Bước đầu ứng dụng kĩ thuật sinh học phân tử để đánh giá sự lưu hành của một số chủng Pseudomonas aeruginosa và Staphilococcus aureus gây nhiễm trùng bệnh viện tại bệnh viện Đa khoa trung uơng Thái Nguyên
Molecular biology is microorganism-classified methods for quick results, with high accuracy. It
has widely applied in biomedical research to control of microorganism causing the disease. To
control that microorganism, the first is determining exactly microbial strain.
In this study, from 4 genera P. aeruginosa and 4 genera S. aureus were isolated at Thai Nguyen
Central General Hospital, we analyzed genome structure of these 4 strains by the RAPD technique to
determine how strains differ among these isolated. Then, we carried out amplify the 16S - rRNA of
the determined strains by PCR technique in order to serve gene sequencing and to name them by
molecular biology. Result, using RAPD technique with the use of random primers, we may have
identified 2 P. aeruginosa strains and 3 S. aureus strains in the isolated strains at the hospital. In
addition, by PCR technique, we successfully amplified the coding genes for 16S - rRNA of identified
strains.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 470 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu ứng dụng kĩ thuật sinh học phân tử để đánh giá sự lưu hành của một số chủng Pseudomonas aeruginosa và Staphilococcus aureus gây nhiễm trùng bệnh viện tại bệnh viện Đa khoa trung uơng Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
91
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
BƢỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KĨ THUẬT SINH HỌC PHÂN TỬ ĐỂ ĐÁNH GIÁ
SỰ LƢU HÀNH CỦA MỘT SỐ CHỦNG PSEUDOMONAS AERUGINOSA VÀ
STAPHILOCOCCUS AUREUS GÂY NHIỄM TRÙNG BỆNH VIỆN
TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG THÁI NGUYÊN
1
Nguyễn Phú Hùng, 2Nguyễn Đắc Trung
1Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên,
2Trường Đại học Y-Dược- ĐH Thái Nguyên)
TÓM TẮT
Ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử là phƣơng pháp có hiệu quả cao trong việc đánh giá bản chất
di truyền và định loại vi sinh vật. Các phƣơng pháp này ngày càng đƣợc sử dụng rộng rãi trong các
nghiên cứu y sinh học, kiểm soát sự lƣu hành của các vi sinh vật gây bệnh. Trong nghiên cứu này, từ
các 4 chủng P. aeruginosa và 4 chủng S. aureus đã đƣợc phân lập tại bệnh viện Đa khoa Trung ƣơng
Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành phân tích sự tƣơng đồng trong cấu trúc genome giữa các chủng của
mỗi loài bằng kỹ thuật RAPD nhằm xác định sơ bộ xem thực chất có bao nhiêu chủng khác nhau về
cấu trúc di truyền trong số các chủng đƣợc phân lập. Sau đó, tiến hành nhân gen 16S - rRNA của các
chủng bằng kỹ thuật PCR nhằm phục vụ cho việc đọc trình tự và định tên chủng bằng phân loại học
phân tử . Kết quả, bằng kỹ thuật RAPD với việc sử dụng các mồi ngẫu nhiên khác nhau, chúng tôi đã
xác định đƣợc có thể có 2 chủng P. aeruginosa và 3 chủng S. aureus khác nhau có mặt trong số các
chủng phân lập tại bệnh viện. Bằng kỹ thuật PCR, chúng tôi đã khuếch đại thành công đoạn gen mã
hóa cho 16S - rRNA thuộc các chủng đã đƣợc xác định.
Từ khóa: Tương đồng di truyền, RAPD, PCR, Nhiễm trùng bệnh viện.
*ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm trùng bệnh viện (NTBV) là trƣờng
hợp nhiễm trùng mắc phải trong bệnh viện
khi nằm điều trị, làm việc hoặc chăm sóc
bệnh nhân. Theo thống kê, số ngƣời bị mắc
NTBV ngày càng tăng, không chỉ riêng ở các
bệnh viện Việt Nam mà đây còn là thực trạng
chung đối với nhiều bệnh viện trên thế giới.
Các tác nhân gây NTBV thƣờng là các vi sinh
vật nhƣ vi khuẩn, virus, các loại ký sinh trùng
và nấm. Khoảng 90% trong số đó là vi khuẩn.
Trong đó, Pseudomonas aeruginosa và
Staphylococcus aureus đƣợc đánh giá là các
đối tƣợng gây NTBV hàng đầu và rất nguy
hiểm. Nhiễm trùng do P. aeruginosa và S.
aureus rất khó điều trị vì chúng có khả năng đề
kháng cao với các loại thuốc sát khuẩn cũng
nhƣ hầu hết các loại kháng sinh thông dụng.
Đây là các loại vi khuẩn có độc lực cao và gây
nhiễm trùng cơ hội nguy hiểm. Vì vậy, công
tác đánh giá sự lƣu hành của các vi sinh vật
gây NTBV nói chung, của P. aeruginosa và S.
aureus nói riêng là vấn đề đặc biệt quan trọng
đối với tất cả các bệnh viện trên toàn thế giới.
Tại Việt Nam, vấn đề này cũng đang là mối
*Tel: 0914791904, Email: hungnguyenphu@gmail.com
quan tâm hàng đầu. Trong bài báo này chúng
tôi đã bƣớc đầu ứng dụng một số kỹ thuật sinh
học phân tử nhƣ RAPD và PCR để kiểm soát
các vi sinh vật gây NTBV - P. aeruginosa và
S. aureus tại bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên.
NGUYÊN LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Nguyên liệu nghiên cứu là các chủng P.
aeruginosa (Pa 34, Pa 45, Pa 47 và Pa 63) và
S. aureus (Sa 54, Sa 217.1, Sa 411 và Sa 220)
đƣợc phân lập từ bệnh phẩm của các bệnh
nhân bị nhiễm trùng bệnh viện tại bệnh viện
ĐKTW Thái Nguyên do Bộ môn Vi sinh vật -
Bệnh viện ĐKTW Thái Nguyên cung cấp.
Hóa chất dùng cho tách chiết DNA tổng số và
các loại hóa chất chuyên dụng dùng cho các
kỹ thuật sinh học phân tử có chất lƣợng tốt,
do các hãng có uy tín cung cấp.
Phương pháp nghiên cứu bao gồm phƣơng
pháp tách chiết DNA tổng số từ các chủng vi
khuẩn làm nguyên liệu cung cấp cho các phản
ứng RAPD để phân tích sự tƣơng đồng trong
cấu trúc genome của các chủng vi khuẩn sau
đó tiến hành PCR nhân đoạn gen mã hóa cho
16S - rRNA với cặp mồi đặc hiệu.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Phân tích sự tƣơng đồng trong cấu trúc
genome giữa cá chủng bằng kỹ thuật RAPD
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
92
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Đối với nhiễm trùng bệnh viện do trực khuẩn
P. aeruginosa và vi khuẩn S. aureus, điều đáng
lo ngại nhất là các đối tƣợng vi sinh vật này có
tính biến chủng mạnh với khả năng kháng
thuốc rất cao. Với mục đính xác định sơ bộ xác
định sơ bộ xem các chủng nghiên cứu đƣợc
phân lập tại bệnh viện Đa khoa Trung ƣơng
Thái Nguyên thực chất là thuộc một hay nhiều
chủng khác nhau, chúng tôi đã sử dụng
phƣơng pháp phân tích sự tƣơng đồng trong
cấu genome bằng kỹ thuật RAPD với 5 mồi
ngẫu nhiên: RA36, RA40, RA45, RA142 và
RA143. Các phân đoạn ngẫu nhiên bằng kỹ
thuật RAPD đƣợc điện di trên gel agarose 2%.
Kết quả điện di sản phẩm RAPD cho thấy:
Đối với tất cả các chủng P. aeruginosa đều
xuất hiện các phân đoạn đƣợc nhân lên giống
nhau khi tiến hành nhân bản với các mồi
RA40, RA45, RA142 và RA143. Riêng đối
với mồi RA36, kết cho thấy có sự khác biệt
trong cấu trúc genome giữa các chủng về số
phân đoạn đƣợc khuếch đại. Đối với mồi này,
chủng Pa 47 (đƣờng chạy số 3, hình 2a) xuất
hiện một phân đoạn đặc trƣng khác biệt với
các chủng còn lại. Rất có thể đây là một
chủng khác biệt so với các chủng còn lại.
Tƣơng tự nhƣ vậy, tất cả các chủng S. aureus
cũng đều xuất hiện các phân đoạn đƣợc nhân
bản ngẫu nhiên giống nhau khi sử dụng các
mồi RA40 và RA46 (hình 1b,1c). Nhƣng khi
sử dụng các mồi RA142 và RA143 đã cho
thấy có sự khác nhau trong cấu trúc genome
giữa các chủng. Với mồi RA142, ở tất cả các
chủng Sa 54, Sa 217.1 và Sa 411 đều xuất
hiện 3 phân đoạn đƣợc nhân bản giống nhau,
riêng chủng Sa 220 thì chỉ thấy xuất hiện một
phân đoạn duy nhất (hình 2b - đƣờng chạy số
4). Với mồi RA143, ở tất cả các chủng đều
xuất hiện 11 phân đoạn đƣợc nhân bản giống
nhau, riêng chủng Sa 411 thiếu hụt một phân
đoạn so với các chủng còn lại (Hình 2 b -
đƣờng chạy số 3). Phân tích kết quả nghiên
cứu cho phép chúng tôi rút kết luận sơ bộ nhƣ
sau, có ít nhất 2 chủng P. aeruginosa và 3
chủng S. aureus khác nhau trong số các chủng
đã phân lập tại bệnh viện Đa khoa Trung
ƣơng Thái Nguyên.
M 1 2 3 4 M 1 2 3 4 M 1 2 3 4
a b c
Hình 1. Sự đồng nhất về các phân đoạn RAPD của P. aeruginosa (a - mồi RA40)
và S. aureus (b- mồi RA40 và c-RA46)
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
93
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Phân tích sự tƣơng đồng di truyền bằng
chƣơng trình phần mềm NTSYST, chúng tôi
thu đƣợc bảng hệ số tƣơng đồng di truyền và
sơ đồ hình cây đƣợc lập theo hệ số giống
nhau (Jaccard) và kiểu phân nhóm UPGMA
nhƣ sau:
Bảng 1. Hệ số tƣơng đồng di truyền giữa 4 chủng
Pa 34, Pa 45, Pa 47 và Pa 63
Chủng
P. aeruginosa Pa 34 Pa 45 Pa 47 Pa 63
Pa 34 100%
Pa 45 100% 100%
Pa 47 93,8% 93,8% 100%
Pa 63 100% 100% 93,8% 100%
Bảng 2. Hệ số tƣơng đồng di truyền giữa 4 chủng
Sa 54, Sa 220, Sa 217.1 và Sa 411
Chủng
S. aureus
Sa 54 Sa
217.1
Sa
411
Sa 220
Sa 54 100% 100% 91,7% 83,3%
Sa 217.1 100% 100% 91,7% 83,3%
Sa 411 91,7% 91,7% 100% 75%
Sa 220 83,3% 83,3% 75% 100%
Từ kết quả phân tích sơ đồ cây hình 3 cho
thấy, ba chủng pa63, pa54 và pa34 có cùng
một gốc hay nói cách khác 3 chủng này có thể
là một chủng duy nhất nhƣng bị nhiễm sang
các bệnh nhân khác nhau. Chủng pa47 có thể
thể là chủng khác biệt so với 3 chủng nêu trên
do phân tách thành một nhánh riêng biệt.
tƣơng tự nhƣ vậy, kết quả hình 4 cho thấy có
3 nhánh khác nhau của cây phát sinh chủng
loại, rất có thể 4 chủng này thực chất là 3
chủng khác nhau trong đó Sa220 và Sa411 là
hai chủng riêng biệt còn Sa54 và Sa217.1 là
một chủng duy nhất.
Sau khi sơ bộ nhận định số lƣợng chủng khác
nhau bằng kỹ thuật phân tích đa hình RAPD,
chúng tôi tiếp tục phân lập gen 16S - rRNA từ
các chủng thuộc hai nhóm này nhằm phục vụ
cho việc xác định trình tự và định tên chủng
bằng các kỹ thuật phân loại học phân tử. Đây
là vấn đề đặc biệt quan trọng giúp cho việc
kiểm soát các chủng vi sinh vật gây bệnh.
Kết quả nhân đoạn gen 16S - rRNA của
các chủng nghiên cứu bằng kỹ thuật PCR
Để tiếp tục phân tích, định loại các chủng vi
khuẩn nêu trên, chúng tôi tiến hành phản
ứng PCR sử dụng cặp mồi đặc hiệu ChF và
ChR đƣợc thiết kế dựa trên vùng DNA mã
hóa cho phân tử 16S – rRNA. Trình tự của
cặp mồi sử dụng là:
Mồi xuôi:
(ChF):5’AGAGTTTGATCCTGGCTCAG 3’
Mồi ngƣợc
(ChR): 5’AAAGGAGGTGATCCA 3’
Hình 2. Sự khác biệt trong cấu trúc genome của một số chủng vi khuẩn: Mồi RA36 đối với chủng P.
aeruginosa (a); mồi RA142 (b) và RA143 (c) của các chủng S. aureus
M 1 2 3 4 M
a
M 1 2 3 4
b
M 1 2 3 4
c
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
94
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
0.81 0.85 0.90 0.95 1.00
Sa 54
Sa 217.1
Sa 411
Sa 220
Hình 4. Biểu đồ mô tả quan hệ di truyền của các chủng Sa 54, Sa 217.1, Sa 411, Sa 220
Theo tính toán lý thuyết, cặp mồi này cho
phép nhân đoạn gen mã hóa 16S - rRNA có
kích thƣớc khoảng 1,5kb, nhiệt độ bắt cặp
mồi là 520C. Kết quả nhân bản đƣợc kiểm
tra bằng phƣơng pháp điện di trên gel
agarose 0,8% (Hình 5 (a) và (b)). Dựa vào
marker chuẩntrong bản điện di, chúngtôi
nhận thấy ở tất cả các chủng nghiên cứu đều
xuất hiện một băng DNA có kích thƣớc
khoảng 1,5 kb, điều này hoàn toàn phù hợp
với tính toán lý thuyết. Các băng tƣơng đối
rõ và tập trung, chứng tỏ sản phẩm PCR
tƣơng đối đặc hiệu với đoạn gen mã hóa 16S
- rRNA. Sản phẩm PCR tiếp tục đƣợc chúng
tôi nhân dòng và đọc trình tự để định
loại tên khoa học của các chủng này. Nghiên
cứu này chỉ mới chỉ dừng lại ở giai đoạn thử
nghiệm trên một vài mẫu bệnh phẩm phân
lập từ bệnh nhân. Đây là tiền đề để chúng
tôi có thể tiến hành khảo sát trên một quy
mô rộng, với lƣợng mẫu lớn phân lập trên
ngƣời bệnh khi đang điều trị tại bệnh viện
cũng nhƣ các mẫu lấy từ dụng cụ y tế,
mẫu phân lập từ môi trƣờng xung quanh
bệnh viện để có thể có những nhận xét
khái quát thành phần các chủng vi sinh vật
gây bệnh, mối liên quan giữa các chủng ở
các mẫu phân lập khác nhau, trên cơ sở đó
có thể đƣa ra những đánh giá về công tác
phòng chống nhiễm trùng bệnh viện tại địa
điểm nghiên cứu.
Hình 3. Biểu đồ mô tả quan hệ di truyền của các chủng Pa 34, Pa 45, Pa 47 và Pa 63
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
95
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
KẾT LUẬN
Bằng kỹ thuật RAPD, với các mồi ngẫu nhiên
chúng tôi đã xác định đƣợc có ít nhất 2 chủng
P. aeruginosa và 3 chủng S. aureus khác nhau
trong số các chủng đƣợc phân lập tại bệnh
viện Đa khoa Trung ƣơng Thái Nguyên. Sau
đó, phân đoạn gen 16S – rRNA đã đƣợc
khuếch đại thành công bằng kỹ thuật PCR,
phục vụ cho đọc trình tự và xác định tên
chủng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Lê Huy Chính (Chủ biên) (2007), Vi sinh
vật học y học, NXB Y học HN, Hà Nội, Tr. 218-
221
[2]. Nguyễn Anh Diệp, Trần Ninh, Nguyễn
Xuân Quýnh (2007), Nguyên tắc phân loại sinh
vật, NXB KH - KT, Hà Nội
[3]. Campbell M., Mahenthiralingam E.,
Speert D.P. (2000), “Evaluation of random
amplified polymorphic DNA typing of
Pseudomonas aeruginosa”, Journal of Clinical
Microbiology, Erope, Vol. 38, No. 12, Pp. 4614-
4615
[4]. Maribel O. H., Armando G. G., Lorenzo
P. F., Rafael C.J. (2004), “RAPD-PCR
characterization of Pseudomonas aeruginosa
strains obtained from cystic fibrosis patients”,
Salud publica de Mexico, Mexico, Vol. 46, No. 2,
Pp. 149-157
[5]. Nicole R., Ute R., Henri V. and Alex
V.B. (1996), “Comparative Typing of
Pseudomonas aeruginosa by Random
Amplification of Polymorphic DNA or Pulsed-
Field Gel Electrophoresis of DNA
Macrorestriction Fragments”, Journal of Clinical
Microbiology, Erope, Vol. 40, No. 12, Pp. 3190-
3195
[6]. Philippe L., Stephane W., Laurent M.,
Nathalie D., Aziz R.L., Alain G. and Roland Q.
(2004), “Genetic features of Pseudomonas
aeruginosa isolates from cystic fibrosis patients
compared with those of isolates from other
origins”, The Journal of Medical Microbiology,
France, No. 53, Pp. 73-81
Hình 5. Hình ảnh điện di sản phẩm nhân bản đoạn gen mã hóa cho 16S - rRNA bằng kỹ thuật PCR
của các chủng P. aeruginosa (a) và S. aureus (b)
M 1 2 3 4
a
M 1 2 3 4
b
1.5 kb
1.5 kb
Nguyễn Phú Hùng và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 64(02): 91 - 96
96
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
THE FIRST USING SOME MOLECULAR TECHNIQUES TO EVALUATE
CIRCULATION OF SOME STRAINS OF PSEUDOMONAS AERUGINOSA
AND STAPHILOCOCCUS AUREUS AT THAI NGUYEN CENTRAL GENERAL
Nguyen Phu Hung
2
College of Science – Thai Nguyen University
SUMMARY
Molecular biology is microorganism-classified methods for quick results, with high accuracy. It
has widely applied in biomedical research to control of microorganism causing the disease. To
control that microorganism, the first is determining exactly microbial strain.
In this study, from 4 genera P. aeruginosa and 4 genera S. aureus were isolated at Thai Nguyen
Central General Hospital, we analyzed genome structure of these 4 strains by the RAPD technique to
determine how strains differ among these isolated. Then, we carried out amplify the 16S - rRNA of
the determined strains by PCR technique in order to serve gene sequencing and to name them by
molecular biology. Result, using RAPD technique with the use of random primers, we may have
identified 2 P. aeruginosa strains and 3 S. aureus strains in the isolated strains at the hospital. In
addition, by PCR technique, we successfully amplified the coding genes for 16S - rRNA of identified
strains.
Từ khóa: RAPD, PCR, genetic Similarity, hospital Infections, 16S - rRNA.
2 Tel: 0914791904; Email: hungnguyenphu@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3755_9773_buocdauungdungkithuatsinhhocphantu_014_2052887.pdf