Bước đầu nghiên cứu thiết kế hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên
Hình 1: Sơ đồ công nghệ XLNT bằng mương ôxi hóa
Sau khi nước thải qua song chắn rác được dẫn
vào hố thu. Từ hố thu nước thải được bơm lên
ngăn tiếp nhận để lấy cao trình. Sau đó nước
thải cho tự chảy vào bể lắng cát qua hệ thống
van điều lưu để đảm bảo vận tốc dòng chảy,
để không gây sự xáo trộn trong bể lắng cát. Ở
bể lắng cát thực hiện quá trình lắng cát và các
chất rắn vô cơ không tan có kích thước từ 0,2
- 2 mm có trong nước thải, thời gian lưu nước
trong bể khoảng 30-60s để tránh hiện tượng
lắng và phân hủy các chất hữu cơ ở bể lắng
cát. Nước thải sau khi ra khỏi bể lắng cát
được dẫn vào bể điều hòa, tại bể điều hòa
thực hiện quá trình ổn định nồng độ và lưu
lượng nước thải. Tránh hiện tượng đột biến về
nồng độ và lưu lượng trong ngày khi nhu cầu
sử dụng nước thay đổi theo nhu cầu sinh hoạt.
Sau đó nước thải được dẫn sang bể lắng cấp
một. Tại bể lắng cấp một thực hiện quá trình
lắng làm giảm một lượng các chất hữu cơ
trước khi nước được dẫn sang mương oxy
hóa. Nước được dẫn vào mương oxy hóa qua
van điều chỉnh lưu lượng. Trong suốt chiều
dài của mương xảy ra quá trình oxy hóa các
chất ô nhiễm trong nước thải nhờ hệ vi sinh
vật hiếu khí và yếm khí. Sau thời gian xử lý ở
mương oxy hóa, nước thải đạt tiêu chuẩn thải
và được sang bể lắng cấp hai để lắng nước
thải được thải ra nguồn tiếp nhận. Rác thu
gom được ở song chắn rác được đưa tới máy
nghiền rác và sau đó được xử lý hợp vệ sinh.
Bùn lắng từ bể lắng thứ cấp được đưa sân
phơi bùn để xử lý sau đó được chôn lấp hợp
vệ sinh. Cát thu được ở bể lắng cát đưa đến
sân phơi cát và đưa đi sử dụng cho các mục
đích khác.
Công nghệ 2
Sơ đồ công nghệ (Hình 2)
Thuyết minh sơ đồ 2
Nước thải được hệ thống thu gom nước thải
dẫn về khu vực xử lý tập trung, nước thải
được chảy qua song chắn rác để loại bỏ các
tạp chất thô có kích thước lớn có lẫn trong
nước thải, tránh làm tắc và giảm hiệu quả của
các công trình xử lý tiếp theo. Sau khi nước
thải qua song chắn rác được chảy vào hố thu.
Từ hố thu nước thải được bơm lên ngăn tiếp
nhận để lấy cao trình làm cho dòng nước có
khả năng tự chảy. Sau đó nước thải cho tự
chảy vào bể lắng cát qua hệ thống van điều
lưu để đảm bảo vận tốc dòng chảy, để không
gây sự xáo trộn trong bể lắng cát. Ở bể lắng
cát thực hiện quá trình lắng cát và các chất
rắn vô cơ không tan có kích thước từ 0,2-2
mm có trong nước thải, thời gian lưu nước
trong bể khoảng một phút để tránh hiện tượng
lắng và phân hủy các chất hữu cơ ở bể lắng
cát. Nước thải sau khi ra khỏi bể lắng cát
được dẫn vào bể điều hòa, tại bể điều hòa
thực hiện quá trình ổn định nồng độ và lưu
lượng nước thải. Sau đó nước thải được chảy
sang ngăn lắng. Tại bể lắng cấp 1 tiếp tục
thực hiện quá trình lắng bằng trọng lực các
hạt cặn có trong nước thải theo dòng chảy liên
tục vào và ra bể. Sau đó nước thải chảy đến
hệ thống Aeroten. Trong bể Aeroten xảy ra
quá trình oxy hóa các chất ô nhiễm trong
nước thải nhờ hệ vi sinh vật hiếu khí, sau đó
được đưa tới bể lắng cấp 2. Ở bể lắng cấp 2
tuần hoàn lại một lượng bùn hoạt tính để ổn
định vi sinh vật có trong bể Aroten, nhằm tăng cao hiệu quả xử lý của quá trình. Trên
đường thải ra nguồn tiếp nhận bổ sung hóa
chất khử trùng
5 trang |
Chia sẻ: hoant3298 | Lượt xem: 593 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bước đầu nghiên cứu thiết kế hệ thống xử lý nước thải sinh hoạt cho thành phố Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phạm Hương Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 59 - 65
59
BƯỚC ĐẦU NGHIÊN CỨU THIẾT KẾ HỆ THỐNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
SINH HOẠT CHO THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Phạm Hương Quỳnh*
Trường Đại học Kỹ thuật Công nghiệp – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Thành phố Thái nguyên là một đô thị loại 2 với dân số 256.346 và mật độ dân số 1.288 người/km2.
Lượng nước cấp cho dân cư trong thành phố chủ yếu được cung cấp bởi 2 nhà máy nước Tích
Lương (Công suất 20.000m3/ ngày.đêm và chuẩn bị nâng lên 40.000m3 /ngày .đêm) và nhà máy
nước Túc Duyên (công suất 10.000m3/ngày.đêm). Ngoài ra còn một lượng nước sinh hoạt được
người dân tự khai thác từ các giếng khơi và các nguồn khác. Như vậy trung bình 1 ngày toàn thành
phố sẽ thải ra môi trường xấp xỉ 30.000 m3 nước thải sinh hoạt. Nhưng trên địa bàn thành phố
cũng như trên toàn tỉnh vẫn chưa có nhà máy xử lý nước thải sinh hoạt nào hoạt động. Đồng nghĩa
với lượng nước thải sinh hoạt không được xử lý mà đã thải trực tiếp ra môi trường sẽ để lại những
tác động xấu tới con người và hệ sinh thái. Việc thiết kế, xây dựng một hệ thống xử lý nước thải
sinh hoạt của thành phố là cần thiết để góp phần vào sự phát triển của Thành phố.
Từ khóa: Xử lý nước thải, nước thải sinh hoạt
TỔNG QUAN VỀ NƯỚC THẢI SINH
HOẠT THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN*
Nguồn gốc nước thải sinh hoạt
Nước thải sinh hoạt là nước được thải bỏ sau
khi sử dụng cho các mục đích sinh hoạt ở các
gia đình, cơ quan, trường học, bệnh viện, chợ
và các công trình công cộng khác của cộng
đồng như tắm, giặt, tẩy rửa, vệ sinh cá nhân
[1].
Lượng nước thải sinh hoạt của một khu cư
dân phụ thuộc và dân số, vào tiêu chuẩn cấp
nước và đặc điểm của hệ thống thoát nước.
Tiêu chuẩn cấp nước sinh hoạt cho một khu
dân cư phụ thuộc vào khả năng cung cấp
nước của các nhà máy nước sạch hay các trạm
cấp nước hiện có. Các trung tâm, đô thị
thường có tiêu chuẩn cấp nước cao hơn so với
các vùng ngoại thành và nông thôn, do đó
lượng nước thải sinh hoạt tính trên một đầu
người cũng có sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn. Tiêu chuẩn nước cấp sinh hoạt cho
một khu đô thị 120-250 lít/người.ngày[2].
Lượng nước thải sinh hoạt vào khoảng 80%
lượng nước cấp. Vì vậy lượng nước thải sinh
hoạt của một người tại đô thị vào khoảng 85-
200 lít/người.ngày. Nước thải sinh hoạt ở các
vùng thành thị được hệ thống thoát nước dẫn
ra các sông, hồ, còn các vùng ngoại thành và
nông thôn do không có hệ thống thoát nước
nên nước thải sinh hoạt thường được tiêu
*
Tel:
thoát tự nhiên vào các ao hồ hoặc thoát bằng
biện pháp tự thấm.
Thành phần và đặc tính nước thải sinh hoạt
- Nước thải nhiễm bẩn do chất bài tiết của con
người từ các phòng vệ sinh.
- Nước thải nhiễm bẩn do các chất thải sinh
hoạt: cặn bã từ nhà bếp, chất rửa trôi, kể cả
làm vệ sinh sàn nhà.
- Nước mưa chảy tràn
Nước thải sinh hoạt chứa nhiều chất hữu cơ
dễ bị phân hủy sinh học, ngoài ra còn có cả
các thành phần vô cơ, vi sinh vật và vi trùng
gây bệnh rất nguy hiểm. Chất hữu cơ chứa
đựng trong nước thải bao gồm các hợp chất
như protein (40%-50%), hydrat cacbon (40%-
50%). Nồng độ chất hữu cơ trong nước thải
sinh hoạt dao động trong khoảng 150-
450mg/l theo trọng lượng khô. Có khoảng 20-
40% chất hữu cơ khó bị phân hủy sinh học. Ở
những khu dân cư đông đúc, điều kiện vệ sinh
thấp kém, nước thải sinh hoạt không được xử
lý thích đáng là một trong những nguồn gây ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng.
HIỆN TRẠNG XỬ LÝ NƯỚC THẢI
SINH HOẠT
Điều kiện tự nhiên, xã hội của thành phố
Thái Nguyên
Thành phố Thái Nguyên nằm bên bờ sông
Cầu diện tích 189,705 km2[7]. Dân số
256.346 và mật độ dân số 1288 người/km2.[7]
Phạm Hương Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 59 - 65
60
Vị trí địa lý thành phố Thái Nguyên:
- Phía Đông giáp huyện Phú Bình.
- Phía Tây giáp huyện Phổ Yên.
- Phía Nam giáp thị xã Sông Công.
- Phía Bắc giáp huyện Đại Từ, Phú Lương và
Đồng Hỷ.
-Toạ độ địa lí là 105051' Đ và 21034'B.
Bảng 1: Thành phần cơ bản của nước thải sinh
hoạt:[4]
STT Chỉ tiêu Đơn vị Kết quả
1 pH - 6-8
2 COD mg/l 400-550
3 BOD5 mg/l 110-350
4 TSS mg/l 200-350
5 N-NH4 mg/l 15-30
6 TN mg/l 20-85
7 TP mg/l 3-25
8 Coliform MPN/100ml 104-109
Địa hình của thành phố gồm các dạng địa
hình đồi thấp, độ cao 30-50m, xen kẽ các
ruộng trũng và thung lũng cao khoảng 20m.
Hai phía Bắc - Nam thành phố có sông Cầu
và sông Công, phía Tây thành phố là hồ Núi
Cốc. Thành phố nằm trên địa bàn có nhiều
tuyến đường giao thông huyết mạch chạy qua
như đường Phan Đình Phùng, đường Cách
Mạng Tháng Tám, đường Hoàng Văn Thụ,
đường quốc lộ 3 và đường cao tốc Thái
Nguyên – Hà Nội nối Thái Nguyên với các
trung tâm kinh tế lớn của vùng Đông Bắc và
đồng bằng Sông Hồng. Đồng thời có nhiều cơ
quan xí nghiệp của thành phố, của tỉnh, của
trung ương đóng trên địa bàn. Những yếu tố
này tạo cho thành phố nhiều lợi thế trong việc
mở rộng giao lưu kinh tế văn hóa với các khu
vực lân cận nhưng nó cũng là thách thức của
thành phố với những vấn đề an ninh xã hội và
đăc biệt là vấn môi trường.
Khí hậu thành phố Thái Nguyên cũng như của
cả tỉnh chia làm 2 mùa rõ rệt, mùa mưa từ
tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô từ tháng 10
đến tháng 5. Lượng mưa trung bình hàng năm
khoảng 2.000 đến 2.500 mm. Cao nhất vào
tháng 8 và thấp nhất vào tháng 1. Nhiệt độ
trung bình các tháng trong năm là 26,50C, độ
ẩm trung bình 83,2%, tốc độ bốc hơi trung
bình 6,5%.[7]
Thành phố bao gồm 18 phường là Trưng
Vương, Thịnh Đán, Tân Long, Quán Triều,
Quang Vinh, Quang Trung, Hoàng Văn Thụ,
Đồng Quang, Phan Đình Phùng, Túc Duyên,
Tân Thịnh, Gia Sàng, Tân Lập, Phú Xá, Cam
Giá, Trung Thành, Hương Sơn, Tân Thành và
8 xã là Phúc Hà, Phúc Xuân, Quyết Thắng,
Phúc Trìu, Thịnh Đức, Tân Cương, Tích
Lương, Lương Sơn.
Thành phố Thái Nguyên là đô thị loại 2, đóng
vai trò là trung tâm của khu vực trung du và
miền núi Bắc Bộ, là trung tâm kinh tế-chính
trị-văn hóa-y tế-giáo dục-khoa học-quân sự
của vùng Đông Bắc. Thành phố có hệ thống
giáo dục đứng thứ ba so với cả nước chỉ sau
Hà Nội và TP.Hồ Chí Minh. Với 6 trường đại
học và rất nhiều trường cao đẳng trung học
chuyên nghiệp, Thái Nguyên đã trở thành một
trong những trung tâm đào tạo lớn của đất
nước, và là một đô thị loại hai nên những vấn
đề về môi trương cần được quan tâm nhiều
hơn nữa. Do mức độ tập trung dân số đông
mật độ lớn. Vì vậy thành phố chịu nhiều sức
ép về vấn đề môi trường, đặc biệt là việc thu
gom xử lý nước thải sinh hoạt.
Hiện trạng xử lý nước thải sinh hoạt ở
thành phố Thái Nguyên
Hiện nay toàn bộ nước sinh hoạt của thành
phố được cung cấp bởi 2 nhà máy nước Tích
Lương (Công suất 20.000m3/ ngày.đêm và
chuẩn bị nâng lên 40.000m3 /ngày .đêm) và
nhà máy nước Túc Duyên (công suất
10.000m3/ngày.đêm). Ngoài ra còn một lượng
nước sinh hoạt được người dân tự khai thác từ
các giếng khơi và các nguồn khác. Về cơ bản
đảm bảo lượng nước sạch cho người dân.
Như vậy trung bình 1 ngày toàn thành phố sẽ
thải ra môi trường xấp xỉ 30.000 m3 nước thải
sinh hoạt. Nhưng trên địa bàn thành phố cũng
như trên toàn tỉnh vẫn chưa có nhà máy xử lý
nước thải sinh hoạt nào hoạt động. Đồng
nghĩa với lượng nước thải kia không được xử
lý mà đã thải trực tiếp ra môi trường. Hơn nữa
toàn bộ hệ thống thu gom nước thải cũng như
nước mưa toàn thành phố đang xuống cấp
nghiêm trọng do được xây dựng đã lâu và
thiếu quy hoạch thống nhất, đã làm ảnh
hưởng đến khả năng thu gom nước thải và
nước mưa. Khi lượng nước thải sinh hoạt nay
không được thu gom và xử lý hiệu quả nó sẽ
gây ra những hậu quả vô cùng to lớn. Hơn
Phạm Hương Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 59 - 65
61
nữa thành phố nằm ở trung tâm của tỉnh và là
thành phố loại 2 của cả nước lên những vấn
đề về môi trường cần phải đặc biệt quan tâm
triệt để.
Tác động của nước thải sinh hoạt đến môi
trường thành phố
Nếu để nước thải sinh hoạt của thành phố
chảy tràn về các kênh các suối thoát nước, sau
đó nước thải này được đổ xuống sông Cầu
làm ô nhiễm nước của dòng sông đặc biệt là
những tháng mùa khô. Ảnh hưởng đến hệ
sinh thái nước của dòng sông và khả năng
cung cấp nước sạch cho chính thành phố và
trên toàn tỉnh và tất cả các tỉnh nằm theo trên
lưu vực của dòng sông Cầu.
Nếu nước thải sinh hoạt không có hệ thống
thu gom và xử lý hợp lý khi chảy qua các khu
dân cư nó gây mùi hôi thối do quá trình phân
hủy các chất trong nước thải làm ảnh hưởng
đến đời sống của người dân và mỹ quan của
thành phố. Đối với một đô thị đang trên đà
phát triển cần thu hút nhiều sự đầu tư từ bên
ngoài. Khi để vấn đề ô nhiễm xảy ra sẽ làm
giảm khả năng thu hút đầu tư từ bên ngoài, từ
đây ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phát triển
của thành phố nói riêng và của tỉnh nói chung.
Do thành phố không có hệ thống thu gom xử
lý nước thải sinh hoạt hoàn chỉnh nên các
nguồn nước thải sinh hoạt rất dễ gây ô nhiễm
môi trường và gây những hậu quả là rất to
lớn. Khi xảy ra sự ô nhiễm chúng ta cần rất
nhiều kinh phí để khắc phục hậu quả điều này
ảnh hưởng lớn tới tốc độ tăng trưởng kinh tế
và khả năng thu hút đầu tư từ bên ngoài vào.
Lưu lượng thiết kế
Tổng số dân của 12 phường: Trưng Vương,
Quan triều, Quang vinh, Hoàng Văn Thụ,
Đồng Quang, Quang Trung, Phan Đình
Phùng, Túc Duyên, Gia Sàng, Tân lập, Phú
Xá, Cam Giá là 123.576 người( số liệu thống
kê dân số 2009. Theo tiêu chuẩn thải là
120l/người.ngày.
Lưu lượng nước thải tính toán:
Qtbngày = 15000m3/ngày
chọn ày
tb
ngQ = 15000 m3/ngày = 173,6 l/s
=×= tb
ngàyQngàyKngàyQ
maxmax
=13x15000=19500m3/ngày
K: Hệ số mở rộng K = 1,3
=×= tbngàyngàyngày QKQ minmin
= 0,9x15000=13500m3/ngày
)/(75,93
3600
10005,337
3600
1000
)/(677
3600
10005,2437
3600
1000
)/(5,337
24
135006,0
24
)/(5,2437
24
195003
24
min
min
max
max
3
minmin
min
3
maxmax
max
slQQ
slQQ
hm
QKQ
hm
QKQ
h
s
h
s
ngàyh
h
ngàyh
h
=
×
=
×
=
=
×
=
×
=
=
×
=
×
=
=
×
=
×
=
- Hàm lượng chất lơ lửng SS :
ass = 60g/người.ngày
- Nhu cầu oxy hóa sinh hóa của nước thải đã
lắng: aBOD = 35g/người.ngày
- Hàm lượng nitơ amon (N-NH4+) : aN-NH+4 =
7g/người.ngày
- Hàm lượng chất lơ lửng trong nước thải là.
)/(500
120
1000601000 lmg
q
aC
o
SS
SH =
×
=×=
- Hàm lượng BOD5 của nước thải xác định
theo công thức.
)/(292
120
100035100 lmg
q
a
L
o
BOD
SH =
×
=×=
- Hàm lượng nitơ amoni của nước thải.
)/(33,581000
120
710004
4
lmg
q
a
C
o
NHN
NHN
=×=×=
+
+
−
−
Vậy việc cấp thiết nhất lúc này là phải thiết
kế, xây dựng hệ thống xử lý nước thải sinh
hoạt cho thành phố để đảm bảo cho sự phát
triển bền vững của thành phố nói riêng và của
cả tỉnh nói chung.
ĐỀ XUẤT CÔNG NGHỆ XỬ LÝ
Công nghệ 1
Sơ đồ công nghệ (Hình 1)
Thuyết minh công nghệ 1
Nước thải được hệ thống thu gom nước thải
dẫn về khu vực xử lý tập trung, trước khi đi
vào hệ thống xử lý nước thải được chảy qua
song chắn rác để loại bỏ các tạp chất thô có
kích thước lớn như giấy, rẻ, túi nilông, dây
buộc có lẫn trong nước thải. Tránh làm tắc
và giảm hiệu quả của các công trình xử lý
tiếp theo.
Phạm Hương Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 59 - 65
62
Hình 1: Sơ đồ công nghệ XLNT bằng mương ôxi hóa
Sau khi nước thải qua song chắn rác được dẫn
vào hố thu. Từ hố thu nước thải được bơm lên
ngăn tiếp nhận để lấy cao trình. Sau đó nước
thải cho tự chảy vào bể lắng cát qua hệ thống
van điều lưu để đảm bảo vận tốc dòng chảy,
để không gây sự xáo trộn trong bể lắng cát. Ở
bể lắng cát thực hiện quá trình lắng cát và các
chất rắn vô cơ không tan có kích thước từ 0,2
- 2 mm có trong nước thải, thời gian lưu nước
trong bể khoảng 30-60s để tránh hiện tượng
lắng và phân hủy các chất hữu cơ ở bể lắng
cát. Nước thải sau khi ra khỏi bể lắng cát
được dẫn vào bể điều hòa, tại bể điều hòa
thực hiện quá trình ổn định nồng độ và lưu
lượng nước thải. Tránh hiện tượng đột biến về
nồng độ và lưu lượng trong ngày khi nhu cầu
sử dụng nước thay đổi theo nhu cầu sinh hoạt.
Sau đó nước thải được dẫn sang bể lắng cấp
một. Tại bể lắng cấp một thực hiện quá trình
lắng làm giảm một lượng các chất hữu cơ
trước khi nước được dẫn sang mương oxy
hóa. Nước được dẫn vào mương oxy hóa qua
van điều chỉnh lưu lượng. Trong suốt chiều
dài của mương xảy ra quá trình oxy hóa các
chất ô nhiễm trong nước thải nhờ hệ vi sinh
vật hiếu khí và yếm khí. Sau thời gian xử lý ở
mương oxy hóa, nước thải đạt tiêu chuẩn thải
và được sang bể lắng cấp hai để lắng nước
thải được thải ra nguồn tiếp nhận. Rác thu
gom được ở song chắn rác được đưa tới máy
nghiền rác và sau đó được xử lý hợp vệ sinh.
Bùn lắng từ bể lắng thứ cấp được đưa sân
phơi bùn để xử lý sau đó được chôn lấp hợp
vệ sinh. Cát thu được ở bể lắng cát đưa đến
sân phơi cát và đưa đi sử dụng cho các mục
đích khác.
Công nghệ 2
Sơ đồ công nghệ (Hình 2)
Thuyết minh sơ đồ 2
Nước thải được hệ thống thu gom nước thải
dẫn về khu vực xử lý tập trung, nước thải
được chảy qua song chắn rác để loại bỏ các
tạp chất thô có kích thước lớn có lẫn trong
nước thải, tránh làm tắc và giảm hiệu quả của
các công trình xử lý tiếp theo. Sau khi nước
thải qua song chắn rác được chảy vào hố thu.
Từ hố thu nước thải được bơm lên ngăn tiếp
nhận để lấy cao trình làm cho dòng nước có
khả năng tự chảy. Sau đó nước thải cho tự
chảy vào bể lắng cát qua hệ thống van điều
lưu để đảm bảo vận tốc dòng chảy, để không
gây sự xáo trộn trong bể lắng cát. Ở bể lắng
cát thực hiện quá trình lắng cát và các chất
rắn vô cơ không tan có kích thước từ 0,2-2
mm có trong nước thải, thời gian lưu nước
trong bể khoảng một phút để tránh hiện tượng
lắng và phân hủy các chất hữu cơ ở bể lắng
cát. Nước thải sau khi ra khỏi bể lắng cát
được dẫn vào bể điều hòa, tại bể điều hòa
thực hiện quá trình ổn định nồng độ và lưu
lượng nước thải. Sau đó nước thải được chảy
sang ngăn lắng. Tại bể lắng cấp 1 tiếp tục
thực hiện quá trình lắng bằng trọng lực các
hạt cặn có trong nước thải theo dòng chảy liên
tục vào và ra bể. Sau đó nước thải chảy đến
hệ thống Aeroten. Trong bể Aeroten xảy ra
quá trình oxy hóa các chất ô nhiễm trong
nước thải nhờ hệ vi sinh vật hiếu khí, sau đó
được đưa tới bể lắng cấp 2. Ở bể lắng cấp 2
tuần hoàn lại một lượng bùn hoạt tính để ổn
định vi sinh vật có trong bể Aroten, nhằm
Xử lý bùn dư
Nguồn tiếp nhận
SCR
Hố thu
Ngăn tiếp nhận
Bể lắng cát ngang
Bể điều hòa
Mương oxy hóa
Bể lắng thứ cấp
Tuần
hoàn bùn
Máy nghiền
rác
Sân phơi cát
Khử trùng
Phạm Hương Quỳnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 59 - 65
63
tăng cao hiệu quả xử lý của quá trình. Trên
đường thải ra nguồn tiếp nhận bổ sung hóa
chất khử trùng.
Hình 2: Sơ đồ công nghệ XLNT
bằng công nghệ Aeroten
Công nghệ 3
Sơ đồ công nghệ (Hình 3)
Thuyết minh công nghệ
Từ hệ thống thu gom nước thải dẫn về khu
vực xử lý tập trung, nước thải được chảy qua
song chắn rác trước khi đi vào hệ thống xử lý
chính để loại bỏ các tạp chất thô có kích
thước lớn có lẫn trong nước thải. tránh làm
tắc và giảm hiệu quả của các công trình xử lý
tiếp theo. Sau đó nước thải được dẫn vào bể
lắng cát. Ở bể lắng cát thực hiện quá trình
lắng cát, sỏi, và các chất vô cơ không tan
trong nước thải, các chất có thể lắng có trong
nước thải, thời gian lưu của nước thải ở đây
rất ngắn khoảng 30-70s để tránh hiện tượng
lắng và phân hủy các chất hữu cơ ở bể lăng
cát. Nước thải sau khi ra khỏi bể lắng cát
được dẫn hồ sinh học 1 (hồ kỵ khí). Để các
chất ô nhiễm nhờ hệ vi sinh vật yếm khí. Sau
quá trình phân hủy kỵ khí các chất ô nhiễm có
trong nước thải, nước thải được đưa tới hồ
sinh học thứ 2 (hồ hiếu khí). Ở đây tiếp tục
xảy ra quá trình phân hủy các chất ô nhiễm
nhờ hệ vi sinh vật hiếu khí. Sau một thời gian
lưu ở hồ sinh học thứ 2 vừa để xử lý triệt để
và ổn định các chất ô nhiễm trước khi được
thải vào môi trường. Sau đó nước thải được
thải vào nguồn tiếp nhận. Rác thu gom được ở
song chắn rác được đưa tới máy nghiền rác và
sau đó được đưa vào bể metan để xử lý. Cát
thu được ở bể lắng cát đưa đến sân phơi cát
và đưa đi sử dụng cho các mục đích khác.
Bùn sinh ra sau quá trình xử lý ở bể metan
được đưa đến sân phơi bùn hoặc đem đi xử lý.
Hình 3. Sơ đồ công nghệ XLNT bằng hồ sinh học
Công nghệ 4
Sơ đồ công nghệ (Hình 4)
Thuyết minh công nghệ
Nước thải được hệ thống thu gom dẫn về khu
xử lý tập trung đưa vào hố thu gom. Trước
khi vào hệ thống thu gom, nước thải được cho
chảy qua song chắn rác để loại bỏ các tạp chất
thô kích thước lớn ra khỏi nước thải. Sau đó
nước thải từ hố thu được bơm lên bể lắng cát
Nguồn tiếp nhận
Xử lý bùn
SCR
Hố thu
Ngăn tiếp nhận
Bể lắng cát
ngang
Bể điều
hòa
Bể Aeroten
Lắng ly tâm
Tuần
hoàn
bùn
nghiền rác
Sân phơi cát
Nước thải đầu vào
Khử trùng
K
Sân phơi
cát
SCR
Nước thải đầu vào
Bể lắng cát
Hồ sinh học 1
Hồ sinh học 2
Nước thải đầu ra
Máy
nghiền
rác
Bể
mêtan
Thu
khí
Xử
lý
bùn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38321_41872_58201315431159_4883_2052128.pdf