến dịch xúc tiến thương mại tốt hơn chúng ta như tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại với những ưu đãi đặc biệt hấp dẫn đánh vào tâm lý người tiêu dùng trong khi các doanh nghiệp trong nước lại không đủ tiềm lực để chạy theo các doanh nghiệp nước ngoài trong cuộc chiến dành giật khách hàng chiếm lĩnh thị trường. Như vậy, dù là ở thị trường nước ngoài hay thị trường trong nước hàng hoá của Việt Nam đều gặp khó khăn trong việc tiêu thụ. Trong bối cảnh chúng ta bị tấn công từ hai phía thì việc đặt ra nhu cầu bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng cho các ngành sản xuất trong nước bị tác động bởi chính sách mở của tự do hoá thương mại và dỡ bỏ hàng rào thuế quan là rất cần thiết.
Thực tế từ năm 2002 trở về trước, Việt Nam chưa có một văn bản pháp luật nào quy định hay giải thích về các biện pháp tự vệ. Sự hiểu biết về các vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ở cấp nhà nước cũng còn rất hạn chế. Chính vì thế mà trong thời gian qua chúng ta chưa thực sự sử dụng chính thức bất kỳ biện pháp nào dưới hình thức tự vệ hợp pháp. Để bảo vệ các nhà sản xuất trong nước, ngoài các biện pháp thuế quan, chúng ta còn áp dụng nhiều biện pháp mang tính hành chính như cấm nhập khẩu, cấp giấy phép nhập khẩu, hạn ngạch… Các hình thức này không còn phù hợp với các nguyên tắc thương mại quốc tế và thường bị phía nước ngoài phản đối như lần cấm nhập khẩu 12 mặt hàng từ các nước ASEAN hồi năm 1998 đã gặp những phản ứng gay gắt của các nước này1 Về các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế của Việt Nam, Nghĩa Nhân, Vnexpress (www.vnexpress.net.vn), 24/4/2002
. Và như vậy trong thời gian tới đây, sau khi Pháp lệnh về quyền tự vệ của Việt Nam chính thức có hiệu lực thì chúng ta sẽ thực sự được vận dụng các biện pháp tự vệ như là một trong số các công cụ hợp pháp hiệu quả nhất để góp phần bảo hộ sản xuất trong nước nhằm ngăn chặn hoặc hạn chế những diễn biến bất thường do nhập khẩu gây ra trong bối cảnh thực hiện chính sách tự do hoá thương mại như hiện nay.
3.1.2. Nguyên nhân của thực trạng nêu trên
3.1.2.1 Nguyên nhân nhận thức
Sở dĩ chúng ta chậm trễ trong việc ban hành các văn bản pháp luật về tự vệ thương mại một phần chính là do nhận thức của chúng ta về vấn đề này còn chưa đầy đủ và hạn chế. Việc soạn thảo Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam được Bộ Thương mại phối hợp với một số Bộ khác bắt đầu tiến hành từ năm 1999 và chính thức được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội thông qua vào tháng 5 năm 2002. Đây thực sự là cố gắng lớn của nước ta trong một nỗ lực hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật cho phù hợp với các quy định của quốc tế về kinh tế thương mại, thể hiện tính tích cực chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam. Việc Pháp lệnh ra đời đã góp một phần không nhỏ trong việc phổ biến những kiến thức chung nhất về tự vệ thương mại cho các cấp nhà nước nói chung và các cấp doanh nghiệp nói riêng. Bởi trước đây, khi Pháp lệnh này chưa ra đời thì những hiểu biết về vấn đề tự vệ thương mại của chúng ta còn rất mơ hồ và hạn chế. Các thuật ngữ như: “tự vệ thương mại”, “biện pháp tự vệ”… đối với chúng ta còn rất xa lạ và khó hiểu. Đã đôi lần chúng ta nghe hay xem trên các phương tiện thông tin đại chúng các vụ việc về áp dụng biện pháp tự vệ của một số nước trên thế giới nhưng chúng ta thường cố gắng hiểu vấn đề một cách đơn giản hoá, chung chung và đôi khi còn nhầm lẫn với các hình thức bảo hộ khác. Chính vì thế mà nhận thức của chúng ta về vấn đề này thực sự là chưa có chiều sâu. Nếu như bán phá giá hay trợ giá là những vấn đề khá quen thuộc với chúng ta thì tự vệ thương mại lại là một vấn đề còn rất mới mẻ và cần phải được nghiên cứu nhiều hơn nữa để có thể nâng cao nhận thức cho mọi cấp ngành hiểu vấn đề này một cách tường tận hơn.
3.1.2.2 Nguyên nhân thực tiễn
Theo quy định chung tại Điều XIX GATT và Hiệp định về các biện pháp tự vệ đã đưa ra khả năng nước sử dụng biện pháp tự vệ sẽ bị nước xuất khẩu áp dụng biện pháp trả đũa nếu họ không thương lượng được với nhau về mức bồi thường. Mà trên thực tế Việt Nam là một nước nhỏ bé, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường quốc tế là không đáng kể, với một vị thế trên trường quốc tế còn rất khiêm tốn. Chính vì thế khả năng tiến hành biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đũa của chúng ta là rất hãn hữu, chỉ trong những trường hợp đặc biệt nguy cấp mà thôi.Thời gian qua, khi tiến hành mở cửa nền kinh tế, Việt Nam chúng ta đã cố gắng hết sức trong việc bảo hộ thị trường trong nước tránh được những tác động và ảnh hưởng bất lợi từ phía bên ngoài. Tuy nhiên việc bảo hộ này chỉ được tiến hành trong những giới hạn nhất định và không phải lúc nào cũng đem lại hiệu quả mong muốn.Cho đến nay, tuy chúng ta đã có Pháp lệnh về tự vệ nhưng thực sự là chúng ta chưa sử dụng đến nó một cách chính thức, nghĩa là Việt Nam chưa từng áp dụng biện pháp tự vệ với bất kỳ sản phẩm nhập khẩu nào dưới danh nghĩa tự vệ mà thực tế chúng ta mới chỉ bị phía nước ngoài áp dụng biện pháp tự vệ đối với các sản phẩm xuất khẩu của chúng ta như vụ gạo Việt Nam bị Liên bang Nga áp dụng mức thuế suất rất cao dưới hình thức tự vệ hồi tháng 4 năm 2003 mới đây. Thực tiễn các nước trên thế giới cho thấy việc quy định về các biện pháp tự vệ đã có từ lâu song tần số áp dụng lại không nhiều bằng việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá hay chống trợ cấp. Ngay như những cường quốc lớn như Nhật, Mỹ hay EU việc áp dụng biện pháp tự vệ cũng phải được cân nhắc rất kỹ huống hồ là một nước nhỏ bé đang phát triển như Việt Nam.
3.1.3. Thực trạng pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam
3.1.3.1 Sự cần thiết phải ban hành văn bản pháp luật về tự vệ thương mại
Đối với Việt Nam trong bối cảnh chúng ta phải thực hiện các yêu cầu của quốc tế về giảm thiểu việc quản lý nhập khẩu bằng các biện pháp hành chính, việc ban hành văn bản pháp luật điều chỉnh việc áp dụng các biện pháp tự vệ là hết sức cần thiết nhằm vận dụng công cụ bảo hộ hợp pháp này. Tuy nhiên một trong những vấn đề gây nhiều lúng túng trong thời gian qua là chọn ngành nào để bảo hộ và bảo hộ thế nào cho hợp lý, tránh không để doanh nghiệp ỷ lại lợi dụng sự bảo hộ của Nhà nước, chỉ bảo hộ trong những trường hợp thật cần thiết để không tạo nên tâm lý bảo hộ tràn lan. Do đó các biện pháp tự vệ được áp dụng dựa trên tín hiệu thị trường cần nhanh nhậy và đúng đối tượng. Mức độ bảo hộ cần được tính toán kỹ càng dựa trên các số liệu kinh tế sát với thực tiễn. Thời gian bảo hộ cũng cần được xác định trước vì vậy các doanh nghiệp được bảo hộ không thể ỷ lại nhiều vào nhà nước mà phải tự thân vận động, điều chỉnh và nâng cao năng lực cạnh tranh của mình tương đương tầm quốc tế.
Tóm lại, các biện pháp tự vệ là công cụ quản lý nhập khẩu cần thiết, linh hoạt và hiệu quả đồng thời được luật pháp quốc tế công nhận để bảo hộ các ngành sản xuất trong nước. Do đó việc ban hành Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam là rất cần thiết và cấp bách. Pháp lệnh này đời sẽ cho thấy tính chủ động của Việt Nam trong việc vận dụng các chuẩn mực quốc tế chung vào luật quốc gia và các chính sách thương mại của riêng mình. Nó cũng tạo điều kiện để nền kinh tế Việt Nam hội nhập vào nền kinh tế quốc tế có hiệu quả, hạn chế những tác động bất lợi đối với sản xuất trong nước.
Pháp lệnh này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các quy định của Điều XIX, GATT 1947 về tự vệ khẩn cấp đối với hàng nhập khẩu, Hiệp định về các biện pháp tự vệ và Luật mẫu của WTO nhưng được chuyển hoá điều chỉnh cho phù hợp hơn với hệ thống pháp luật Việt Nam.
3.1.3.2 Một số vấn đề cơ bản của Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam
Pháp lệnh gồm 8 chương, 33 điều quy định về các biện pháp tự vệ, điều kiện và thủ tục áp dụng các biện pháp đó trong trường hợp hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Việt Nam gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành sản xuất trong nước. Một số vấn đề chính cần lưu ý của Pháp lệnh là:
Hình thức áp dụng biện pháp tự vệ
Để có thể hạn chế hàng nhập khẩu vào lãnh thổ Việt Nam, Pháp lệnh quy định hai loại biện pháp tự vệ phổ biến nhất là: Thuế nhập khẩu và Hạn ngạch nhập khẩu. Riêng thuế nhập khẩu có thể áp dụng theo hai cách: Tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu hiện hành hoặc áp dụng thuế nhập khẩu bổ sung. Nếu chọn hình thức thuế nhập khẩu bổ sung thì cần phải sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu hiện hành vì chưa có quy định về việc áp dụng thuế nhập khẩu bổ sung trong trường hợp tự vệ. Do đó Pháp lệnh đã quy định việc áp dụng biện pháp tăng mức thuế suất thuế nhập khẩu. Trong trường hợp cần tăng thuế suất thuế nhập khẩu vượt khung thuế suất đã được Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định thì sẽ áp dụng bổ sung các biện pháp khác. Để có thể linh hoạt trong việc áp dụng các biện pháp tự vệ, Pháp lệnh cũng quy định khả năng Chính phủ có thể quy định việc áp dụng các biện pháp tự vệ khác như hạn ngạch thuế quan, phụ thu, giấy phép…đối với hàng nhập khẩu để bảo vệ ngành sản xuất trong nước.
Điều kiện áp dụng biện pháp tự vệ
Để đảm bảo tính khách quan của các biện pháp tự vệ, Pháp lệnh quy định việc áp dụng các biện pháp tự vệ chỉ được thực hiện khi hội đủ các nhân tố sau:
Có sự gia tăng kim ngạch hoặc số lượng nhập khẩu của một loại hàng hoá nhất định;
Việc gia tăng nhập khẩu đó là nguyên nhân gây ra hoặc có nhiều khả năng sẽ gây ra các tác động xấu đến ngành sản xuất trong nước sản xuất loại hàng hoá đó. Các tác động xấu này có thể là ảnh hưởng bất lợi đến doanh thu, lợi nhuận, công ăn việc làm… của các doanh nghiệp nói chung;
Việc áp dụng các biện pháp tự vệ để bảo hộ một ngành không làm ảnh hưởng xấu đến các bộ phận khác của nền kinh tế quốc dân, ví dụ như không để việc bảo hộ phân bón làm cho nông dân phải chịu thiệt thòi khi phải mua phân bón với giá quá cao; không vì bảo hộ sản xuất đường mà làm đa số nhân dân phải mua đường hoặc các sản phẩm từ đường với giá cao (khoản 2, điều 19).
áp dụng các biện pháp tự vệ
Các biện pháp tự vệ nhìn chung chỉ được áp dụng sau khi cơ quan chức trách của Chính phủ mà cụ thể ở đây là Bộ Thương mại, đã tiến hành điều tra về việc gia tăng hàng hoá nhập khẩu và những ảnh hưởng của nó đến các nhà sản xuất trong nước. Nếu Bộ Thương mại nhận thấy đã hội đủ các điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ thì có thể ra quyết định áp dụng. Trong trường hợp đặc biệt khẩn cấp, Pháp lệnh cũng quy định việc áp dụng biện pháp tự vệ tạm thời trước khi có kết quả điều tra cuối cùng để ngăn chặn các hậu quả xấu xảy ra.
Cơ quan chịu trách nhiệm điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ cũng sẽ làm rõ mức chênh lệch giữa năng lực cạnh tranh của hàng sản xuất trong nước so với hàng nhập khẩu để đi đến quyết định về mức bảo hộ cần thiết. Mức bảo hộ này đủ để các doanh nghiệp trong nước cạnh tranh nhưng không được thái quá, tránh tình trạng doanh nghiệp lợi dụng tăng giá hàng hoá, gây thiệt hại cho người tiêu dùng.
Trong thời gian áp dụng các biện pháp tự vệ, các cơ quan chức năng sẽ phải phối hợp với Bộ Thương mại để luôn luôn theo dõi sát tình hình, từng bước nới lỏng hạn chế nhằm tăng dần cạnh tranh, giúp các doanh nghiệp làm quen dần với hội nhập kinh tế quốc tế và nâng cao khả năng cạnh tranh của mình.
Nhằm giao quyền chủ động cho các doanh nghiệp, Pháp lệnh quy định về việc điều tra tiến tới áp dụng các biện pháp tự vệ chủ yếu dựa trên đơn yêu cầu của tập hợp các nhà sản xuất chiếm ít nhất 25% sản lượng hàng trong nước.Doanh nghiệp có được những thông tin quý báu giúp các cơ quan nhà nước ra được những quyết định kịp thời, chính xác. Tuy nhiên trong điều kiện ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có nhiều các hiệp hội ngành hàng đủ mạnh, các cơ quan Chính phủ có thể chủ động điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ để bảo hộ cho các doanh nghiệp trong trường hợp cần thiết. Nhìn chung các biện pháp tự vệ sẽ không được áp dụng tràn lan vì nước xuất khẩu có khả năng trả đũa, gây bất lợi cho hàng xuất khẩu của ta.
Thời hạn áp dụng biện pháp tự vệ
Để tránh tình trạng doanh nghiệp ỷ lại trông chờ vào sự bảo hộ của nhà nước, Pháp lệnh quy định biện pháp tự vệ chỉ có giá trị tối đa trong vòng 4 năm. Khi đó, các doanh nghiệp sẽ biết rõ thời gian mình được bảo hộ và sẽ có kế hoạch điều chỉnh các hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trong trường hợp các doanh nghiệp thuộc một ngành kinh tế đã cố gắng hết sức nhưng do các điều kiện khách quan vẫn không thể cạnh tranh được với hàng hoá nhập khẩu thì Nhà nước có thể xem xét gia hạn thêm thời hạn bảo hộ cho ngành đó. Thời gian gia hạn các biện pháp tự vệ không vượt qua 6 năm.
Như vậy tổng thời gian tối đa mà một ngành được bảo hộ không quá 10 năm. Đây là thời gian tương đối dài. Trên thực tế ở các nước khác, thời gian này đủ để cho các doanh nghiệp thuộc một ngành kinh tế thích nghi được với cạnh tranh quốc tế. Thực tế cũng cho thấy nếu một ngành được bảo hộ đến 10 năm mà vẫn chưa có khả năng cạnh tranh quốc tế thì đó là ngành không có lợi thế so sánh và không nên khuyến khích phát triển.
3.1.3.3 Tác động của việc ban hành Pháp lệnh về tự vệ
Trong điều kiện cơ chế quản lý xuất nhập khẩu của Việt Nam đang được điều chỉnh theo các chuẩn mực quốc tế, các biện pháp hạn chế định lượng và hàng rào phi thuế được loại bỏ để thực hiện các thoả thuận của Việt Nam với các tổ chức tài chính quốc tế, các Hiệp định đa phương và đàm phán gia nhập WTO, việc ban hành Pháp lệnh về các biện pháp tự vệ có thể sẽ có các tác động khác sau đây:
Những tác động tích cực
Nước ta có một công cụ bảo hộ hợp pháp, ngăn chặn hoặc hạn chế những diễn biến bất lợi do việc nhập khẩu hàng hoá gia tăng bất thường gây ra;
Sản xuất trong nước đỡ chịu nguy cơ bị đảo lộn, thậm chí bị phá sản do nhập khẩu hàng hoá quá mức gây ra;
Góp phần xây dựng một hệ thống chính sách quản lý thương mại rõ ràng và ổn định hơn;
Đây cũng là một bước chủ động chế định hoá các định chế của WTO vào luật pháp Việt Nam và điều chỉnh luật pháp của ta phù hợp với các chuẩn mực của thế giới, tạo điều kiện cho việc gia nhập WTO.
Những tác động tiêu cực
Việc áp dụng các biện pháp tự vệ cũng có thể làm giảm cơ hội của các ngành sản xuất sử dụng hàng hoá nhập khẩu đầu vào cho sản xuất với giá thấp hoặc chất lượng tốt hơn, hạn chế người tiêu dùng có được những hàng hoá tương tự với giá rẻ hơn;
Trong một số trường hợp, việc áp dụng các biện pháp tự vệ có thể làm thay đổi đáng kể các cơ hội thị trường mà các đối tác nước ngoài có được và do vậy có thể dẫn đến sự khiếu nại từ phía Chính phủ nước ngoài, thậm chí khi tham vấn liên Chính phủ không thành công có thể bị trả đũa;
Nếu lạm dụng các biện pháp tự vệ sẽ làm nảy sinh sự ỷ lại của các doanh nghiệp vào sự bảo hộ quá mức của nhà nước.
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại của Việt Nam
3.2.1. Sự cần thiết và phương hướng hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại ở Việt Nam
3.2.1.1 Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về tự vệ thương mại
Như chúng ta đã biết hệ thống pháp luật đối ngoại của mỗi quốc gia chính là chiếc van an toàn để bảo vệ quốc gia đó trước các tác động bất lợi từ phía bên ngoài. Quốc gia nào cũng cố gắng xây dựng một hệ thống chính sách đối ngoại vừa phù hợp với chuẩn mực quốc tế chung vừa phải đem lại nhiều lợi ích cho nước mình nhất đồng thời cố gắng hạn chế làm tổn hại đến quyền lợi của quốc gia khác trên cơ sở bình đẳng tôn trọng lẫn nhau và đôi bên cùng có lợi. Để làm được điều này không phải là chuyện dễ dàng. Một hệ thống chính sách pháp luật dù hoàn thiện đến đâu cũng khó tránh được những kẽ hở. Vấn đề là chúng ta phải làm thế nào để phát hiện và sửa chữa những kẽ hở đó. Điều này chỉ có thể làm được thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật để từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm, lấy đó làm phương hướng để hoàn thiện dần hệ thống pháp luật hiện hành.
Đối với Việt Nam đồng thời với việc xác định chính sách bảo hộ nói chung thì chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện hơn nữa pháp luật về tự vệ thương mại nói riêng. Ngày 24 tháng 5 năm 2002, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua hai Pháp lệnh: Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam và Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh chúng ta đang hoàn thiện, bổ sung hệ thống pháp luật đối ngoại, thể hiện tính cực chủ động hội nhập vào nền kinh tế khu vực và quốc tế của Việt Nam.Cho đến nay, sau hơn một năm ban hành, tuy chưa thực sự tỏ rõ tác dụng của mình nhưng hai Pháp lệnh này đã góp phần tạo ra một khung pháp lý phù hợp với luật pháp quốc tế mở đường cho các hoạt động tự do thương mại. Tuy nhiên công việc mà chúng ta đang thực hiện chưa được tiến hành đồng bộ. Thực trạng là cho đến thời điểm hiện nay chúng ta mới chỉ ban hành được 2 Pháp lệnh điều chỉnh thương mại quốc tế kể trên. Pháp lệnh về Chống bán phá giá và chống trợ giá thì còn đang trong giai đoạn soạn thảo. Do đó chúng ta cần xây dựng và hoàn thiện hơn nữa các văn bản điều chỉnh các vấn đề về thương mại quốc tế. Công việc này cần phải được tiến hành một cách song song và đồng bộ, không nên để tình trạng Luật ra đời từ lâu mà vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành. Và như vậy, bên cạnh những nỗ lực to lớn khi ban hành ra Pháp lệnh về tự vệ thương mại của Việt Nam thì chúng ta cũng phải hết sức chú trọng đến vấn đề hoàn thiện nó, bởi chỉ có thông qua quá trình hoàn thiện thì Pháp lệnh này nói riêng và các Pháp lệnh khác nói chung mới tỏ rõ tác dụng và góp phần làm vững mạnh hơn hệ thống luật pháp đối ngoại của Việt Nam.
3.2.1.2 Phương hướng triển khai công tác tự vệ thương mại ở Việt Nam trong thời gian tới
Về cơ bản việc hoàn thiện các văn bản pháp luật bảo hộ nói chung và tự vệ thương mại nói riêng phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các cam kết quốc tế của Việt Nam đồng thời không được đi ngược lại với lợi ích quốc gia dân tộc. Trong thời gian tới đây, khi Việt Nam chính thức thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA và trong tiến trình đàm phán gia nhập WTO thì việc trước tiên phải làm là phải dỡ bỏ các hàng rào bảo hộ mậu dịch vốn được coi là tấm lá chắn an toàn cho các ngành công nghiệp non yếu của ta. Khi đó để tự vệ một cách hợp pháp vừa đảm bảo an toàn cho các ngành sản xuất trong nước trước những tác động xấu từ bên ngoài vừa không trái với những quy định chung thì chính sách bảo hộ nói chung và cơ chế tự vệ nói riêng của chúng ta cần phải được hoàn thiện theo một số phương hướng chung như sau:
Chỉ cho phép bảo hộ tự vệ trong những trường hợp thật cần thiết, khi đã xác định được đầy đủ các điều kiện theo quy định chung của pháp luật quốc tế để áp dụng biện pháp tự vệ;
Chỉ áp dụng biện pháp tự vệ trong thời hạn, phạm vi và mức độ cần thiết đủ để ngăn ngừa hay khắc phục những thiệt hại hay nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Chỉ bảo hộ, hỗ trợ cho một số ngành sản xuất trong nước trọng điểm có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đáp ứng nhu cầu phát triển về sau, tăng thu ngân sách và giải quyết lao động. Không áp dụng biện pháp tự vệ một cách tràn lan tạo tâm lý ỷ lại của các ngành sản xuất trong nước;
Việc bảo hộ thông qua biện pháp tự vệ phải phù hợp với tiến trình tự do hoá thương mại và các cam kết quốc tế của Việt Nam. Thông qua các chính sách về bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng phải thể hiện được tinh thần hợp tác, tôn trọng lẫn nhau, đôi bên cùng có lợi đồng thời không làm mất đi bản sắc riêng của nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam;
Đặc biệt chúng ta phải hết sức thận trọng và cân nhắc khi đưa ra các quy định về việc áp dụng các biện pháp tự vệ, biện pháp trả đũa cũng như nguy cơ bị trả đũa từ các nước có liên quan;
Việc hoàn thiện luật pháp về bảo hộ nói chung và tự vệ nói riêng cũng phải chú trọng đến tính phù hợp, tương thích với các văn bản luật lệ khác như Luật Hải quan, Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, Pháp lệnh về chống bán phá giá…và các Hiệp định thương mại đã và sẽ ký kết với các nước trên thế giới…
3.2.2. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt tự vệ thương mại trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam
3.2.2.1 Đối với Nhà nước (ở tầm vĩ mô)
3.2.2.1.1 Hoàn thiện hệ thống luật pháp điều chỉnh thương mại đặc biệt là Pháp lệnh về tự vệ thương mại
Đây là một kiến nghị không mới, mặc dù chúng ta đã hết sức cố gắng trong việc xây dựng và ban hành ra một khung pháp lý phù hợp với pháp luật quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ song như thế chưa đủ. Hệ thống pháp luật điều chỉnh thương mại của chúng ta còn chưa đầy đủ và chưa đồng bộ, đôi khi còn chồng chéo lên nhau gây khó hiểu và hoạt động còn chưa có hiệu quả rõ rệt. Do đó, Nhà nước ta cần phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống luật pháp này thông qua quá trình rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế, loại bỏ hay làm mới các quy định có liên quan Quá trình này phải được tiến hành một cách đồng bộ và thống nhất giữa các Bộ, ngành, cơ quan hữu quan. Ngoài ra để xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh cần nhanh chóng ban hành Luật về cạnh tranh và chống độc quyền, về chống gian lận thương mại và các yếu tố pháp lý quan trọng khác của nền kinh tế thị trường. Quan trọng nhất tạo ra sự thuận tiện và cũng phải đảm bảo tính minh bạch trong nội dung các văn bản đó. Cũng để có ưu thế về cạnh tranh trên bình diện quốc gia, chúng ta cũng phải tạo ra một hành lang pháp lý thuận lợi, an toàn, ổn định, cần phải công khai minh bạch hoá chính sách pháp luật về hoạt động kinh doanh, nhất là các chính sách về xuất nhập khẩu và tài chính. Bên cạnh đó cần xây dựng và công bố lộ trình cụ thể các danh mục cắt giảm thuế quan và phi thuế quan hàng năm để thực hiện các cam kết quốc tế của chúng ta, xây dựng các phương án giảm và ràng buộc thuế quan ở mức trần để đàm phán gia nhập WTO, đồng thời cũng chú trọng xây dựng và hoàn thiện các biện pháp bảo hộ phi thuế quan hữu hiệu phù hợp với thông lệ quốc tế tạo điều kiện bảo hộ hợp lý cho các nhà sản xuất trong nước khi chúng ta buộc phải cắt giảm thuế quan.
Đó là về hệ thống pháp luật điều chỉnh thương mại nói chung còn đối với pháp luật về tự vệ thương mại nói riêng mà cụ thể ở đây là Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam thì tôi xin có một vài kiến nghị sau đây:
Thứ nhất, Pháp lệnh về tự vệ chỉ quy định về quyền tự vệ của Việt Nam mà chưa đề cập đến các quy định trong trường hợp nào thì Việt Nam sẽ áp dụng biện pháp trả đũa một nước nếu như nước đó đã áp dụng biện pháp tự vệ không có căn cứ hoặc điều kiện áp dụng trái với nguyên tắc và quy định trong các Hiệp định song phương giữa nước đó với Việt Nam. Mặc dù thực tiễn cho thấy Việt Nam chỉ là một đối tác nhỏ bé với lượng hàng hoá chiếm một tỷ lệ rất khiêm tốn trong thương mại quốc tế, trong các tranh chấp thương mại thì bao giờ xu hướng bất lợi cũng nghiêng về phía Việt Nam song việc bổ sung quy định này vào Pháp lệnh trong thời gian tới hoặc xây dựng riêng một văn bản về trả đũa trong thương mại là vô cùng cần thiết để bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam.
Thứ hai, Pháp lệnh của ta quy định rằng các biện pháp tự vệ sẽ được rút ngắn trên cơ sở kết quả rà soát của Bộ Thương mại. Việc rà soát này chỉ được thực hiện sau một nửa thời gian áp dụng biện pháp tự vệ đó là 3 năm. Trong khi đó theo tinh thần của Hiệp định về các biện pháp tự vệ thì biện pháp tự vệ sẽ được áp dụng nhưng theo hướng giảm dần mức độ áp dụng mà không cần dựa trên kết quả rà soát nếu như biện pháp tự vệ có thời hạn áp dụng trên 1 năm và dưới 3 năm. Còn trong trường hợp trên 3 năm thì phải tiến hành rà soát biện pháp tự vệ đó trước khi nới lỏng theo như quy định trong Pháp lệnh. Theo tôi, việc nới lỏng mức độ áp dụng biện pháp tự vệ theo thời gian áp dụng là cần thiết cho phù hợp với luật pháp quốc tế chứ không nên quy định một cách cứng nhắc như ở trong Pháp lệnh của ta.
Thứ ba theo quy định của Pháp lệnh tự vệ thì các biện pháp tự vệ được áp dụng không phân biệt đối xử và không phân biệt xuất xứ hàng hoá trừ trường hợp ngoại lệ là các biện pháp tự vệ có thể không áp dụng đối với hàng hoá có xuất xứ từ những nước kém phát triển. Về mặt lý luận, quy định này phù hợp với các quy tắc và thông lệ của các nước trên thế giới cũng như của WTO. Tuy nhiên trên thực tế việc áp dụng quy định này lại nảy sinh ra một số khó khăn nhất định chẳng hạn như trong số các nước có lượng hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam thì chỉ có một số nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh trong khi thị phần nhập khẩu của các nước khác không tăng thậm chí còn giảm đi. Việc áp dụng biện pháp hạn ngạch dựa trên tỷ lệ hàng hoá nhập khẩu sẽ gây bất lợi đối với một số nước có lượng nhập khẩu vaò Việt Nam giảm đi trong khi những nước có lượng nhập khẩu tăng mạnh thì sẽ ít bị ảnh hưởng hơn bởi quyết định của nước áp dụng biện pháp tự vệ, Chúng ta cần thiết phải nghiên cứu bổ sung thêm ngoại lệ này bằng cách đưa thêm vào Pháp lệnh quy định việc phân bổ hạn ngạch, thoả thuận áp dụng hạn ngạch chỉ đối với một số nước có thị phần nhập khẩu tăng lên một cách tuyệt đối hay tương đối so với lượng nhập khẩu trung bình trong khoảng thời gian 3 năm trước đó. Hơn nữa chúng ta cũng nên quy định bổ sung thêm vào khoản 2 điều 21 Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trường hợp nếu thị phần nhập khẩu từ các nước kém phát triển vượt quá bao nhiêu phần trăm thì có thể vẫn áp dụng một biện pháp tự vệ nhằm mục đích kiểm soát được lượng hàng hoá nhập khẩu từ những nước này.
3.2.2.1.2 Nâng cao nhận thức của cơ quan nhà nước và doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại
Vấn đề tự vệ thương mại là một vấn đề còn rất mới mẻ trong nhận thức của các cơ quan từ cấp Nhà nước xuống cấp doanh nghiệp của Việt Nam. Từ trước khi ban hành Pháp lệnh về tự vệ năm 2002 trở về trước, ở Việt Nam chưa hề có một văn bản bản nào quy định hay giải thích về vấn đề này. Sự hiểu biết về vấn đề liên quan đến các biện pháp tự vệ ngay trong các cơ quan và công chức hoạch định chính sách thương mại cũng còn rất hạn chế huống chi là cấp doanh nghiệp địa phương. Kể từ khi ban hành Pháp lệnh tự vệ tháng 5 năm 2002 đến nay thì tình hình đã được cải thiện đôi chút. Chúng ta đã biết được những khái niệm cơ bản nhất về các biện pháp tự vệ. Tuy nhiên sự nhận thức về vấn đề này còn chưa phổ biến và chưa thực sự có chiều sâu. Việc nhầm lẫn hay đồng nhất giữa các biện pháp tự vệ với các biện pháp bảo hộ khác như biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp…vẫn còn thường xuyên và phổ biến. Do đó trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ như hiện nay việc nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước nói chung và các doanh nghiệp nói một cách cụ thể là hết sức cần thiết. Các cơ quan nhà nước có thẩm quyền của chúng ta như Bộ Thương mại, Bộ Tài chính và các Bộ liên quan khác đã nhận thức được tầm quan trọng cũng như là sự cần thiết phải xây dựng và ban hành một chính sách tự vệ thương mại của riêng Việt Nam để chuẩn bị cho tiến trình hội nhập quốc tế một cách phù hợp và an toàn. Song như thế chưa đủ, thực tế thương mại rất phong phú đa dạng và luôn luôn biến động, các vấn đề mới phát sinh ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Những gì chúng ta đã có sẽ sớm trở nên lạc hậu cứng nhắc. Do vậy cùng với việc nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước để góp phần làm cho hệ thống chính sách thương mại nói chung và tự vệ nói riêng của chúng ta trở nên linh hoạt, hiệu quả và ngày càng hoàn thiện hơn, thì việc nâng cao nhận thức cho các doanh nghiệp cũng cần phải được chú trọng nhằm làm cho các doanh nghiệp hiểu rõ hơn, hiểu toàn diện hơn bản chất của vấn đề trên cơ sở đó có thể tự hoạch định ra cho mình hướng đi và cách làm phù hợp nhất để vừa không trái với nguyên tắc luật lệ chung vừa tận dụng được nhiều cơ hội và thuận lợi nhất.
Để nâng cao nhận thức của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp về công tác tự vệ thương mại thì chúng ta phải xúc tiến tổ chức nhiều hơn nữa các chương trình, hội thảo bàn về công tác này, học tập và nghiên cứu các kinh nghiệm áp dụng và tiến hành tự vệ của các nước bạn, tổ chức các khoá đào tạo cho các quan chức chính phủ và cho các cá nhân trong ngành thương mại và công nghiệp để giúp họ làm quen hoàn toàn với yêu cầu về điều kiện, trình tự, thủ tục điều tra và các trình tự tiến hành tự vệ…vv
3.2.2.1.3 Xây dựng và kiện toàn bộ máy Nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại
Để có thể áp dụng các biện pháp tự vệ cần có một cơ quan chuyên trách chịu trách nhiệm các khâu từ khâu nhận hồ sơ, tiến hành các công việc điều tra, ra quyết định liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ và các công tác khác như thu thập thông tin, tổ chức các buổi tham vấn, nghiên cứu…vv. Theo quy định của Pháp lệnh về tự vệ thì Bộ Thương mại là cơ quan đầu mối thực hiện các công việc trên, phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Thương mại đã được Chính phủ giao. Trên thực tế đa số các nước đều theo mô hình này nhưng cũng có nước chọn mô hình cơ quan chịu trách nhiệm là một cơ quan liên ngành. Nếu theo mô hình cơ quan liên ngành thì tổ chức bộ máy sẽ cồng kềnh dẫn đến việc điều phối sẽ khó khăn hơn. Còn ở Việt Nam, tuy Bộ Thương mại là cơ quan đầu mối chuyên trách có thẩm quyền điều tra và áp dụng biện pháp tự vệ song Bộ này cũng cần phải phối hợp chặt chẽ với một số Bộ ngành hữu quan khác đặc biệt là Bộ Tài chính, các Bộ chuyên ngành phụ trách các ngành sản xuất, Tổng cục Hải quan, Tổng cục Thống kê… Trên cơ sở đó, Bộ Thương mại sẽ phải lập ra một Nhóm chuyên trách hoặc Nhóm đặc trách theo vụ việc gồm các thành viên đại diện của các Bộ ngành nói trên. Nhóm này sẽ thực hiện chức năng điều tra, đề xuất biện pháp áp dụng và thực thi các công việc liên quan đến việc áp dụng các biện pháp tự vệ.
Vấn đề thành lập cơ quan trực thuộc Bộ Thương mại chuyên quản lý và điều tra, giám sát việc thực hiện các biện pháp tự vệ cần phải được xúc tiến nhanh và phải đảm bảo hoạt động của các cơ quan này không bị chi phối từ phía Chính phủ cũng như các doanh nghiệp, không bị chồng chéo về thẩm quyền với các cơ quan khác và quan trọng là phải đảm bảo được tình hình nhân sự trong hoàn cảnh hiện nay khi chúng ta đang cải cách bộ máy nhà nước sao cho gọn nhẹ mà hoạt động vẫn có hiệu quả. Như vậy vấn đề này cần được Chính phủ sớm quy định cụ thể trong văn bản hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này.
3.2.2.1.4 Tư vấn và hỗ trợ các doanh nghiệp những thông tin về tự vệ thương mại
Vấn đề thông tin trong thời đại hiện nay không còn là một vấn đề nan giải như trước đây. Ngày nay nhờ vào các phương tiện thông tin đại chúng phổ biến như truyền thanh, truyền hình, mạng Internet…chúng ta có thể có được bất kỳ thông tin cần thiết vào bất kỳ lúc nào và bất cứ ở đâu. Vấn đề đặt ra ở đây là làm thế nào để có được những thông tin chuẩn xác, cụ thể, thiết thực và hữu ích cho vấn đề mà chúng ta đang nghiên cứu. Cụ thể ở đây là vấn đề tự vệ thương mại. Vì đây là một chủ đề còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt Nam nên thông tin về vấn đề này ở Việt Nam còn rất hạn chế và sơ sài. Do đó các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần sớm ban hành những văn bản thông tin có liên quan đến vấn đề tự vệ thương mại trong nước và quốc tế để nâng cao sự hiểu biết cho các doanh nghiệp về vấn đề này đồng thời cũng để hướng dẫn, tư vấn các doanh nghiệp trong việc nhận biết các nguy cơ, điều kiện để áp dụng biện pháp tự vệ cũng như các thủ tục cần thiết để yêu cầu áp dụng tự vệ và các nghĩa vụ cần phải làm để trợ giúp các cơ quan chức năng trong quá trình điều tra áp dụng biện pháp tự vệ đó. Ngoài ra việc thông tin đầy đủ, tư vấn kịp thời cho các doanh nghiệp cũng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp nâng cao nhận thức của mình về chính sách cơ chế tự vệ thương mại ở Việt Nam cũng như thực tiễn áp dụng trên thế giới để từ đó hoạt động có hiệu quả hơn, tận dụng được những cơ hội ưu đãi, trợ giúp đồng thời tránh được những thiệt hại đáng tiếc cho doanh nghiệp mình.
3.2.2.2 Đối với doanh nghiệp ( ở tầm vi mô)
3.2.2.2.1 Tham gia vào các Hiệp hội Doanh nghiệp để tăng cường sức mạnh trong tự vệ thương mại
Hiện nay ở Việt Nam, Hiệp hội các doanh nghiệp cùng ngành nghề đã ra đời. Việc thành lập này có ý nghĩa rất quan trọng khi xảy ra tranh chấp thương mại với các doanh nghiệp nước ngoài vì rằng các doanh nghiệp của chúng ta thường hoạt động một cách độc lập, không dựa trên cơ sở liên kết ngành nghề do đó việc tương trợ lẫn nhau khi xảy ra tranh chấp với bên nước ngoài là rất khó khăn. Thực trạng hiện nay là tuy các doanh nghiệp đã hợp tác với nhau trong các hoạt động thương mại quốc tế nhưng sự hợp tác này chỉ dựa trên mức độ nhất định, còn nặng về quản lý hành chính và mang tính “câu lạc bộ” chứ chưa thực sự là nơi các chủ doanh nghiệp có thể tin tưởng trao cho nó những thẩm quyền nhất định. Qua các vụ kiện về bán phá giá cá tra, cá ba sa với Hoa Kỳ, vụ bán phá giá bật lửa ga với Hàn quốc, vụ giầy dép với Canada.. chúng ta hơn lúc nào hết ý thức được rằng việc thành lập các Hiệp hội cùng ngành nghề hay Hiệp hội doanh nghiệp là rất cần thiết, trước là để cung cấp các thông tin pháp lý và tập quán thương mại của thị trường nước ngoài cho các doanh nghiệp trong nước để họ có được những điều chỉnh phù hợp, tránh được những tranh chấp thương mại bất lợi cho chúng ta, sau là tham gia bảo vệ quyền lợi của các doanh nghiệp Việt Nam khi xảy ra tranh chấp với đối tác nước ngoài. Đặc biệt yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ thường do tập hợp các doanh nghiệp cùng ngành nghề yêu cầu nên cũng cần xây dựng các quy tắc pháp lý chặt chẽ để tránh trường hợp các doanh nghiệp lợi dụng kẽ hở pháp luật để thủ tiêu cạnh tranh và gây ra cản trở thương mại, ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế của Việt Nam.
3.2.2.2.2 Chủ động tiếp cận và chuẩn bị đầy đủ kiến thức về tự vệ thương mại để sử dụng khi cần thiết tiến hành tự vệ
Việc tiếp cận và tự tranh bị cho mình những kiến thức về tự vệ thương mại ở các doanh nghiệp Việt Nam chưa thực sự được quan tâm và chú trọng đúng mức. Thực tế ở Việt Nam trong thời gian qua cho thấy tuy chúng ta chưa thực sự tiến hành bất cứ biện pháp nào dưới danh nghĩa tự vệ thương mại nhưng đã có một số ngành nghề xuất khẩu của chúng ta bị phía nước ngoài áp dụng biện pháp tự vệ và gây ra không ít khó khăn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của ta, và chỉ trong doanh nghiệp xuất khẩu nào bị ảnh hưởng, tác động bất lợi bởi việc áp dụng biện pháp tự vệ của phía nước ngoài thì mới có nhu cầu tìm hiểu và trang bị cho mình những kiến thức về tự vệ thương mại. Đây thực sự là một nhược điểm của các doanh nghiệp Việt Nam cần sớm được khắc phục. Các doanh nghiệp nên sớm tạo cho mình thế chủ động trong mọi tình huống. Bên cạnh sự trợ giúp của các cơ quan nhà nước hay các Hiệp hội cùng ngành nghề thì các doanh nghiệp cũng cần phải tự tìm hiểu và tự chuẩn bị cho mình đầy đủ các thông tin kiến thức về chủ trương chính sách tự vệ thương mại của nước ta nói riêng và tình hình tự vệ thương mại của thế giới nói chung để trên cơ sở đã hiểu sâu bản chất, nắm bắt kịp thời vấn đề thì các doanh nghiệp có thể chủ động đối phó lại với những tình huống khi bị nước khác áp dụng biện pháp tự vệ cũng như khi cần thiết phải yêu cầu Nhà nước ta sử dụng biện pháp tự vệ để bảo vệ quyền và lợi ích của doanh nghiệp nói riêng, của quốc gia nói chung.
3.2.2.2.3 Khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ hồ sơ, bằng chứng để yêu cầu tiến hành áp dụng biện pháp tự vệ hay biện pháp trả đũa
Các doanh nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc điều tra để áp dụng biện pháp tự vệ bởi vì đây là những đối tượng chịu ảnh hưởng trực tiếp của việc hàng hoá nhập khẩu gia tăng hay chịu tác động bất lợi trực tiếp bởi việc áp dụng các biện pháp tự vệ của các nước khác. Doanh nghiệp là những nhân tố chính trong cuộc điều tra và đưa ra những bằng chứng trong quá trình điều tra, chính vì vậy các doanh nghiệp cần thiết phải có những hành động sau:
Phải giám sát thường xuyên tác động của hàng nhập khẩu đối với ngành công nghiệp nội địa. Phải thông báo ngay lập tức khi có sự thiệt hại nghiêm trọng hay sự đe dọa gây ra thiệt hại nghiêm trọng xuất phát từ việc gia tăng của lượng hàng nhập khẩu. Các doanh nghiệp phải tiếp xúc với cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước mà cụ thể ở đây là Bộ Thương mại để đưa đơn kiến nghị và yêu cầu điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ.
Khi công việc điều tra bắt đầu các doanh nghiệp chịu trách nhiệm chính trước ngành sản xuất nội địa về việc khẩn trương tìm hiểu, chuẩn bị đầy đủ và cung cấp các bằng chứng liên quan đến thiệt hại nghiêm trọng và mối quan hệ nhân quả giữa việc gia tăng nhập khẩu và sự tổn hại nghiêm trọng cho Bộ Thương mại.
Để đề phòng việc áp dụng biện pháp tự vệ của một nước khác, các doanh nghiệp cũng nên thiết lập một hệ thống thu thập, thống kê định kỳ về việc sản xuất và buôn bán các sản phẩm nhạy cảm ở các nước khác. Việc theo dõi những mặt hàng và thông tin đăng tải trên báo chí cũng rất hữu ích. Tất cả những thông tin đó có thể cảnh báo trước cho họ về một cuộc điều tra áp dụng biện pháp tự vệ sắp được tiến hành.
Khi công việc điều tra được tiến hành, các doanh nghiệp phải trình bày vấn đề trước các cơ quan có thẩm quyền cho nên họ cần chuẩn bị đầy đủ bằng chứng, chứng cứ, thông tin, ý kiến đóng góp…để sử dụng khi cần thiết. Những thông tin thu thập được theo cách trên rất hữu ích trong trường hợp này.
3.2.2.3 Một số kiến nghị khác
Thứ nhất là Pháp lệnh về tự vệ trong việc nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam ra đời được hơn một năm nhưng vẫn chưa có văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ và cơ quan chuyên trách về lĩnh vực tự vệ thương mại chịu sự quản lý của Bộ Thương mại cũng chưa ra đời cho đến thời điểm hiện nay. Do đó việc sớm ban hành Nghị định hướng dẫn thi hành Pháp lệnh sẽ cụ thể hoá được các quy định trong Pháp lệnh, tránh được việc áp dụng không đúng với tinh thần chung của pháp luật Việt Nam về tự vệ thương mại.
Thứ hai là để thực hiện tốt công tác tự vệ thương mại trong thời gian tới thì không chỉ Bộ Thương mại- là cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ và các doanh nghiệp trong ngành sản xuất nội địa chịu tác động của việc gia tăng hàng nhập khẩu là có liên quan và có trách nhiệm thực hiện tốt vấn đề này mà các Bộ ban ngành khác có thẩm quyền đối với ngành sản xuất bị ảnh hưởng như: Bộ Tài Chính, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thônh, Bộ Thuỷ Sản…cũng có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ hay trực tiếp tham gia cùng với các cơ quan chức năng chuyên trách và các đối tượng chính của vụ việc.
Thứ ba là cơ chế tự vệ thương mại này chỉ nên sử dụng trong trường hợp thực sự cần thiết và chỉ nên áp dụng cho một số ngành nhạy cảm và quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Đó phải là những ngành mà nếu bị thiệt hại thì sẽ gây ra những tác động xấu đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Do đó khi thu nhận hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ của một ngành sản xuất thì Bộ Thương mại phải suy xét và cân nhắc cẩn thận về việc có thật sự cần thiết phải tiến hành điều tra, áp dụng biện pháp tự vệ đối với ngành sản xuất đó không hay chỉ cần sử dụng một số hạn chế đơn giản hoặc chỉ cần đàm phán, sửa đổi một số cam kết… Bởi một khi đã tuyên bố áp dụng biện pháp tự vệ thì nguy cơ bị trả đũa thương mại là rất cao. Và trong một số trường hợp thì thiệt hại do bị trả đũa thương mại khi áp dụng biện pháp tự vệ còn lớn hơn và nghiêm trọng hơn thiệt hại gây ra bởi việc gia tăng hàng nhập khẩu. Trong bối cảnh Việt Nam là một nước nhỏ bé, tiềm lực kinh tế chưa mạnh, lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường quốc tế là không đáng kể, lại mới tiến hành mở cửa được hơn 10 năm nay với vị thế trên trường quốc tế còn rất khiêm tốn thì vấn đề này lại càng phải được các cơ quan có thẩm quyền quan tâm, xem xét đến nhiều hơn.
Kết luận
Tổ chức thương mại thế giới đã quy định về các biện pháp tự vệ trong Điều XIX và hành động tự vệ khẩn cấp của Hiệp định chung về thuế quan và thương mại GATT 1994, được cụ thể hoá trong Hiệp định về các biện pháp tự vệ của Tổ chức thương mại thé giới. Hầu hết các nước trên thế giới đều đã có luật quy định về cơ chế tự vệ của nước mình, hay chấp nhận và thực thi Hiệp định về các biện pháp tự vệ của WTO. Ngay trong phạm vi các khu vực mậu dịch tự do mà AFTA là một ví dụ, cũng có quy định cho phép các nước thành viên áp dụng các biện pháp tự vệ khi có sự gia tăng nhập khẩu gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Như vậy có thể nói các biện pháp tự vệ giống như chiếc van an toàn, hợp pháp nhằm bảo vệ nền kinh tế ngay trong trường hợp thương mại diễn ra lành mạnh.
Còn đối với Việt Nam chúng ta, tuy đã có những thay đổi to lớn trong những năm vừa qua nhưng nếu so sánh với các nước khác trong khu vực thì trình phát triển của chúng ta vẫn còn thua họ một khoảng cách khá xa. Do vậy, cần có một sự bảo hộ nói chung và một cơ chế tự vệ nói riêng cho các ngành sản xuất trong nước vì tương lai của nền kinh tế quốc nội. Tuy nhiên, cần bảo hộ tự vệ một cách có điều kiện, không tràn lan, nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong nước phát triển nhưng không làm cho người sản xuất ỷ lại vào chính sách bảo hộ mậu dịch và tự vệ thương mại, dẫn tới thói quen cẩu thả lãng phí và mất đi khả năng thích ứng linh hoạt. Chính sách bảo hộ và tự vệ cũng cần phải giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa lợi ích của người sản xuất và lợi ích của người tiêu dùng.
Để việc bảo hộ nền sản xuất trong nước có hiệu quả thông qua các biện pháp tự vệ và để các doanh nghiệp trong nước thực sự phát triển và có đủ sức cạnh tranh trong điều kiện thị trường tự do sắp tới thì Nhà nước ta một mặt cần phải xây dựng và hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp lý về thương mại nói chung và tự vệ thương mại nói riêng, xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước chuyên trách trong lĩnh vực tự vệ thương mại, Mặt khác cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp thông qua các hình thức như thành lập các trung tâm xúc tiến mậu dịch với nhiệm vụ xúc tiến đầu tư, hỗ trợ các doanh nghiệp thâm nhập thị trường và tìm kiếm bạn hàng mới.
Các quyền lợi riêng khi áp dụng biện pháp tự vệ sẽ tạo ra cho quốc gia đó một lợi thế nhất định, nhưng trong những điều kiện riêng biệt nó sẽ triệt tiêu cạnh tranh, đe doạ sự tiến bộ và phát triển của các ngành sản xuất, duy trì sự ỷ lại của nền kinh tế quốc nội. Do yêu cầu thương mại quốc tế hiện nay mà các nước cần phải từng bước hạn chế và dỡ bỏ dần sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp của mình, tạo điều kiện cho giao lưu thương mại được phát triển.
Riêng đối với Việt Nam, đây cũng là một thách thức không nhỏ nhất là khi ở nước ta các doanh nghiệp vốn đã quen được bảo hộ, trợ cấp, nền kinh tế đang chuyển đổi còn chưa ổn định, sức cạnh tranh chưa cao. Khó khăn mà chúng ta gặp phải trong thời gian tới chắc chắn không phải là ít nhưng nếu vượt qua được những trở ngại đó thì chúng ta không những có thể trụ vững ở thị trường trong nước mà còn có thể có được chỗ đứng trên thị trường thế giới rộng lớn. Trong điều kiện như vậy việc duy trì mức độ bảo hộ hợp lý thông qua các biện pháp tự vệ và một số biện pháp khác vẫn là cần thiết cho sự phát triển bền vững về lâu dài của nền kinh tế xã hội nước ta.
Danh mục tài liệu tham khảo
Văn bản pháp luật
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại- GATT 1994
Hiệp định về các biện pháp tự vệ.
Hiệp định về việc thực thi Điều VI của Hiệp định GATT.
Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam 2002
Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế 2002.
Nghị định 57/1998/NĐ-CP ngày 31 tháng 7 năm 1998 quy định chi tiết thi hành luật thương mại về hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với thương nhân nước ngoài.
Điều khoản 201- Luật thương mại Hoa Kỳ 1974 (19 USC 2251 et sed.)
Quy chế số 3285/94/EC- Quy chế về các biện pháp tự vệ của EU (Bản tiếng Pháp)
Quy tắc chung về tự vệ thương mại của Trung Quốc (Bản tiếng Pháp)
Quy tắc về những biện pháp khẩn cấp khi có sự gia tăng hàng nhập khẩu và Sắc lệnh liên bộ về thuế nhập khẩu đặc biệt áp dụng cho hàng hoá nhập khẩu quá mức vào Nhật (Bản tiếng Pháp).
Sách và tạp chí tham khảo
Tổ chức thương mại thế giới (WTO)- Bộ Ngoại Giao, Vụ Hợp tác kinh tế đa phương, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2000
Hướng dẫn doanh nghiệp về hệ thống thương mại thế giới- Trung tâm thương mại quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001
Việt Nam hội nhập trong xu thế toàn cầu hoá, vấn đề và giải pháp- Bộ Ngoại Giao, Vụ Hợp tác Kinh tế đa phương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002.
Những điều cần biết về Tổ chức thương mại thế giới và tiến trình gia nhập của Việt Nam- Bộ Thương mại, Viện nghiên cứu thương mại, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998.
Hỏi đáp về WTO- Trần Thanh Hải, Uỷ ban Quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2002
Chính sách thương mại trong điều kiện hội nhập- Hoàng Văn Thân, Đại học kinh tế quốc dân, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 2001
Gia nhập WTO, cơ hội và thách thức- Mai Phương Hoa, Tạp chí nghiên cứu Lập pháp số 2/2003.
Hàng rào phi thuế quan và yêu cầu của Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ- Bùi thị Bích Liên, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 8/2003
Bán phá giá và biện pháp, chính sách chống bán phá giá hàng nhập khẩu,-Đoàn Văn Trường, Nhà xuất bản Thống kê 1998.
Tài liệu Hội thảo về Pháp lệnh đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia, Pháp lệnh về tự vệ trong thương mại quốc tế, Nhà Pháp luật Việt- Pháp 2001.
Giới thiệu nội dung hai Pháp lệnh: Pháp lệnh về đối xử Tối huệ quốc và đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế và Pháp lệnh về tự vệ trong nhập khẩu hàng hoá nước ngoài vào Việt Nam- Tài liệu phục vụ họp báo ngày 11/6/2002, Phòng WTO- Bộ Thương mại
Hệ thống thương mại thế giới- Luật và chính sách về các quan hệ kinh tế quốc tế- Jonh. H. Jackson, Bản dịch của Phạm Viên Phương và Huỳnh Văn Thanh, Nhà xuất bản Thanh Niên 2001.
Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc tế- Trường Đại học Luật Hà nội, Nhà xuất bản Công an nhân dân 2001.
Pháp luật kinh doanh theo Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa kỳ- Phạm Minh, Nhà xuất bản Thống kê 2001
Phác thảo nền kinh tế Mỹ (Outline of the US economy)- Dịch giả Thế Hoà, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2003.
Hướng dẫn tiếp cận thị trường Hoa Kỳ- Bộ Thương mại, Nhà xuất bản Thống kê 2001
Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế- Trung tâm KHXH & Nhân văn Quốc gia- Trung tâm nghiên cứu Bắc Mỹ, Nhà xuất bản Khoa học xã hội 2003
Cẩm nang cho các doanh nghiệp thâm nhập thị trường Trung Quốc- Viện nghiên cứu thương mại, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2001
Chính sách ngoại thương Nhật Bản- Bùi Xuân Lưu và Trần Quang Minh, Nhà xuất bản Giáo dục 2001
Kinh doanh với thị trường Nhật Bản- Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Nhà xuất bản Lao động 2001
Droit international économique- Patrick Juillard & Dominique Carreau. L.G.D.J, Paris 1998
L’organisation mondiale du Commerce- Droit institutionnel et subtantiel du GATT/ OMC- Thiébaut Flory, Bruyant Bruxelles 1999
Business Guide to the world trading system, Gary C. Hufbauer & Kimberly A. Elliot, 1996
Tạp chí Nghiên cứu Châu âu các số từ năm 2000 đến 2003
Thời Báo Kinh tế Việt Nam các số từ năm 2000 đến 2003 (www.vneconomy.com.vn)
Tạp chí Cộng sản năm 2002 (www.tapchicongsan.org.vn)
Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc các số từ năm 1998 đến 2003
Các Tài liệu, thông tin, số liệu tham khảo khác từ các trang Web sau:
www.wto.org
www.europa.eu.int
www.usitc.gov.com
www.mot.gov.vn
www.dei.gov.vn
www.vcci.com.vn
www.vietrade.gov.vn
www.mofa.gov.vn
www.media.vcd.com
www.smenet.com.vn
…vv
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các biện pháp tự vệ trong thương mại quốc tế - Thực tiễn sử dụng ở một số nước trên thế giới và Việ_.Doc