Chả cá đã được hấp chín đưa vào bảo quản lạnh ở 0 - 20C, chả cá từ nguyên liệu redfi sh đã bảo quản đông có hàm lượng FFA cao hơn nhưng chỉ số PV và TBARS thấp hơn so với chả cá từ nguyên liệu redfi sh tươi. Trong quá trình bảo quản lạnh (0 - 20C) các mẫu chả cá từ nguyên liệu tươi, nguyên liệu đã bảo quản đông 1 tháng và 6 tháng, không thấy có sự thay đổi đáng kể hàm lượng lipid và FFA, PV có xu hướng tăng lên ở tuần bảo quản thứ 2 và giảm xuống sau 4 tuần bảo quản, TBARS của các mẫu chả cá từ nguyên liệu đã bảo quản đông ổn định trong 4 tuần bảo quản trong khi giá trị này của chả cá từ nguyên liệu redfi sh tươi lại tăng liên tục theo thời gian bảo quản lạnh. Các biến đổi này cho thấy chả cá đã hấp chín vẫn có những biến đổi giảm chất lượng lipid trong 4 tuần bảo quản lạnh ở 0 - 20C.
9 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 220 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Biến đổi chất lượng lipid của chả cá làm từ thịt cá redfish (Sebastes marinus) xay trong quá trình bảo quản lạnh, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
40 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
BIẾN ĐỔI CHẤT LƯỢNG LIPID CỦA CHẢ CÁ LÀM TỪ THỊT CÁ REDFISH
(Sebastes marinus) XAY TRONG QUÁ TRÌNH BẢO QUẢN LẠNH
THE CHANGES IN LIPID QUALITY OF FISH CAKE MADE FROM MINCED REDFISH
(Sebastes marinus) DURING CHILLED STORAGE
Trần Thị Huyền1, Paulina Elzbieta Wasik2
Ngày nhận bài: 13/2/2017; Ngày phản biện thông qua: 29/5/2017, Ngày duyệt đăng: 15/6/2017
TÓM TẮT
Thịt cá redfi sh xay, bao gồm loại tươi và loại đã bảo quản đông một tháng và sáu tháng, là nguyên liệu
sản xuất chả cá. Kết quả đánh giá sự thay đổi các chỉ số chất lượng lipid của chả cá trong quá trình bảo quản
lạnh (0 - 20C) cho thấy, hàm lượng lipid và acit béo tự do (FFA) không thay đổi đáng kể trong suốt 4 tuần bảo
quản. Chả cá từ nguyên liệu redfi sh xay đã bảo quản đông 1 và 6 tháng có chỉ số TBARS (Thiobarbituric acid
reactive substances) ổn định trong 4 tuần bảo quản nhưng chả cá từ redfi sh xay tươi có chỉ số này tăng theo
tuần bảo quản lạnh. Chỉ số peroxit (PV) của chả cá từ redfi sh xay tươi cao hơn và tăng nhanh hơn PV của chả
cá từ nguyên liệu đông trong 2 tuần bảo quản đầu tiên, sau đó giảm rõ rệt sau 4 tuần bảo quản. Hàm lượng
phospholipid trong chả cá từ thịt cá tươi và thịt cá đã bảo quản đông 1 tháng khá ổn định trong 2 tuần đầu
bảo quản lạnh.
Từ khóa: cá redfi sh xay, chả cá, chất lượng lipid
ABSTRACT
Redfi sh minces including fresh, one-month frozen and six-month frozen ones, were used to produce fi sh
cakes. The results of testing the changes in lipid quality values of fi sh cakes during chilled storage (0 - 20C)
showed that, during four chilled storage weeks of fi sh cakes, lipid content and free fatty acid (FFA) content
did not change signifi cantly. TBARS (Thiobarbituric acid reactive substances) of fi sh cake made from the
one-month and six-month frozen redfi sh minces was rather stable during four weeks of chilled storage but the
one from fresh mince raised continuously during weeks of chilled storage. For fi sh cake made from the fresh
redfi sh mince, PV values was almost higher and increased faster than the ones made from frozen materials
in the fi rst two weeks then it went down signifi cantly in the fourth storage week. Phospholipid contents of fi sh
cake made from the fresh mince and the one-month frozen mince were rather stable during fi rst two weeks of
chilled storage.
Keywords: minced redfi sh, fi ch cake, lipid quality
1 Khoa Công nghệ thực phẩm, Trường Đại học Nha Trang, Việt Nam, email: huyentt@ntu.edu.vn
2 Matis, Iceland, email: paulina@matis.is
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Tỷ lệ thịt vụn từ công nghiệp chế biến cá
khoảng 8-17% [6]. Cùng với những biến đổi do
vi sinh vật và enzyme thì sự giảm chất lượng
các hợp chất lipid cũng là nguyên nhân gây ra
sự giảm chất lượng nguyên liệu vì thành phần
này thường có tỷ lệ lipid nhiều hơn phần thịt
phi lê [18]. Hai quá trình hư hỏng chính của
lipid là thủy phân và oxy hóa. Sản phẩm
của quá trình thủy phân lipid gây ra sự giảm
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 41
chất lượng là các acid béo tự do (FFA) trong
khi các sản phẩm của quá trình oxy hóa lipid
là các hợp chất peroxide và các sản phẩm thứ
cấp (TBARS). Để đánh giá sự giảm chất lượng
của nguyên liệu thủy sản nói chung và của
thịt vụn nói riêng cần xác định các giá trị PV,
FFA, TBARS và phospholipid [4], [7], [10], [20].
Khi xảy ra biến đổi giảm chất lượng các hợp
chất lipid, nguyên liệu thủy sản thường có màu
sẫm, vàng, mùi ôi khét, tính chất chức năng
của cơ thịt giảm rõ rệt, giảm giá trị dinh dưỡng
và có thể sinh độc tố, nên giảm khả năng ứng
dụng của chúng. Việc nâng cao giá trị sử dụng
của thịt vụn cá trong công nghiệp chế biến cá
luôn là vấn đề cấp thiết.
Ở một số nước châu Á như Việt Nam, Thái
Lan, Trung Quốc, bên cạnh việc sử dụng cá
tươi, một số doanh nghiệp cũng đang sử dụng
các phụ phẩm thịt vụn trong việc chế biến ra
sản phẩm chả cá phục vụ người tiêu dùng
trong nước và xuất khẩu [13].
Ở Iceland, sản lượng đánh bắt cá redfi sh
(Sebastes marinus ) trong những năm 1955 -
1988 khoảng 150.000 tấn một năm nhưng
trong những năm gần đây sản lượng này giảm
còn 40.000 tấn một năm [8], [16]. Tuy vậy, cá
redfi sh vẫn được xác định là một trong những
sản phẩm thương mại quan trọng nhất của đất
nước này [16]. Sản phẩm chính từ nguyên liệu
redfi sh là cá redfi sh phi lê, nguyên con tươi
hoặc đông lạnh xuất khẩu sang các thị trường
Đức, Nhật Bản, Trung Quốc và Hàn Quốc.
Nguồn phụ phẩm thịt redfi sh xay chủ yếu được
sử dụng chế biến thức ăn cho động vật nuôi,
thú nuôi, hoặc dùng để tách chiết các hợp chất
protein, dịch protein thủy phân. Nếu thịt cá xay
có chất lượng cao có thể đem chế biến thành
surimi, súp và nước sốt [9]. Hiện nay các nhà
máy chế biến cá redfi sh ở Iceland thường
xay nhỏ thịt vụn và cấp đông block để dự trữ
nguyên liệu chế biến ra các sản phẩm trên.
Thiết nghĩ, việc thử nghiệm sử dụng thịt
vụn redfi sh để chế biến thành một sản phẩm
có khả năng thương mại như chả cá có thể
là một hướng tiếp cận đúng đắn nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng nguyên liệu redfi sh xay
và góp phần đa dạng hóa các sản phẩm thủy
sản giá trị gia tăng ở Iceland. Cơ hội sử dụng
thịt vụn cá redfi sh để sản xuất sản phẩm chả
cá phụ thuộc vào chất lượng chả cá thu được.
Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng sự giảm chất
lượng lipid ở nguyên liệu và sản phẩm trong
quá trình chế biến và bảo quản ảnh hưởng lớn
đến chất lượng các sản phẩm chả cá. Vì vậy
mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá sự
biến đổi chất lượng lipid của chả cá từ nguyên
liệu thịt vụn cá redfi sh (tươi, đã bảo quản đông
một tháng và sáu tháng) trong thời gian bảo
quản lạnh ở nhiệt độ 0 - 20C.
II. ĐỐI TƯỢNG, VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG
PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Đối tương, vật liệu và chuẩn bị mẫu
Nguyên liệu chính là ba loại thịt vụn cá
redfi sh tận thu từ quá chế biến cá redfi sh phi
lê sau đó được xay nhỏ. Loại thịt vụn tươi (ký
hiệu là NLT) ứng với cá redfi sh được đánh
bắt ở tháng 1 năm 2016, thịt vụn đã bảo quản
đông block (- 250C) 1 tháng (ký hiệu là BQ1)
ứng với cá redfi sh được đánh bắt ở tháng 12
năm 2015, và loại thịt vụn đã bảo quản đông
block (- 250C) 6 tháng (ký hiệu là BQ6) ứng với
cá redfi sh được đánh bắt ở tháng 7 năm 2015.
Các nguyên liệu này được cung cấp bởi Công
ty TNHH HB Grandi (Reykjavik, Iceland).
Nguyên liệu phụ là các gia vị bao gồm hành,
tiêu, tỏi, muối, bột mì, bột lòng trắng trứng
được mua tại chợ địa phương ở Reykjavik.
Cách chuẩn bị mẫu: NLT được bảo quản
lạnh (5 - 70C) trong các thùng xốp kín và chuyển
về phòng thí nghiệm trong ba giờ sau quá trình
xay nhỏ tại nhà máy. Các mẫu nguyên liệu BQ1
và BQ6 ở dạng block 7,5kg bảo quản đông ở
chế độ -250C. Nguyên liệu tươi được sử dụng
ngay, nguyên liệu đông BQ1 và BQ6 được sử
dụng sau khi rã đông qua đêm ở nhiệt độ 0 - 20C,
để sản xuất ra chả cá theo qui trình truyền
thống của Việt Nam có điều chỉnh [1], [2].
Các bước cơ bản của quy trình sản xuất là
xử lý nguyên liệu, phối trộn gia vị, phụ gia,
42 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
quết nhuyễn, định hình, hấp chín, làm nguội,
bao gói và bảo quản. Các gia vị hành, tiêu,
tỏi, muối; phụ liệu bột mì, bột lòng trắng trứng
được sử dụng theo tỷ lệ phần trăm khối lượng
(hành 0,5%, tỏi 0,3%, tiêu 0,3%, muối 1%, bột
mì 6%, bột lòng trắng trứng 3%).
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Bố trí thí nghiệm
Ba nhóm nguyên liệu redfi sh xay nhỏ
(tươi, đã bảo quản đông một tháng và sáu
tháng) được lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu
đánh giá chất lượng lipid như hàm lượng lipid,
phospholipid, chỉ số peroxit PV, TBARS và
hàm lượng axit béo tự do FFA trước khi đem
chế biến thành chả cá. Sản phẩm chả cá sau
khi bao gói trong bao bì PA được đặt trong kho
bảo quản lạnh ở nhiệt độ 0 - 20C. Lấy mẫu chả
cá ở các thời điểm 0, 2 và 4 tuần bảo quản để
xác định các chỉ tiêu đánh giá chất lượng lipid
tương tự như đối với nguyên liệu. Kết quả thu
được cho phép đánh giá được những biến đổi
chất lượng lipid trong chả cá từ các nguyên
liệu cá redfi sh khác nhau sau khi hấp chín và
trong quá trình bảo quản lạnh.
2.2. Phương pháp phân tích
2.2.1. Phân tích thành phần cơ bản
Hàm lượng lipid tổng số được xác định
theo phương pháp của Bligh và Dyer (1959).
Hàm lượng lipid được cân và tính bằng số gam
lipid trên 100 gam mẫu.
Hàm lượng phospholipid được xác định
bằng phương pháp so màu của Stewart
(1980). Bằng cách sử dụng dịch chiết lipid tổng
số, phương pháp này dựa trên sự hình thành
phức hợp giữa phospholipid và ammonium
ferrothiocyanate. Đường chuẩn được xây
dựng với các nồng độ phosphatidylcholine
trong chloroform là 5 - 50 µg/ml, bước song
hấp phụ là 488nm trên máy so màu UV-1800,
Shimadzu, Kyoto, Japan. Kết quả được tính là
phần trăm của hàm lượng lipid tổng số.
2.2.2. Phân tích sự hư hỏng lipid
PV (lipid hydroperoxit values) được xác
định theo phương pháp của Shantha & Decker
(1994) với một số điều chỉnh. Lipid được chiết
từ 5 gam mẫu và đồng hóa với 10 ml dung
dịch hỗn hợp choloroform và methanol (1:1)
lạnh (hỗn hợp có bổ sung 500ppm BHT để
ngăn chặn sự peroxit hóa trong suốt quá trình
chiết. 5ml NaCl 0,5M được bổ sung vào hỗn
hợp 10 giây trước khi kết thúc quá trình đồng
hóa. Ly tâm hỗn hợp với tốc độ 5100 vòng/
phút trong 5 phút. Thu hết lớp chloroform ở đáy
(khoảng 3 ml) vào ống có nắp, chính là dịch
chiết thu được. Lấy vào ống Eppendorf 500 µL
dung môi đã dùng để chiết, rồi thêm vào 500
µL dịch chiết. Cuối cùng bổ sung 5 µL hỗn hợp
ammonium thiocyanate 4M và ferrous chloride
(80mM) (1:1) vào hỗn hợp, vortex và ủ tại nhiệt
độ phòng trong 10 phút trước khi lấy ra 100 µL
để so màu tại bước sóng 500nm với đường
chuẩn được chuẩn bị từ cumene hydroperoxit.
Kết quả được tính là µmol hydroperoxit trên
một g mẫu.
TBARS (Thiobarbituric acid reactive
substances) được xác định bằng phương
pháp của Lemon (1975) có hiệu chỉnh. 5g
mẫu được đồng hóa với 10ml dung dịch TCA
(7,5% trichloroacetic acid, 0,1% propyl gallate
và 0,1% EDTA) rồi đem ly tâm thu phần dịch
nổi phía trên (khoảng 5ml). Cho 500 µL TBA
vào ống Eppendorf, tiếp đó cho 500 µL dịch thu
được ở trên vào ống rồi tiến hành vortex. Đục
một lỗ trên nắp ống Eppendorf và ủ trong bể ổn
nhiệt tại 95°C trong 40 phút. Sau đó làm lạnh
mẫu trong đá và lấy ra mỗi mẫu 200 µL đem so
màu ở bước song 530nm. Đường chuẩn được
chuẩn bị từ 1.1.3.3-tetrathoxypropane (TEP).
Kết quả được tính bằng µmol malomdialdehyde
trên 1 kg mẫu.
Acid béo tự do (FFA) được xác định theo
phương pháp của Lowry và Tinsley (1976) với
một số hiệu chỉnh bởi Bernardez và công sự
(2005). Phương pháp so màu được thực hiện
tại bước sóng 710 nm với đường chuẩn từ
oleic axit. Kết quả được tính bằng mg FFA trên
100 g lipid tổng số.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 43
3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu phân tích được xử lý thống kê bằng
phần mềm STATISTICA 13, tính toán và vẽ
đồ thị bằng Microsoft Offi ce Excel 2013. Phân
tích Break down & one way ANOVA, t-test và
so sánh chuẩn Tukey được áp dụng trên giá
trị trung bình của mỗi nhóm với mức ý nghĩa
p ≤ 0,05.
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Chất lượng lipid của các nguyên liệu thịt
vụn redfi sh xay
Chất lượng lipid của 3 loại nguyên liệu
redfi sh xay được thể hiện trong Bảng 1. Sự
khác biệt có ý nghĩa về thành phần lipid tổng
số ở các nguyên liệu thịt cá xay khác nhau cho
thấy thời điểm đánh bắt ảnh hưởng đến thành
phần hóa học cơ bản của cá redfi sh. Cá đánh
bắt vào tháng 1 năm 2016 có hàm lượng lipid
cao nhất (4%) trong khi cá đánh bắt vào thời
điểm tháng 12 năm 2015 lại có hàm lượng
lipid thấp nhất (2,57%). Hàm lượng lipid liên
quan đến tập tính di cư và mùa sinh sản của
cá, trong đó vào mùa sinh sản hàm lượng lipid
trong cơ thịt thường thấp nhất [21]. Thời kỳ đẻ
trứng của redfi sh được cho là từ tháng 8 đến
tháng 11 của năm [22], gần với thời gian đánh
bắt của nguyên liệu BQ1, có thể được giải
thích cho kết quả khác biệt về hàm lượng lipid
giữa các nguyên liệu.
Kết quả phân tích chỉ số PV của nguyên liệu
cho thấy mẫu thịt cá xay đã bảo quản đông 6
tháng có PV cao nhất. Rõ ràng thời gian bảo
quản đông càng dài thì PV càng tăng thể hiện
mức độ oxy hóa lipid càng nhiều. Kết quả tương
tự được chỉ ra cho thịt cá Threadfi n bream xay
nhỏ bảo quản đông ở -230C và cho thịt cá rô phi
lê bảo quản đông ở -180C [11], [12].
Bảng 1. Các chỉ số chất lượng lipid của ba loại nguyên liệu thịt vụn redfi sh xay
Lipid tổng số
(%)
Phospholipid
(% lipid tổng số)
PV
(µmol/kg)
TBARS
(µmol/kg)
FFA
(mg/100g lipid)
NLT 4.0 ± 0.0a 4.9 ± 0.3a 7.3 ± 1.5a 5.78 ± 1.3a 14.3 ± 0.1a
BQ1 2.6 ± 0.1b 6.6 ± 0.2b 6.1 ± 3.6a 8.4 ± 1.1b 29.4 ± 0.8b
BQ6 3.4 ± 0.1c 5.5 ± 0.1a 16.5 ± 2.2b 9.9 ± 0.4b 30.6 ± 0.0b
a-c chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa ba loại nguyên liệu NLT, BQ1 và BQ6
Giá trị TBARS của nguyên liệu thịt cá tươi
là thấp hơn đáng kể (p<0.05) so với nguyên
liệu đã bảo quản đông. Không có sự khác biệt
có ý nghĩa giá trị TBARS giữa hai nguyên liệu
bảo quản đông 1 tháng và 6 tháng. Một số
nghiên cứu cũng chỉ ra sự tăng TBARS trong
quá trình bảo quản đông cá là do kết quả của
quá trình oxy hóa lipid [3], [12].
Nguyên liệu tươi NLT có giá trị FFA thấp
hơn đáng kể (p<0.05) với nguyên liệu BQ1 và
BQ6. Nguyên liệu bảo quản đông càng dài thì
FFA càng cao. Kết quả nghiên cứu trên thịt cá
Threadfi n bream xay nhỏ bảo quản đông ở
-230C trong 21 tuần bảo quản cũng cho thấy
FFA tăng theo thời gian tuần bảo quản đông [11].
Trong nghiên cứu này, không thấy có sự khác
biệt đáng kể hàm lượng FFA giữa nguyên liệu
bảo quản đông 1 tháng và 6 tháng (khoảng
30mg/100g lipid tổng số).
2. Thay đổi hàm lượng phospholipid
Trong 2 tuần bảo quản đầu tiên, hàm lượng
phospholipid đã giảm ở mẫu chả cá làm từ
nguyên liệu BQ6, mẫu chả cá làm từ NLT và
BQ1 có hàm lượng này khá ổn định. Sự giảm
hàm lượng phospholipid có thể được giải
thích bằng hiện tượng thủy phân phospholipid
trong quá trình bảo quản lạnh đông [11]. Tuy
vậy, có một sự tăng khác thường hàm lượng
phospholipid của các mẫu chả cá ở tuần bảo
quản thứ 4 (tăng từ 2 - 3 lần so với giá trị ở
tuần bảo quản thứ 2). Ba phân đoạn chính của
phospholipids có là phosphatidylethanolamine,
phosphatidylcholine và phosphatidylserine,
trong đó, phosphatidylethanolamine,
phosphatidylcholine là hai phân đoạn
sẽ bị thủy phân nhanh chóng trong khi
phosphatidylserine lại rất ổn định và hầu như
44 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
không bị ảnh hưởng trong suốt quá trình bảo
quản đông [11]. Hiện tượng tăng phospholipid
tổng số quan sát được sau tuần bảo quản
thứ 4 trong nghiên cứu này có thể dự đoán
do hiệu quả của phương pháp định lượng
phospholipid được áp dụng với đường chuẩn
sử dụng phosphatidylcholine chưa cao khi ở
thời điểm tuần bảo quản thứ 4 có quá nhiều
các biến đổi trong sản phẩm có thể dẫn đến
những sai số phân tích chỉ tiêu này.
Hình 1. Sự biến đổi hàm lượng phospholipid của chả cá trong quá trình bảo quản lạnh
a-f chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa các mẫu chả cá trong quá trình bảo quản
3. Thay đổi hàm lượng lipid
So với hàm lượng lipid của nguyên liệu thịt
vụn redfi sh xay (Bảng 1), hàm lượng lipid của
các mẫu chả cá làm từ nguyên liệu này đã giảm.
Hiện tượng giảm này có thể do quá trình hấp
chín sẽ làm tăng cường phản ứng thủy phân
bởi nhiệt, sự hư hỏng lipid cũng như oxy hóa
lipid kết hợp với sự tổn thất dịch sau hấp sẽ
kéo theo một lượng lipid hao tổn [5], [14], [18].
Trong suốt quá trình bảo quản lạnh sự thay đổi
hàm lượng lipid tổng số của các mẫu chả cá là
không đáng kể (Hình 2). Chả cá đã hấp chín
nên hạn chế được tối đa phản ứng thủy phân
lipid bởi hệ enzyme lipase và nhiệt độ bảo quản
thấp 0 - 20C cũng góp phần ức chế quá trình
oxy hóa lipid cho sản phẩm. Bên cạnh đó, việc
sử dụng hành tím, tỏi và tiêu để chế biến chả cá
cũng góp phần bổ sung các hợp chất sulfur như
alliin, allicin, L-cysteine sulfoxide and cycloalliin
có tính chất chống oxy hóa vào chả nên hạn chế
hiện tượng oxy hóa lipid và hạn chế giảm hàm
lượng lipid của sản phẩm [17].
Hình 2. Sự biến đổi hàm lượng lipid của chả cá trong quá trình bảo quản lạnh
a-c chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa các mẫu chả cá trong quá trình bảo quản
4. Thay đổi hàm lượng hydroperoxit
Mẫu chả cá làm từ nguyên liệu tươi luôn
có giá trị PV cao hơn đáng kể so với các mẫu
chả các làm từ nguyên liệu đã qua bảo quản
đông trong bốn tuần bảo quản lạnh ở 0 – 20C.
Cụ thể, ở 0 tuần bảo quản, PV của chả cá từ
NLT là 24,47 µmol/kg nhưng giá trị này chỉ là
14,37 µmol/kg và 17,59 µmol/kg của chả cá
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 45
từ nguyên liệu BQ1 và BQ6. Sau 2 tuần bảo
quản lạnh ở 0 - 20C, chỉ số PV đạt giá trị lớn
nhất (42,33 µmol/kg, 21,48 µmol/kg, và 32,64
µmol/kg tương ứng với các mẫu chả cá từ
nguyên liệu NLT, BQ1 và BQ6), nhưng sau 4
tuần bảo quản lạnh thì PV của các mẫu chả lại
giảm xuống (ngoại trừ PV của mẫu chả cá từ
nguyên liệu BQ1 giữ mức ổn định so với tuấn
bảo quản thứ 2) (Hình 3). Tốc độ oxy hóa các
axit béo phụ thuộc vào một số yếu tố như điều
kiện bảo quản, nhiệt độ bảo quản và thành phần
các axit béo của nguyên liệu ban đầu. Các hợp
chất peroxit là các sản phẩm oxy hóa ban đầu
hình thành trong các phản ứng oxy hóa axit
béo và chúng là các hợp chất không ổn định,
sẽ nhanh chóng bị bẻ gẫy mạch thành các sản
phẩm oxy hóa cấp hai như aldehyt, xeton và
alcohol [18]. Khi đó, giá trị PV sẽ giảm xuống.
Mức độ bẻ gẫy này nhanh hay chậm sẽ ảnh
hưởng đến sự thay đổi PV của mẫu. Các mẫu
chả cá từ nguyên liệu đã bảo quản đông có mức
độ tăng PV chậm hơn hơn và giá trị PV thấp
hơn. Điều này có thể giải thích do sự oxy hóa
lipid vẫn xảy ra trong quá trình bảo quản đông
nguyên liệu nên làm hao hụt một lượng axit béo
nhất định so với mẫu nguyên liệu NLT trong khi
đây là thành phần tham gia trực tiếp vào phản
ứng oxy hóa sinh ra các hợp chất peroxit.
Hình 3. Sự thay đổi chỉ số PV trong chả cá trong quá trình bảo quản lạnh
a-h chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa các mẫu chả cá trong quá trình bảo quản
5. Thay đổi các hợp chất TBARS
TBARS đặc trưng cho các sản phẩm oxy
hóa cấp hai của lipid. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra sự khác biệt đáng kể nào trong suốt 4 tuần
bảo quản lạnh chả cá từ nguyên liệu BQ1 và
BQ6 nhưng lại dễ nhận ra hiện tượng tăng
đáng kể TBARS của mẫu chả cá từ nguyên
liệu NLT trong 2 tuần bảo quản đầu trước khi
ổn định ở 2 tuần tiếp theo (Hình 4). Mặc dù các
hợp chất TBARS là sản phẩm cấp hai của quá
trình oxy hóa lipid, nó thể hiện mức độ hư hỏng
lipid nhưng nó không luôn cho phép nhận biết
chính xác về mức độ oxy hóa của lipid vì sản
phẩm malonaldehyt có thể tương tác với các
hợp chất khác trong thực phẩm như các amin,
nucleotit, axit nucleic, protein, phospholipid
hay các aldehyt khác và tương tác này có thể
khác nhau giữa các loài thủy sản khác nhau.
Khi đó có thể xảy ra hiện tượng oxy hóa hoặc
hiện tượng trùng hợp một vài loại protein và
acid amin [3]. Bên cạnh đó, chả cá là một sản
phẩm được phối trộn nhiều thành phần, trong
đó hành và tỏi có chứa các hợp chất sulfur như
alliin, allicin, L-cysteine sulfoxide and cycloalliin
có khả năng chống oxy hóa hiệu quả bằng cách
ức chế quá trình hình thành gốc tự do, tiêu có
chứa một số alkaloid như piperine cũng có khả
năng chống oxy hóa tốt và một số thành phần
có khả năng kháng khuẩn [17]. Tinh bột và lòng
trắng trứng có tác dụng tăng độ bền gel protein
hạn chế sự biến tính protein nên gián tiếp hạn
chế sự oxy hóa lipid [13]. Tất cả những điều
này đã góp phần hạn chế những biến đổi giảm
chất lượng lipid trong chả cá.
46 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
6. Thay đổi hàm lượng FFA
Kết quả từ hình 5 cho thấy chả cá từ
nguyên liệu bảo quản đông có hàm lượng FFA
cao hơn đáng kể (p<0,05) so với các mẫu chả
cá từ nguyên liệu tươi và nguyên liệu bảo quản
đông 6 tháng cho sản phẩm chả cá có hàm
lượng FFA cao nhất. FFA là sản phẩm của
quá trình thủy phân lipid, cụ thể là thủy phân
triacylglyxerit và phospholipid. Trong nghiên
cứu này, các nguyên liệu redfi sh xay có tỷ lệ
cơ thịt sẫm mầu khá lớn vì nó được tận dùng
từ các phần thịt vụn, thành phần phospholipid
không biến đổi giảm đi nên có thể FFA sinh ra
từ triacylglyxerit. Dự đoán này có phù hợp với
kết quả của một nghiên cứu chỉ ra rằng trong
quá trình bảo quản đông, cá có cơ thịt sẫm
màu thì sự sinh FFA chủ yếu bởi quá trình thủy
phân triacylglyxerit [15]. Bên cạnh đó, không
có sự khác biệt đáng kể nào của hàm lượng
FFA trong suốt 4 tuần bảo quản lạnh sản phẩm
chả cá. Có thể, việc hấp chín đã đình chỉ hoạt
động của enzyme tham gia thủy phân lipid, và
nhiệt độ bảo quản thấp (0 – 20C) góp phần ức
chế sự phát triển của vi sinh vật sinh enzyme
lipase, nên hàm lượng FFA ổn định trong 4
tuần bảo quản lạnh sản phẩm chả cá.
Hình 4. Sự thay đổi chỉ số TBARS trong chả cá trong quá trình bảo quản lạnh
a-d chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa các mẫu chả cá trong quá trình bảo quản
Hình 5. Sự biến đổi hàm lượng FFA trong chả cá trong quá trình bảo quản lạnh
a-e chỉ sự khác biệt có ý nghĩa (p<0.05) giữa các mẫu chả cá trong quá trình bảo quản
IV. KẾT LUẬN
Chả cá đã được hấp chín đưa vào bảo
quản lạnh ở 0 - 20C, chả cá từ nguyên liệu
redfi sh đã bảo quản đông có hàm lượng FFA
cao hơn nhưng chỉ số PV và TBARS thấp hơn
so với chả cá từ nguyên liệu redfi sh tươi.
Trong quá trình bảo quản lạnh (0 - 20C)
các mẫu chả cá từ nguyên liệu tươi,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 47
nguyên liệu đã bảo quản đông 1 tháng và 6
tháng, không thấy có sự thay đổi đáng kể hàm
lượng lipid và FFA, PV có xu hướng tăng lên
ở tuần bảo quản thứ 2 và giảm xuống sau 4
tuần bảo quản, TBARS của các mẫu chả cá từ
nguyên liệu đã bảo quản đông ổn định trong
4 tuần bảo quản trong khi giá trị này của chả
cá từ nguyên liệu redfi sh tươi lại tăng liên tục
theo thời gian bảo quản lạnh. Các biến đổi này
cho thấy chả cá đã hấp chín vẫn có những biến
đổi giảm chất lượng lipid trong 4 tuần bảo quản
lạnh ở 0 - 20C.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Dương Thùy Linh, 2010. Nghiên cứu quy trình công nghệ chế biến giò chả cá tra pha cá thát lát và bảo quản sản
phẩm. Luận văn thạc sỹ kỹ thuật, chuyên ngành Công nghệ sau thu hoạch, Trường Đại học Nha Trang.
2. Trần Thị Luyến và các tác giả, 2010. Khoa học Công nghệ - Surimi và sản phẩm mô phỏng. NXB Nông nghiệp,
Tp. Hồ Chí Minh.
Tiếng Anh
3. Agustinelli S.P., & Yeannes M.I., 2015. Effect of Frozen Storage on Biochemical Changes and Fatty Acid
Composition of Mackerel (Scomber japonicus) Muscle. Journal of Food Research; 4(1), 135-147.
4. Benjakul, S., Visessanguan, W., Thongkaew, C., & Tanaka, M., 2005. Effect of frozen storage on chemical
and gel-forming properties of fi sh commonly used for surimi production in Thailand. Food Hydrocolloids, 19,
197–207.
5. Domiszewski, Z., Bienkiewicz, G., & Plust, D., 2011. Effects of different heat treatments on lipid quality of
striped catfi sh (Pangasius hypophthalmus). Acta Scientiarum Polonorum, Technologia Alimentaria, 10(3),
359–373
6. Dumay, J., 2006. Extraction of lipids in an aqueous route by an enzymatic bioreactor combined with ultrafi ltration:
application to the recovery of fi sh co-products (sardina pilchardus). Doctoral thesis. Bioprocesses and marine
biotechnology. The University of Nantes.
7. Eide, O., Borresen, T., & Strom, T., 1982. Minced Fish Production From Capelin (Mallotus villosus). A New
Method for Gutting, Skinning and Removal of Fat from Small Fatty Fish Species. Journal of Food Science, 47
(October), 347–349.
8. FAO, 2013. Icelandic Golden Redfi sh Commercial Fishery.
9. Innovation Norway, 2014. Market Opportunities for Norwegian techonology providers and processors in the
pangasius by-products in Vietnam. Report of the Ha Noi Offi ce, Vietnam.
10. Jobling, M., Johansen, S. J. S., Foshaug, H., Burkow, I. C., & Jørgensen, E. H., 1998. Lipid dynamics in
anadromous Arctic charr, Salvelinus alpinus (L.): seasonal variations in lipid storage depots and lipid class
composition. Fish Physiology and Biochemistry, 18, 225–240.
11. Joseph, J., & Perigreen, P. A., 1983. Studies on frozen storage of minced fi sh from threadfi n bream. Journal of
Fisheries Technology, 20, 13–16.
12. Karami, B., Moradi, Y., Motallebi, A. A., Hosseini, E., & Soltani, M., 2013. Effects of frozen storage on fatty
acids profi le, chemical quality indices and sensory properties of red tilapia (Oreochromis niloticus x Tilapia
mosambicus) fi llets. Iranian Journal of Fisheries Sciences, 12(2), 378–388.
13. Kok, T. N., & Park, J. W., 2007. Extending the shelf life of set fi sh ball. Journal of Food Quality, 30, 1–27.
48 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2017
14. Ktari, N., & Trabelsi, I., 2015. Effects of Cooking Methods on Physicochemical and Microbiological
Characteristics of Zebra Blenny (Salaria basilisca) Fillets. Journal of Advanced Techniques in Biology &
Medicine, 03(03).
15. Nazemroaya, S., Sahari, M. A., & Rezaei, M., 2011. Identifi cation of fatty acid in mackerel (Scomberomorus
commersoni) and shark (Carcharhinus dussumieri) fi llets and their changes during six month of frozen storage
at -18°C. Journal of Agricultural Science and Technology, 13(4), 553–566
16. Nghi, N. Q., & Sigurdsson, T., 2002. Redfi sh (Sebastes marinus) in marine protected areas west of Iceland. Final
project of the Fellow of the United Nations University- Fisheries Training Programme.
17. Puvaca, N., Ljubojevic, D., Lukac, D., Beukovic, M., Kostadinovic, L., Teodosin, S., & Stanacev, V., 2014.
Bioactive compounds of garlic, black pepper and hot red pepper. Conference paper: XVI International
Symposium ‘Feed Technology’, Food Tech Congress. At Novi Sad, Serbia.
18. Tenyang, N., Womeni, H. M., Tiencheu, B., Hrodrik, N., Foka, T., Mbiapo, F. T., Linder, M., 2013. Lipid
oxidation of catfi sh (Arius maculatus) after cooking and smoking by different methods applied in Cameroon.
Food and Nutrition Sciences, 4(September), 176–187.
19. Shahidi, F., 2006b. Maximising the value of marine by-Products. The effects of brief mindfulness intervention
on acute pain experience: An examination of individual difference (Vol. 1).
20. Sobha, K., Harini, & Veeraiah., 2007. A study on biochemical changes in the fresh water fi sh, catla catla
(Hamilton) exposed to the heavy metal toxicant cadmium chloride. Kathmandu University Journal of Science,
1, 1-11.
21. Waters, M. E., 1982. Chemical composition and frozen storage stability of spot, Leiostomus xanthurus. Marine
Fisheries Review, 44(11), 14–22.
22. Yhoemke, K., 2009. Florida fi shing - Species. Retrieved from orida-outdoors.com/fsred.htm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- bien_doi_chat_luong_lipid_cua_cha_ca_lam_tu_thit_ca_redfish.pdf