TÓM TẮT BÁO CÁO VỀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI CỦA QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾTăng trưởng toàn cầu đang giảm tốc
do tác động của khủng hoảng tài chính
(Chương 1). Suy giảm tăng trưởng xảy ra
nhiều nhất ở các nền kinh tế tiên tiến, đặc
biệt là ở Mỹ - nơi mà sự điều chỉnh của thị
trường nhà đất tiếp tục làm cho những căng
thẳng tài chính trở nên phức tạp thêm.
Trong số các nền kinh tế tiên tiến khác,
tăng trưởng ở khu vực Tây Âu cũng chậm
lại, mặc dù tình hình ở Nhật Bản tỏ ra khả
quan hơn. Cho đến nay, các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển chịu tác động ít
hơn trước diễn biến thị trường tài chính và
tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ nhanh, dẫn
đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, mặc dù ở
một số quốc gia, các hoạt động cũng đang
bắt đầu chững lại.
Cùng với diễn biến nêu trên, lạm
phát chung (headline inflation) tăng lên ở
nhiều nơi trên thế giới, xuất phát từ sự gia
tăng mạnh của giá lương thực thực phẩm và
năng lượng. Ở các nền kinh tế tiên tiến, lạm
phát cơ bản cũng tăng cao trong những
tháng gần đây, mặc dù tăng trưởng đang
chậm lại. Trong các nền kinh tế mới nổi,
lạm phát chung tăng rõ rệt hơn do cầu tăng
trưởng mạnh, đồng thời năng lượng và đặc
biệt là lương thực thực phẩm chiếm tỉ trọng
cao hơn trong rổ hàng hoá dịch vụ tiêu
dùng.
14 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1817 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Báo cáo Tóm tắt về triển vọng kinh tế thế giới của quỹ tiền tệ quốc tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TÓM TẮT BÁO CÁO VỀ TRIỂN VỌNG KINH TẾ THẾ GIỚI CỦA
QUỸ TIỀN TỆ QUỐC TẾ
Môi trường kinh tế toàn cầu
Tăng trưởng toàn cầu đang giảm tốc
do tác động của khủng hoảng tài chính
(Chương 1). Suy giảm tăng trưởng xảy ra
nhiều nhất ở các nền kinh tế tiên tiến, đặc
biệt là ở Mỹ - nơi mà sự điều chỉnh của thị
trường nhà đất tiếp tục làm cho những căng
thẳng tài chính trở nên phức tạp thêm.
Trong số các nền kinh tế tiên tiến khác,
tăng trưởng ở khu vực Tây Âu cũng chậm
lại, mặc dù tình hình ở Nhật Bản tỏ ra khả
quan hơn. Cho đến nay, các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển chịu tác động ít
hơn trước diễn biến thị trường tài chính và
tiếp tục tăng trưởng với nhịp độ nhanh, dẫn
đầu là Trung Quốc và Ấn Độ, mặc dù ở
một số quốc gia, các hoạt động cũng đang
bắt đầu chững lại.
Cùng với diễn biến nêu trên, lạm
phát chung (headline inflation) tăng lên ở
nhiều nơi trên thế giới, xuất phát từ sự gia
tăng mạnh của giá lương thực thực phẩm và
năng lượng. Ở các nền kinh tế tiên tiến, lạm
phát cơ bản cũng tăng cao trong những
tháng gần đây, mặc dù tăng trưởng đang
chậm lại. Trong các nền kinh tế mới nổi,
lạm phát chung tăng rõ rệt hơn do cầu tăng
trưởng mạnh, đồng thời năng lượng và đặc
biệt là lương thực thực phẩm chiếm tỉ trọng
cao hơn trong rổ hàng hoá dịch vụ tiêu
dùng.
Thị trường hàng hoá truyền thống
(commodity) tiếp tục tăng trưởng mạnh cho
dù hoạt động kinh tế toàn cầu đang giảm
tốc. Cầu tăng mạnh ở các nền kinh tế mới
nổi, trong đó phần nhiều là do sự gia tăng
trong tiêu dùng đối với các hàng hoá truyền
thống trong những năm gần đây là động lực
thúc đẩy giá cả tăng cao. Trong khi đó cầu
liên quan đến nhiên liệu sinh học đã đẩy giá
các mặt hàng lương thực chính tăng lên.
Đồng thời, sự điều chỉnh từ phía cung trước
diễn biến giá cả tăng cao lại có những độ
trễ, đáng chú ý là dầu mỏ và mức tồn kho
hàng hoá trên nhiều thị trường đã giảm
xuống mức thấp, xét trong thời kỳ từ trung
đến dài hạn (xem Phụ lục 1.2). Giá cả hàng
hoá truyền thống tăng mạnh trong những
năm gần đây dường như một phần cũng
xuất phát từ các yếu tố tài chính, do các
hàng hoá này ngày càng được sử dụng như
những tài sản thay thế.
Cú sốc tài chính xảy ra vào tháng
8/2007 (do trạng thái bình thường của thị
trường nợ bất động sản dưới tiêu chuẩn ở
Mỹ đã bị phá vỡ vì sự bùng nổ trong hoạt
động nhà đất sau đó đã bị đảo ngược) đã
nhanh chóng lan nhanh và bất ngờ làm tổn
hại đến thị trường và các tổ chức vốn là cốt
lõi của hệ thống tài chính. Cú sốc này đã
làm giảm thanh khoản trên thị trường liên
ngân hàng, làm suy yếu nguồn vốn tự có
của một số ngân hàng lớn, và thúc đẩy việc
tái định giá rủi ro đối với một loạt các công
cụ (được thảo luận chi tiết hơn ở Báo Cáo
Ổn Định Tài Chính Toàn Cầu tháng
4/2008). Thanh khoản vẫn bị ảnh hưởng
nghiêm trọng mặc dù có sự ứng phó tích
cực của nhiều ngân hàng trung ương. Trong
khi đó, quan ngại về rủi ro tín dụng gia tăng
và lan rộng ra xa phạm vi khu vực nợ bất
động sản dưới tiêu chuẩn. Giá cả cổ phiếu
cũng giảm do ngày càng có nhiều dấu hiệu
kinh tế yếu kém. Thị trường cổ phiếu và
tiền tệ vẫn luôn biến động.
Những xáo trộn nêu trên cùng với
xu hướng giảm sự tìm kiếm hỗ trợ tài chính
đang tác động tới cả kênh tín dụng ngân
hàng và tín dụng phi ngân hàng ở các nền
kinh tế tiên tiến. Bằng chứng là việc thắt
chặt tín dụng đang diễn ra trên bình diện
rộng – mặc dù chưa thể coi đây hoàn toàn
là một sự suy giảm trong hoạt động tín
dụng. Các chuẩn mực về cho vay của các
ngân hàng ở Mỹ và Tây Âu đang được thắt
chặt, việc phát hành chứng khoán cấu trúc
giảm đi, và tỉ lệ cộng thêm vào các mức lãi
2
suất chuẩn áp dụng trong các khoản nợ đối
với doanh nghiệp tăng mạnh. Tác động của
các yếu tố này diễn ra mạnh ở Mỹ và đang
khiến cho thị trường nhà đất có sự điều
chỉnh sâu hơn. Ở Tây Âu, tác động ngoại
lai chính diễn ra đối với các ngân hàng liên
quan đến các chứng khoán dưới tiêu chuẩn
của Mỹ và những gián đoạn trên thị trường
liên ngân hàng, thị trường chứng khoán cấu
trúc.
Những căng thẳng gần đây trên thị
trường tài chính cũng tác động đến các thị
trường hối đoái. Tỉ giá thực có hiệu lực của
đô la Mỹ đã giảm mạnh kể từ giữa năm
2007, do đầu tư nước ngoài vào các trái
phiếu và cổ phiếu của Mỹ bị ảnh hưởng
tiêu cực trước tình hình suy giảm lòng tin
vào tính thanh khoản cũng như lợi nhuận có
được từ các tài sản này, đồng thời cũng do
việc cắt giảm lãi suất (của Fed) và triển
vọng tăng trưởng kinh tế Mỹ đang kém đi.
Giá trị đồng đô la Mỹ suy giảm đã thúc đẩy
tăng trưởng xuất khẩu ròng và đưa thâm hụt
cán cân vãng lai của Mỹ xuống dưới mức
5% GDP vào quý 4 năm 2007, thấp hơn
1.5% so với mức thâm hụt cao nhất trong
năm 2006. Đối tác chính song hành với sự
suy giảm của đô la Mỹ chính là sự lên giá
của đồng Euro, Yên và các đồng tiền khác
dưới chế độ tỉ giá thả nổi như: Đô la
Canada và một số đồng tiền của các nền
kinh tế mới nổi. Tuy nhiên, một số quốc gia
có cán cân vãng lai thặng dư lớn, trong đó
đáng chú ý là Trung Quốc và các nước xuất
khẩu dầu mỏ ở Trung Đông, nhưng sự biến
động tỉ giá của các nước này (so với đô la
Mỹ) lại tỏ ra ít rõ ràng hơn.
So với những căng thẳng của thị
trường tài chính toàn cầu thời kỳ trước đây,
ảnh hưởng ngoại lai trực tiếp của những
cẳng thẳng gần đây đối với các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển là ít rõ ràng hơn,
mặc dù trong những tháng gần đây luồng
vốn vào đã bình lặng hơn và hoạt động phát
hành cũng giảm. Nhiều quốc gia phụ thuộc
quá lớn vào luồng vốn vay nước ngoài ngắn
hạn, nên bị tác động nhiều hơn. Ảnh hưởng
ngoại lai của sự suy giảm tăng trưởng ở các
nền kinh tế tiên tiến đối với thương mại là
hạn chế, song rõ nét hơn ở những nền kinh
tế có trao đổi thương mại nhiều với Mỹ. Do
vậy, nhìn chung các nền kinh tế mới nổi và
nền kinh tế phát triển tiếp tục có sự tăng
trưởng khá, trong đó nhiều quốc gia vẫn
đang phải đối mặt với tỉ lệ lạm phát gia
tăng do giá lương thực thực phẩm, năng
lượng và cầu nội địa tăng mạnh.
Trụ cột để các nền kinh tế mới nổi
và đang phát triển giữ được nhịp độ tăng
trưởng là quá trình hội nhập ngày càng tăng
của các nền kinh tế này với nền kinh tế toàn
cầu, cũng như giá cả nhiều hàng hoá truyền
thống hiện đang gia tăng mạnh mẽ. Các yếu
tố này đã thúc đẩy, giúp cho hoạt động xuất
khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài và đầu tư
trong nước tại các quốc gia xuất khẩu hàng
hoá truyền thống đạt được những kết qủa
tốt hơn so với những lần tăng giá trước đó.
Như được phân tích tại Chương 5, các nhà
xuất khẩu những mặt hàng truyền thống đã
đạt được những tiến triển trong việc đa
dạng hoá chủng loại hàng xuất khẩu của
mình, bao gồm cả việc tăng cường xuất
khẩu hàng hóa chế tạo, đồng thời tỉ trọng
thương mại giữa các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển đã tăng lên. Khuôn khổ
chính sách kinh tế vĩ mô, môi trường thể
chế được cải thiện và tăng cường cũng là
những yếu tố quan trọng để hỗ trợ cho việc
đạt được các điều kiện thuận lợi nêu trên.
Do đó, tình hình tăng trưởng kinh tế của
các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển
đã trở nên ít phụ thuộc hơn vào chu kỳ kinh
doanh của các nền kinh tế tiên tiến, mặc dù
rõ ràng là không thể loại trừ được các ảnh
hưởng ngoại lai.
Triển vọng và rủi ro
Tăng trưởng toàn cầu được dự báo
sẽ chững lại ở con số 3.7% trong năm 2008,
thấp hơn 0.5 điểm phần trăm so với thời
điểm phát hành Bản Cập Nhật Triển Vọng
Kinh Tế Thế Giới hồi tháng 1, và thấp hơn
1.25 điểm phần trăm so với mức tăng
trưởng của năm 2007. Hơn nữa, tăng
trưởng được dự báo là nhìn chung sẽ không
thay đổi trong năm 2009. Sự khác biệt của
diễn biến tăng trưởng ở các nền kinh tế tiên
tiến và mới nổi được dự đoán sẽ tiếp tục
diễn ra, trong đó tăng trưởng ở các nền kinh
tế tiên tiến nhìn chung được dự đoán sẽ
giảm xuống dưới mức tiềm năng. Nền kinh
3
tế Mỹ trong năm 2008 sẽ tiếp tục lâm vào
suy thoái nhẹ do chu kỳ tự củng cố lẫn
nhau của thị trường tài chính và thị trường
nhà đất, trước khi bắt đầu hồi phục nhẹ vào
năm 2009 khi các vấn đề về bảng cân đối
tài khoản dần được giải quyết (Chương 2).
Tỉ lệ tăng trưởng ở Tây Âu cũng được dự
báo là sẽ chững lại ở dưới mức tiềm năng,
do ảnh hưởng ngoại lai của hoạt động
thương mại, thắt chặt tài chính và chu kỳ
suy thoái của thị trường nhà đất ở một số
nước. Trong khi đó, tăng trưởng ở các nền
kinh tế mới nổi và đang phát triển được dự
đoán là sẽ chậm lại chút ít, nhưng vẫn ở
mức cao, cả trong năm 2008 và 2009. Tăng
trưởng chững lại xuất phát từ những nỗ lực
ngăn chặn tăng trưởng nóng ở một số nước,
ảnh hưởng ngoại lai về tài chính và giá cả
các hàng hoá truyền thống giảm bớt sự gia
tăng.
Cán cân tổng thể về rủi ro đối với
triển vọng tăng trưởng toàn cầu trong ngắn
hạn vẫn nghiêng về đà suy giảm. Cán bộ
của IMF dự báo có 25% khả năng tăng
trưởng toàn cầu sẽ giảm xuống mức 3%
hoặc thấp hơn trong năm 2008 và 2009,
điều này tương đồng với một cuộc suy
thoái toàn cầu. Rủi ro lớn nhất xuất phát từ
các sự kiện hiện vẫn tiếp tục diễn ra trên thị
trường tài chính, đặc biệt là tiềm ẩn những
thiệt hại từ các khoản tín dụng cấu trúc liên
quan đến thị trường nợ bất động sản dưới
tiêu chuẩn và các khu vực khác, từ đó huỷ
hoại nghiêm trọng đến bảng cân đối tài
khoản của hệ thống tài chính và khiến cho
quá trình siết chặt tín dụng hiện tại chuyển
thành suy giảm tín dụng. Tác động tương
hỗ của các cú sốc tài chính với cầu nội địa,
đặc biệt là qua kênh thị trường nhà đất vẫn
là quan ngại của nước Mỹ, và sau đó là đến
Tây Âu cùng với các nền kinh tế tiên tiến
khác. Cầu nội địa ở các nền kinh tế mới nổi
được dự báo là có triển vọng tăng trưởng,
nhưng các nền kinh tế này vẫn dễ bị tổn
thương trước những ảnh hưởng ngoại lai về
thương mại và tài chính. Đồng thời, các rủi
ro liên quan đến áp lực lạm phát cho đến
nay tăng lên, do giá cả tăng mạnh trên thị
trường hàng hoá truyền thống và lạm phát
cơ bản đang tăng.
Các vấn đề về chính sách
Các nhà hoạch định chính sách trên
thế giới đang đối mặt với nhiều thách thức.
Những thách thức này biến động rất nhanh
và mặc dù ở mỗi quốc gia một khác, nhưng
trong thế giới mà tính đa cực ngày càng
tăng, thì cần thiết phải ứng phó với chúng
trên bình diện rộng và tính đến những tác
động tương hỗ qua biên giới giữa các nước.
Trong các nền kinh tế tiên tiến, nhiệm vụ
khó khăn là xử lý những xáo trộn trên thị
trường tài chính và ứng phó với rủi ro suy
giảm tăng trưởng. Tuy nhiên, sự lựa chọn
về chính sách cũng cần tính đến những rủi
ro về lạm phát và những quan ngại về dài
hạn. Nhiều nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển vẫn phải đối mặt với thách thức
về việc đảm bảo để tăng trưởng kinh tế hiện
tại ở mức cao mà không gây ra áp lực gia
tăng lạm phát hoặc khiến cho nền kinh tế dễ
bị tổn thương. Song các nền kinh tế này cần
sẵn sàng ứng phó với diễn biến tăng trưởng
chậm lại, cũng như các điều kiện tài trợ khó
khăn hơn nếu môi trường bên ngoài xấu đi
nhiều.
Các nền kinh tế tiên tiến
Các nhà hoạch định chính sách tiền
tệ ở các nền kinh tế tiên tiến đứng trước
yêu cầu khó khăn của luật ngân hàng đó là:
loại bỏ rủi ro suy giảm tăng trưởng và đảm
bảo không để lạm phát gia tăng. Ở Mỹ, xu
hướng rủi ro suy giảm tăng trưởng sản
lượng và những bất chắc (không chắc chắn)
về phạm vi, thời gian và tác động của
những xáo trộn tài chính cũng như tình
hình trên thị trường lao động xấu đi, đã
biện minh cho hành động của Fed về các
đợt cắt giảm sâu đối với lãi suất và tiếp tục
quan điểm chính sách tiền tệ nới lỏng cho
đến khi nền kinh tế có được sự ổn định
vững chắc. Trong khu vực đồng euro, mặc
dù tình hình lạm phát gần đây là khá cao,
nhưng trong bối cảnh khó khăn gia tăng,
nên tăng trưởng có thể sẽ giảm trở lại mức
2% trong năm 2009. Theo đó, Ngân hàng
Trung ương Châu âu có thể điều hành theo
quan điểm nới lỏng tiền tệ. Ở Nhật Bản, có
những lý do để nước này tiếp tục duy trì sự
ổn định của lãi suất, mặc dù nếu làm như
vậy thì khi có những khó khăn lớn đối với
4
triển vọng tăng trưởng, khả năng giảm lãi
suất sẽ bị hạn chế.
Ngoài những quan ngại tức thời nêu
trên, diễn biến tài chính gần đây đã tiếp tục
dấy lên cuộc tranh luận về mức độ mà các
ngân hàng trung ương phải xem xét đối với
giá cả tài sản khi điều hành chính sách tiền
tệ. Về vấn đề này, Chương 3 xem xét mối
liên hệ giữa chu kỳ thị trường nhà đất và
chính sách tiền tệ. Kết luận được rút ra là:
kinh nghiệm gần đây dường như ủng hộ
cho quan điểm rằng các quyết định chính
sách tiền tệ nên tập trung nhiều hơn vào sự
biến động của giá nhà đất, đặc biệt là ở
những nền kinh tế mà thị trường nợ bất
động sản phát triển hơn và “các tác động
thúc đẩy của yếu tố tài chính” trở nên rõ nét
hơn. Điều này có thể được thực hiện trong
một khuôn khổ quản lý rủi ro đối với chính
sách tiền tệ bằng việc “dựa vào gió”
(“leaning against the wind), tức là phản ứng
của chính sách tiền tệ cũng căn cứ vào diễn
biến giá cả nhà đất biến động nhanh hoặc
khi nó vượt ra ngoài trạng thái bình thường.
Mặc dù vậy, sẽ là không khả thi hoặc cần
thiết khi chính sách tiền tệ hướng vào
những mục tiêu cụ thể về giá nhà đất.
Chính sách tài khoá có thể đóng vai
trò hữu ích trong việc bình ổn ở các nền
kinh tế tiên tiến trong trường hợp tăng
trưởng kinh tế theo chiều hướng đi xuống.
Mặc dù vậy, chính sách tài khoá không nên
làm phương hại đến các nỗ lực củng cố tình
hình tài khoá trong thời kỳ trung hạn.
Trước hết, các chính sách và chương trình
tự bình ổn, có khả năng hỗ trợ tài khoá kịp
thời, mà không ảnh hưởng xấu đến tiến
trình hướng tới các mục tiêu trung hạn.
Thêm vào đó, có những lý do để biện minh
cho quan điểm về vai trò đòn bẩy tăng
trưởng của chính sách tài khoá ở một số
quốc gia, xuất phát từ những quan ngại hiện
tại về áp lực làm suy thoái kinh tế, đồng
thời quan ngại rằng những xáo trộn về tài
chính có thể làm suy yếu cơ chế truyền dẫn
bình thường của chính sách tiền tệ. Tuy
nhiên, bất kỳ chính sách khuyến khích tăng
trưởng nào cũng cần được thực hiện kịp
thời, đảm bảo hướng đúng mục tiêu và
nhanh chóng kết thúc. Ở Mỹ, nơi mà các
chính sách và chương trình tự bình ổn có
quy mô khá nhỏ, thì một đạo luật gần đây
về việc sử dụng đòn bẩy kinh tế trong
những thời kỳ căng thẳng dường như đã thể
hiện đầy đủ tính thuyết phục, nhưng mức
độ hỗ trợ bổ sung của khu vực công cho các
thị trường tài chính và nhà đất cũng cần
được làm rõ. Trong khu vực đồng euro, nơi
mà các chính sách, chương trình tự bình ổn
được triển khai rộng rãi hơn, thì chúng cần
được thực hiện đầy đủ vai trò bình ổn trước
những diễn biến thâm hụt để có được
những bước tiến vững chắc hướng đến các
mục tiêu trung hạn. Các quốc gia, nơi mà
khả năng thực hiện các mục tiêu trung hạn
nằm trong tầm tay của mình, thì có thể áp
dụng thêm một số đòn bẩy kinh tế trong
trường hợp cần thiết. Tuy nhiên, đối với
những quốc gia khác, thì ngay cả khả năng
triển khai các chính sách và chương trình tự
bình ổn cũng bị hạn chế do mức độ nợ của
khu vực công cao, đồng thời các kế hoạch
điều chỉnh hiện tại chưa đủ để đạt được tính
bền vững trong trung hạn. Ở Nhật Bản, nợ
ròng của khu vực công được dự báo là vẫn
ở mức cao, mặc dù quốc gia này đã có
những nỗ lực củng cố trong thời gian gần
đây. Trong bối cảnh suy giảm tăng trưởng
kinh tế, có thể triển khai các chính sách và
chương trình tự bình ổn, tuy nhiên tác động
của chúng đến cầu nội địa là nhỏ, trong khi
cũng không có nhiều cơ hội cho việc thực
hiện các hành động mang tính tự quyết.
Các nhà hoạch định chính sách cần
tiếp tục với những nỗ lực cao để giải quyết
những xáo trộn trên thị trường tài chính,
tránh xảy ra khủng hoảng thực sự về lòng
tin hoặc suy giảm trong hoạt động tín dụng.
Những ưu tiên tức thời (được nêu trong bản
Báo Cáo Ổn Định Tài Chính Toàn Cầu vào
tháng 4/2008) sẽ có tác dụng tăng cường
tính hiệu quả của về vốn và tài chính của
các tổ chức, đồng thời làm giảm căng thẳng
về thanh khoản. Các sáng kiến trợ giúp thị
trường nhà đất ở Mỹ, bao gồm cả khả năng
sử dụng bảng cân đối tài khoản của khu vực
công, có thể giúp làm giảm những bất chắc
về sự tiến triển của hệ thống tài chính, mặc
dù cũng cần thận trọng để tránh xảy ra
những rủi ro đạo đức không đáng có.
Những cải cách mang tính dài hạn bao gồm
việc cải thiện các quy định đối với thị
trường nợ bất động sản, tăng cường tính
độc lập của các cơ quan xếp hạng, mở rộng
5
hoạt động giám sát, đẩy mạnh khuôn khổ
hợp tác trong giám sát và cải thiện cơ chế
giải quyết khủng hoảng.
Các nền kinh tế mới nổi và đang phát
triển
Các nền kinh tế mới nổi và đang
phát triển phải đối mặt với thách thức kiểm
soát lạm phát, đồng thời phải tỉnh táo trước
rủi ro suy giảm tăng trưởng do ảnh hưởng
từ các nền kinh tế tiên tiến cùng với những
căng thẳng trên thị trường tài chính. Ở một
số quốc gia, chính sách tiền tệ có thể cần
được thắt chặt thêm để giữ lạm phát trong
tầm kiểm soát. Với chế độ tỉ giá hối đoái
linh hoạt, khi đồng tiền lên giá sẽ có xu
hướng trợ giúp cho việc thắt chặt tiền tệ. Ở
các quốc gia có sự quản lý nhiều đối với tỉ
giá giữa bản tệ với đô la Mỹ, thì có ít khả
năng ứng phó, bởi lãi suất gia tăng sẽ
khuyến khích luồng vốn chảy nhiều vào
trong nước. Nền kinh tế đa dạng của Trung
Quốc và một số quốc gia khác sẽ được lợi
từ việc chuyển sang chế độ tỉ giá linh hoạt
hơn do chính sách tiền tệ có khả năng và
tầm ảnh hưởng rộng hơn. Đối với nhiều
quốc gia xuất khẩu dầu mỏ ở khu vực
Trung Đông, việc neo tỉ giá vào đồng đô la
Mỹ đã gây khó khăn cho thực thi chính
sách tiền tệ; và điều quan trọng là hoạt
động chi tiêu tài khoá gia cần được xác
định rõ để phù hợp với diễn biến mang tính
chu kỳ của các nền kinh tế này, đồng thời
cần ưu tiên cho các hoạt động chi tiêu nhằm
loại bỏ những nút cổ chai về cung trong nền
kinh tế.
Các chính sách về tài khoá và tài
chính cũng có thể đóng vai trò hữu ích
trong việc ngăn chặn tăng trưởng nóng và
các vấn đề liên quan. Việc hạn chế chi tiêu
có thể giúp điều hoà cầu nội địa, giảm yêu
cầu thắt chặt tiền tệ và làm giảm áp lực từ
các luồng vốn vào ngắn hạn. Việc giám sát
tài chính một cách thận trọng – thúc đẩy
thắt chặt các chuẩn mực cho vay một cách
hợp lý và tăng cường quản lý rủi ro tại các
tổ chức tài chính trong nước – có thể mang
lại kết quả tốt trên cả phương diện điều hoà
áp lực tổng cầu tăng do tăng trưởng tín
dụng nhanh và giảm khả năng dễ bị tổn
thương của bảng cân đối tài khoản.
Đồng thời, các nhà hoạch định
chính sách cũng cần sẵn sàng ứng phó với
những tác động khắc nghiệt hơn từ môi
trường bên ngoài. Đây là những tác động
có thể ảnh hưởng xấu đến thương mại và
cản trở lưu chuyển của luồng vốn vào. Ở
nhiều quốc gia, khuôn khổ chính sách và
bảng cân đối tài khoản của khu vực tài
chính được tăng cường sẽ tạo điều kiện cho
chính sách tiền tệ và tài khoá được sử dụng
nhiều hơn so với trước đây trong việc điều
hoà những thay đổi mang tính chu kỳ của
nền kinh tế. Ở Trung Quốc, các yếu tố nêu
trên đã được củng cố trong những năm gần
đây, bởi vậy chúng tạo nhiều điều kiện để
chính sách tài khoá có thể hỗ trợ cho nền
kinh tế, chẳng hạn như bằng việc tăng
cường các kế hoạch đầu tư công và đẩy
mạnh tiến trình cải cách mạng lưới an sinh
xã hội, y tế và giáo dục. Ở nhiều nước châu
Mỹ La tinh, khuôn khổ lạm phát mục tiêu
được thiết lập tốt sẽ là cơ sở để nới lỏng
tiền tệ khi có sự suy giảm trong hoạt động
của nền kinh tế, hoặc khi áp lực lạm phát đã
mất đi. Các chính sách và chương trình tự
bình ổn cũng có thể được vận hành, mặc dù
sẽ có ít khả năng để sử dụng các đòn bẩy tài
khoá do nợ công của các quốc gia này vẫn
ở mức cao. Một số nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển mà có cán cân vãng lai thâm
hụt lớn, dễ bị tổn thương và phụ thuộc vào
luồng vốn vào, thì có thể cần ứng phó bằng
cách thắt chặt chính sách ngay để duy trì
lòng tin.
Các sáng kiến đa phương và chính sách
Những nỗ lực trên bình diện rộng để vượt
qua các thách thức toàn cầu trở nên hết sức
cần thiết. Trong trường hợp có sự suy thoái
nghiêm trọng trên toàn cầu, thì ở những
quốc gia đạt được những tiến bộ về tình
hình tài khoá trong thời gian gần đây, khả
năng tiến hành những trợ giúp tạm thời về
tài khoá là có cơ sở thực hiện. Việc áp dụng
đòn bẩy tài khoá ở những quốc gia được lợi
từ những ảnh hưởng mạnh lên của tổng cầu
có thể sẽ hữu hiệu hơn nhiều so với những
nỗ lực riêng biệt, do ở những nền kinh tế
mở, không thể tránh khỏi những rò rỉ qua
biên giới khi gia tăng chi tiêu. Hẳn là vẫn
còn sớm để thực hiện các giải pháp trên,
6
nhưng các quốc gia nên cẩn trọng và bắt
đầu với việc lập kế hoạch dự phòng, để
đảm bao có sự ứng phó kịp thời trong
trường hợp những hỗ trợ đó trở nên cần
thiết.
Giảm bớt rủi ro liên quan đến
những bất cân bằng cán cân vãng lai vẫn là
một nhiệm vụ quan trọng. Đáng mừng là đã
có những tiến triển trong việc triển khai
chiến lược do Uỷ Ban Tài Chính và Tiền
Tệ Quốc Tế phê chuẩn, và các kế hoạch
chính sách chi tiết do các quốc gia thành
viên lập ra trong khuôn khổ chương trình
Tư Vấn Đa Phương Về Những Bất Cân
Bằng Toàn Cầu do IMF tài trợ, với mục
đích tái cân bằng cầu nội địa của các quốc
gia, với những trợ giúp từ sự thay đổi tỉ giá
thực (xem Hộp 1.3). Lộ trình này vẫn phù
hợp, nhưng cần được thực hiện linh hoạt
trong bối cảnh sự thay đổi luôn diễn ra trên
toàn cầu. Việc giảm bớt các hàng rào đối
với thương mại vẫn là một ưu tiên quan
trọng, nhưng sự chậm trễ trong tiến trình
hoàn thành Vòng Đàm Phán Đô Ha đã và
đang gây thất vọng. Sự gia tăng trong hoạt
động thương mại cho đến nay vẫn là động
lực chính thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động
của nền kinh tế toàn cầu thời gian gần đây,
đồng thời những tiến bộ gần đây trong vấn
đề giảm nghèo trên toàn cầu cùng với kế
hoạch tiếp tục thúc đẩy trong lĩnh vực này
vẫn rất cần thiết.
Những cam kết gần đây trong việc
thiết lập một khuôn khổ hậu Nghị định thư
Kyoto để cùng hành động nhằm giải quyết
vấn đề thay đổi khí hậu là dấu hiệu đáng
mừng. Như được thảo luận tại Chương 4,
những nỗ lực để thích nghi và giảm sự tích
tụ của hiệu ứng nhà kính lại gây ra những
hậu quả về kinh tế vĩ mô. Chương này chỉ
ra rằng những hậu quả về kinh tế vĩ mô có
thể được kiềm chế, với điều kiện là những
nỗ lực để hạn chế khí thải được dựa trên
cách định giá hữu hiệu đối với khí thải các
bon, trong đó phản ánh đúng những thiệt
hại cho khí thải gây ra. Cách định giá khí
thải các bon đó cần được áp dụng đối với
toàn bộ các quốc gia để tối đa hoá tính hiệu
quả của chương trình cắt giảm khí thải, và
cần có sự công bằng để tránh việc đưa ra
những trách nhiệm quá mức cho các quốc
gia có ít khả năng thực hiện.
Báo Cáo về Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới (WEO), Tháng tư 2008 của
Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế
Các điểm chính của Chương 3: Chu kỳ nhà đất thay đổi và tác động của nó đối với
Chính sách tiền tệ
Soạn thảo bởi Roberto Cardarelli, Deniz Igan và Alessandro Rebucci
Những điểm chính
• Những tiến bộ về tài chính nhà ở đã tạo điều kiện dễ dàng hơn cho các hộ gia đình có
thể tiếp cận được tín dụng bất động sản và cũng làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro
đối với nền kinh tế của các quốc gia phát triển trước những diễn biến của thị trường
nhà đất.
• Cách tiếp cận chính sách tiền tệ mà sẽ có phản ứng trước những biến động thái quá
của giá nhà đất được đặt trong khuôn khổ quản lý rủi ro tổng thể hơn có thể làm dịu
bớt tác động của khu vực bất động sản đối với nền kinh tế, đặc biệt khi khu vực hộ
gia đình được hỗ trợ nhiều hơn bằng đòn bẩy tài chính (sử dụng nhiều vốn vay). Tuy
nhiên, chính sách không nên đặt ra những mục tiêu cụ thể về các mức giá nhà đất.
Chương 3 của báo cáo Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới (WEO) xem xét tác động của những tiến bộ của
hệ thống tài chính nhà đất ở các nền kinh tế tiên tiến trong hai thập kỷ qua đã làm thay đổi như thế nào
vai trò của khu vực nhà đất trong chu kỳ kinh doanh và trong cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ.
Chương này chỉ ra rằng có
những khác biệt đáng kể về đặc
điểm thể chế giữa các thị trường
nợ bất động sản ở các quốc gia,
điều này có thể góp phần giải thích
sự biến động lớn về khối lượng nợ
bất động sản của hộ gia đình. Mỹ,
Đan Mạch, Úc và Thụy Điển và Hà
Lan dường như là có các thị trường
nợ bất động sản “phát triển” nhất,
trong khi các quốc gia ở Châu Âu
có xu hướng phát triển ở mức
thấp hơn, điều này hàm ý rằng các
thị trường nợ bất động sản ở các
quốc gia này có mức độ tiếp cận tài
chính nhà đất khó khăn hơn. (Biểu
đồ 1)
Chỉ số nợ bất động sản
(Giá trị chỉ số từ 0 đến 1; giá trị cao hơn thể hiện mức tiếp cận tín dụng bất động sản
của hộ gia đình dễ dàng hơn)
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
Ph
áp Ý
Đ
ức Á
o B
ỉ
A
ile
n
N
hậ
t
Tâ
y
ba
n
nh
a
Ph
ần
la
n
C
an
ad
a
A
nh
N
a
uy
Th
uỵ
Đ
iể
n
Ú
c
H
à
La
n
Đ
an
M
ạc
h
M
ỹ
2
Chương này đưa ra kết luận rằng ở những
quốc gia nơi mà khả năng tiếp cận các
khoản tín dụng nhà đất dễ dàng hơn, thì
hiệu ứng lan truyền từ khu vực nhà đất đến
các khu vực khác của nền kinh tế sẽ có mức
độ lớn hơn (Biểu đồ 2). Điều này là do việc sử
dụng rộng rãi nhà ở làm tài sản cầm cố ở những
nền kinh tế đó đã làm tăng hiệu ứng (tác động
trở lại) của giá nhà đất gia tăng đối với tiêu
dùng, do hoạt động vay hộ gia đình tăng lên.
Nhìn chung, những tiến bộ gần đây ở thị
trường tài chính nhà đất đã làm gia tăng
ảnh hưởng của chính sách tiền tệ lên giá cả
hàng hoá này. Các thị trường bất động sản
cạnh tranh hơn và linh hoạt hơn đã khuếch đại
ảnh hưởng của chính sách tiền tệ lên giá nhà
đất, và bởi vậy, cuối cùng là tác động lên chi
tiêu của người tiêu dùng và lên sản lượng (nền
kinh tế). Chính sách tiền tệ nới lỏng tại thời
điểm đầu của thập kỷ này dường như đã góp
phần làm giá nhà đất và hoạt động đầu tư nhà ở
tại Mỹ tăng nhanh, mặc dù ảnh hưởng của nó
có thể đã bị khuếch đại do sự nới lỏng các
chuẩn mực cho vay cũng như việc các chủ nợ
đã chấp nhận rủi ro quá mức.
Biểu đồ 2. Tương quan giữa sản lượng với các Cú
sốc cầu về nhà đất, và Chỉ số thị trường nợ bất
động sản
(Phần trăm, khoảng thời gian 8 quý, 1983-2007)
Những quốc gia có thị trường bất động sản phát triển, những cú sốc về
cầu nhà ở thường giải thích các biến động về sản lượng tốt hơn
(Hệ số tương quan: 0.4; thống kê t: 1.7)
Pháp
Ý
Đức
Áo
Bỉ
AilenHylạp NhậtTâyban nha
Phần lan
Canada
Anh Nauy
Thuỵ điển
Úc
Hà Lan
Đan mạch
Mỹ
0
0.2
0.4
0.6
0.8
1
1.2
0 5 10 15 20 25
Tỉ trọng sản lượng được giải thích bởi cú sốc về nhà ở
C
hỉ
số
th
ị t
rư
ờn
g
nợ
b
ất
đ
ộn
g
sả
n
Chương 3 gợi ý rằng việc điều hành chính sách tiền tệ cần tính đến mức độ phát triển của các thị
trường bất động sản. Đặc biệt, chương này gợi ý rằng ở các nền kinh tế có mức độ nợ bất động sản
cao hơn thì khả năng ổn định có thể được cải thiện nếu các nhà hoạch định chính sách tiền tệ phản ứng
quyết liệt hơn với những biến động của giá nhà đất, đặc biệt khi giá nhà đất thay đổi nhanh chóng hoặc
vượt ra ngoài giới hạn bình thường. Cách tiếp cận như vậy đối với chính sách tiền tệ có thể được tiến
hành trong khuôn khổ quản lý rủi ro rộng hơn và cần áp dụng một cách tương xứng.
Tuy nhiên, những đề xuất trên không phải khuyến nghị rằng chính sách tiền tệ nên đặt ra mục
tiêu về giá nhà đất. Trong bối cảnh sự bất chắc bao hàm cả khả năng về việc có hay không những cú
sốc xảy ra với nền kinh tế và ảnh hưởng của lãi suất đối với hiện tượng bong bong giá tài sản thì trong
phương pháp tiếp cận từ chính sách tiền tệ, giá nhà đất nên là một trong nhiều nhân tố cần phải xem xét
khi đánh giá cán cân các rủi ro đối với triển vọng trong tương lai. Hơn nữa, một mình chính sách tiền tệ
không thể đủ sức phản ứng với bong bong giá tài sản có thể xảy ra, các quy định chính sách đóng vai
trò cũng rất quan trọng để bảo vệ chống lại những nới lỏng không hợp lý của các chuẩn mức cho vay
mà có thể dẫn tới những biến động giá nhà đất quá mức
Báo Cáo Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Tháng tư 2008
Các điểm chính của Chương 4: Thay đổi khí hậu và kinh tế toàn cầu
Soạn thảo bởi Natalia Tamirisa, Florence Jaumotte, Ben Jones, Paul Mills, Rodney
Ramcharan, Alasdair Scott, và Jon Strand
• Ước tính về mức độ tổn thất trong tương lai do thay đổi khí hậu là không chắc chắn,
nhưng có một điểm đồng thuận là rủi ro từ những tổn thất tiềm tàng này có thể lớn
và thậm chí là thảm họa nếu sự ấm lên toàn cầu không được kiểm soát.
• Chi phí của các chính sách giải quyết thay đổi khí hậu có thể được kiểm soát bằng
cách đảm bảo rằng các chính sách nhằm làm giảm khí thải được thiết kế tốt. Điều
quan trọng là đặt ra một khuôn khổ bền vững và đưa ra những động lực để có được
sự tham gia rộng rãi của quốc gia.
• Cán bộ IMF sử dụng mô hình động mang tính toàn cầu để chuẩn đoán các kết quả
về tài chính và kinh tế vĩ mô của các chính sách về vấn đề thay đổi khí hậu. Bản
phân tích nêu lên tác động của các chính sách (nhằm làm giảm khí thải) đến tăng
trưởng kinh tế, tiết kiệm và đầu tư, các luồng vốn và tỷ giá đối với các quốc gia. Nội
dung phân tích cũng chỉ ra một số nguyên tắc có thể giúp giảm chi phí của các chính
sách làm giảm khí thải như: định giá carbon phải trên quy mô toàn cầu, dài hạn,
linh hoạt và công bằng.
Thay đổi khí hậu là hiệu ứng lan truyền toàn cầu, một thảm họa tiềm tàng và là một
trong những vấn đề chung lớn nhất của thế giới. Các dự báo thường lệ được thực hiện bởi
Ban Liên Chính Phủ Về Vấn Đề Thay Đổi Khí Hậu của Liên Hiệp Quốc đã chỉ ra một rủi ro
lớn là khí hậu toàn cầu sẽ thay đổi mạnh vào cuối thế kỷ này, với những hậu quả nghiêm
trọng về kinh tế và xã hội. Các quốc gia nghèo sẽ chịu tác động sớm hơn và mạnh hơn từ
thay đổi khí hậu do vị trí địa lý, sự phụ thuộc nhiều vào nông nghiệp và do hạn chế hơn về
khả năng thích nghi. Sức khỏe và hệ thống nước của các quốc gia này có thể lâm vào tình
trạng căng thẳng do thảm hoạ tự nhiên xảy ra thường xuyên hơn, các bờ biển có thể bị lũ lụt,
và dân số có thể di cư. Các nước giàu có có thể bị ảnh hưởng bởi những hiệu ứng lan truyền
từ các quốc gia nghèo do tác động của sự thay đổi khí hậu, và các nước giàu cũng sẽ đối mặt
với những tổn thất trực tiếp nghiêm trọng nếu rủi ro của những thảm họa khí hậu xảy ra.
Những nỗ lực để giảm bớt thay đổi khí hậu có thể có những tác động về kinh tế vĩ mô
nhanh chóng và trên diện rộng. Tác động của các chính sách nhiên liệu sinh học gần đây
lên giá cả thực phẩm và lạm phát là một bài học về tính cẩn trọng. Việc giảm lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính góp phần gây ra sự thay đổi khí hậu đặt ra yêu cầu về một mức giá
cho đối với những khí thải này. Việc này sẽ làm tăng chi phí của sản phẩm mà quá trình sản
xuất gắn với lượng khí thải cao, và cũng sẽ tác động đến năng suất, tiết kiệm, đầu tư, các
luồng vốn và tỷ giá. Trong dài hạn, việc thu phí (pricing) đối với khí thải các bon sẽ có tác
dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vì nó sẽ tạo ra các động cơ để mọi người và các doanh
nghiệp đổi mới và hướng tới sử dụng các sản phẩm và công nghệ hiệu quả hơn và có mức khí
thải thấp.
2
Bản phân tích của cán bộ IMF chỉ ra một số
bài học về cách thức giảm thiểu chi phí của các
chính sách làm giảm sự thay đổi khí hậu:
• Các chính sách định giá (thu phí) đối với khí
thải các-bon cần mang tính dài hạn và có độ
tin cậy. Các chính sách này cần thiết lập một
lộ trình thời gian tăng dần mức giá khí thải các
bon mà mọi người và các doanh nghiệp có thể
tin tưởng. Bằng cách này, việc định giá đối với
khí thải các bon thúc đẩy nhu cầu dịch chuyển
trong đầu tư và tiêu dùng khỏi các công nghệ
và sản phẩm có nhiều khí thải. Bắt đầu sớm
với việc định giá khí thải các bon và từ mức
giá thấp, sau đó tăng dần, sẽ giảm thiểu chi phí
điều chỉnh do được dàn trải trong một giai
đoạn dài hơn. Ví dụ, theo tính toán của cán bộ
IMF, các chính sách cắt giảm được bắt đầu từ
năm 2013 và với mục tiêu ổn định khí thải
CO2 vào năm 2100 ở mức 550 phần trên một
triệu sẽ chỉ làm giảm có 0.6 phần trăm mức độ
tiêu dùng của thế giới theo giá trị hiện tại ròng
đến năm 2040. Thậm chí với mức tổn thất này,
GNP thế giới năm 2040 vẫn gấp hơn 2.3 lần so
với năm 2007. Những ước tính này phù hợp
với lý thuyết.
• Một khuôn khổ chính sách đa phương cần thúc đẩy tất cả các nhóm nền kinh tế - phát
triển, thị trường mới nổi và đang phát triển – bắt đầu với chương trình định giá khí thải
của mình. Bất kì một khuôn khổ chính sách nào mà, trên phương diện nào đó, không bao
gồm các nền kinh tế lớn và phát triển nhanh như Brazil, Trung quốc, Ấn độ và Nga
(chẳng hạn như tham gia với độ trễ hoặc khởi đầu với các mục tiêu thấp đối với khí thải)
thì sẽ vô cùng tốn kém và không khả thi về mặt chính trị. Điều này là do trong vòng 50
năm tới, 70 phần trăm khí thải được dự báo là bắt nguồn từ các nền kinh tế mới nổi và
đang phát triển.
• Các chính sách định giá các bon cần hướng vào việc thiết lập một mức giá chung trên
thế giới đối với khí thải. Điều này sẽ đảm bảo việc cắt giảm khí thải sẽ được thực hiện ở
những nơi mà việc cắt giảm tốn ít chi phí nhất. Nếu các mức giá đối với khí thải các bon
không được tính cân bằng trên các quốc gia, thì chi phí toàn cầu của các chính sách cắt
giảm sẽ cao hơn ít nhất là 50 phần trăm.
• Các chính sách định giá đối với khí thải các bon phải đủ linh hoạt để phù hợp với những
giao động kinh tế mà có tính chu kỳ. Trong những giai đoạn mà cầu của các nền kinh tế
cao, việc giảm khí thải sẽ tốn kém hơn cho các công ty, và ngược lại khi cầu thấp đi, việc
giảm khí thải sẽ đỡ tốn kém hơn. Các chi phí để cắt giảm có thể thấp hơn nếu các doanh
United Japan Western Eastern China Other OPEC World, World,
-3
-2
-1
0
1
2
Uniform carbon tax and hybrid policy
Cap-and-trade system, allocation by initial emission shares
Cap-and-trade system, allocation by population shares
States Europe
and Russia
emerging and
developing
economies
GNP Population
1
2 3Europe
Source: IMF staff estimates.
Organization of Petroleum Exporting Countries.
Weighted by GNP shares in 2013.
Weighted by population shares in 2013.
1
2
3
Total Costs of Mitigation, 2013–40
(Consumption; deviation of the net present value from the baseline,
percent)
The global costs of mitigation could be moderate between 2013 and 2040, but vary
by country and policy. The magnitude of costs and their distribution across countries
are sensitive to how easily countries could reduce their emissions as well as the
specific design of mitigation policies.
Tổng chi phí cho cắt giảm, 2013-40
(Tiêu dùng: độ lệch của giá trị hiện tại dòng so với kịch bản dựa
trên giả thiết các chính sách không đổi , theo phần trăm)
Chi phí toàn cầu cho việc cắt giảm có thể khiêm tốn trong giai đoạn
2013-2040, nhưng khác biệt theo từng quốc gia. Quy mô của các
chi phí và phân bổ của chúng trên các quốc gia nhạy cảm theo mức
độ dễ dàng iảm khí thải của quốc gia đó cũng như thiết kế cụ thể
của các chính sách cắt giảm
Chính sách tổng hợp và thuế các bon thống nhất
Hệ thống mua bán quyền thải khí, phân bổ theo tỷ lệ mức khí thải
ban đầu
Hệ thống mua bán quyền thải khí, phân bổ theo tỷ lệ dân số
Nguồn: Ước tính của IMF
1 Tổ chức các nuớc xuất khẩu dầu
2 Tỷ trọng theo tỷ lệ GNP năm 2013
3 Tỷ trọng theo tỷ lệ dân số năm 2013
Mỹ Nhật Tây
Âu
Đông
Âu &
Nga
Trung
quốc
Các nền
kinh tế
đang nổi
và đang
phát
triển
OPEC1 Dân số
thế
giới3
GNP
Thế
giới2
3
nghiệp được phép thay đổi mức khí thải của mình, tuỳ theo chu kỳ kinh tế, trong khi vẫn
hướng vào mục tiêu nhất định về cắt giảm khí thải trong thời kỳ trung hạn. Khác với các
mức thuế về các bon, các chương trình mua bán quyền thải khí lại không có nhiều tác
dụng giảm chi phí trong những giai đoạn tăng trưởng cao, trừ phi các chương trình này có
các nhân tố trợ giúp cho việc kiểm soát mức độ biến động giá.
• Chi phí của việc cắt giảm cần được phân bổ công bằng trên các quốc gia. Định hướng và
mức độ chuyển đổi theo các chương trình mua bán quyền thải khí sẽ phụ thuộc vào mức
độ dễ dàng cắt giảm khí thải của các quốc gia khác nhau và những thiết kế cụ thể của các
chương trình mua bán quyền thải khí. Một chương trình mua bán quyền thải khí được
thiết kế cho các nền kinh tế đang nổi và đang phát triển sẽ làm giảm đi chi phí của các
chính sách định giá khí thải các bon cho các nước này và sẽ khuyến khích những nước
này tham gia.
Báo Cáo về Triển Vọng Kinh Tế Thế Giới của Quỹ Tiền Tệ Quốc Tế, Tháng tư 2008
Các điểm chính của Chương 5: Toàn cầu hoá, Giá cả hàng hoá và các quốc gia đang
phát triển
Soạn thảo bởi Nikola Spatafora và Irina Tytell
Tóm tắt các điểm chính
• Xét trên nhiều khía cạnh, sự bùng phát gia tăng giá cả hàng hóa đã mang lại nhiều
thuận lợi hơn cho các quốc gia đang phát triển so với những lần bùng phát gia tăng
giá cả trước đây. Khối lượng xuất khẩu (đặc biệt là các mặt hàng chế tác) và đầu tư
tăng trưởng rất nhanh, trong khi đó vay nợ của các chính phủ ít hơn so với trước đây.
• Sự gia tăng xuất khẩu các mặt hàng chế tác không chỉ giới hạn trong giai đoạn bùng
nổ hiện tại, mà nó thể hiện một xu hướng dài hạn (mặc dù mức độ gia tăng giữa các
khu vực có sự khác biệt đáng kể). Sự gia tăng này xuất phát từ tăng trưởng mạnh của
cầu ở các nước châu Á mới nổi. Đây là đặc điểm đáng chú ý, thể hiện mức độ hội
nhập ngày càng tăng của các quốc gia đang phát triển với nền kinh tế thế giới.
• Quá trình hội nhập được kỳ vọng là sẽ tiếp tục diễn ra ngay cả khi gần đây giá các
hàng hóa tăng chậm lại hoặc giảm. Bên cạnh tác động nhỏ từ sự biến động của giá cả
hàng hoá, sự gia tăng hội nhập của các quốc gia đang phát triển chủ yếu do chất
lượng thể chế tốt hơn, độ sâu tài chính tăng lên và tiến trình tự do hóa với bên ngoài
tiếp tục diễn ra.
Các quốc gia đang phát triển đang hội nhập sâu hơn với nền kinh tế thế giới trong những
năm gần đây xuất phát từ sự tăng nhanh giá cả hàng hóa và các thể chế cũng như khuôn khổ
chính sách được cải thiện. Ở những khu vực các nước đang phát triển, tổng giá trị thương mại
(xuất khẩu và nhập khẩu) hiện nay chiếm khoảng từ 50 đến 100% GDP và tổng nguồn vốn nước
ngoài (tài sản có và tài sản nợ) đạt từ 100 đến 200% GDP. Hội nhập toàn cầu tăng nhanh gần đây
xuất phát từ sự gia tăng giá cả của nhiều loại hàng hoá, với mức tăng thực chung khoảng 75% so
với thời điểm năm 2000. Đồng thời, các rào cản chính sách đối với thương mại và tài chính đã liên
tục được giảm bớt, trong khi đó chất lượng tổ chức và quản lý kinh tế vĩ mô của các nhà xuất khẩu
hàng hóa nguyên vật liệu đầu vào cũng như các nhà xuất khẩu hàng hóa khác đã được cải thiện.
Xu hướng hội nhập toàn cầu gần đây được thể hiện qua sự gia tăng của mức độ đa dạng hóa,
cả về cơ cấu mặt hàng cũng như thị trường xuất khẩu . Khối lượng xuất khẩu các mặt hàng chế
tác so với GDP thực đã tăng đều ở các quốc gia đang phát triển. Tỷ trọng này, so với thời điểm
những năm 80 đã tăng lên 2% ở khu vực Trung đông và Châu Phi và tăng trên 20% ở Châu Á.
Xuất khẩu các mặt hàng chế tác, tính bằng đô la Mỹ, sang các nền kinh tế phát triển đã tăng gấp ba
lần so với đầu những năm 90 và xuất khẩu các mặt hàng này sang Trung quốc thậm chí còn cao
hơn, mặc dù mức tăng trưởng cao còn xuất phát từ lý do là mức xuất khẩu ban đầu thấp (xem biểu
đồ đầu tiên). Khu vực chế tạo ở các nền kinh tế đang phát triển cũng tiếp nhận những khoản đầu tư
trực tiếp nước ngoài lớn. Xuất khẩu hàng hóa sang Trung quốc và các quốc gia Châu Á khác đã
2
tăng nhanh, ngay cả khi những công ty xuất khẩu nguyên vật liệu đầu vào đã đẩy mạnh hoạt động
thương mại đối với các sản phẩm chế tác.
Các nhà sản xuất hàng hóa ở các quốc
gia đang phát triển đã được lợi nhiều
hơn từ sự bùng phát tăng giá hàng hóa
hiện nay so với những lần bùng phát
tăng giá trước đây. Tuy nhiên trong dài
hạn, mức độ tác động của giá cả hàng
hoá lên hội nhập thương mại và tài chính
là nhỏ. So với những lần tăng giá trước
đây, giá trị trung vị (median) của khối
lượng xuất khẩu tăng nhanh hơn trên 3
điểm phần trăm một năm, và xuất khẩu các
mặt hàng chế tác còn tăng cao hơn. Điều
này một phần là do mức tăng giá thực của
dầu mỏ là ít hơn, và thuế quan đối với các
hàng hoá nguyên vật liệu đầu vào phi dầu
mỏ giảm nhiều hơn. Đầu tư trong nước và
nước ngoài đã tăng nhanh, trong khi hoạt
động vay nước ngoài, đặc biệt là vay nợ
của các chính phủ đã chậm lại, so với
những giai đoạn bùng phát tăng giá trước
đây. Tuy nhiên, giá cả hàng hóa chỉ giải
thích một chút ít về sự tăng trưởng 26%
của khối lượng xuất khẩu (so với GDP)
trong giai đoạn từ những năm 1980s đến
thập kỷ hiện nay. Thay vào đó, gần như
một nửa của mức tăng này có thể giải thích
bởi chất lượng tốt hơn của các thể chế, độ
sâu tài chính gia tăng, và những méo mó
của chính sách được giảm đi gồm cả việc:
những hạn chế ngoại hối giảm đi, thuế
quan thấp hơn, những trường hợp đồng tiền
bị định giá quá cao giảm đi, cũng như mức
độ mở cửa thương mại với các quốc gia
khác được tăng lên (xem Biểu đồ thứ hai)
Xuất Khẩu Từ Các Nền Kinh Tế Mới Nổi Và Các Nước
Đang Phát Triển
(Theo nước, tính theo tỷ USD năm 2000)
Xuất khẩu hàng hoá
0
50
100
150
200
250
300
1990 1991 1992 1993 1994 95 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 5 2006
Các nền kinh tế phát triển Trung quốc
Các nước Châu Á đang phát triển Ấn độ
Các nền kinh tế đang phát triển khác
Xuất khẩu các mặt hàng chế tác
0
100
200
300
400
500
600
700
1990 1991 1992 1993 1994 95 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 5 2006
Các nền kinh tế phát triển Trung quốc
Các nước Châu Á đang phát triển Ấn độ
Các nền kinh tế đang phát triển khác
3
Những nỗ lực không ngừng nhằm cải
thiện thể chế và khuôn khổ chính
sách sẽ tiếp tục thúc đẩy quá trình
hội nhập của các quốc gia đang phát
triển và cải thiện khả năng chống đỡ
của các quốc gia này trước những
thay đổi bất ngờ của giá cả hàng hóa.
Nội dung phân tích của chương này
hàm ý rằng ngay cả khi giá cả hàng hóa
có ngừng gia tăng, thì tiến trình hội
nhập dường như cũng sẽ không thể đảo
ngược. Việc tiếp tục tăng cường chất
lượng thể chế, phát triển độ sâu tài
chính, thận trọng trong chính sách tài
khóa, và tiến trình tự do hóa với bên
ngoài sẽ tiếp tục là các động lực quan
trọng của hội nhập. Tuy vậy, rất nhiều
quốc gia đang phát triển vẫn phụ thuộc
vào xuất khẩu hàng hóa nguyên vật liệu
đầu vào, nên việc tăng cường quá trình
cải cách và đa dạng hoá sẽ giúp làm
giảm mức độ tổn thương của những
quốc gia này trước những cú sốc giá cả
hàng hóa.
Giải thích sự gia tăng của hội nhập từ những năm 80
đến những năm 2000
(Một số yếu tố lựa chọn, phần trăm 1)
-0.1
0
0.1
0.2
0.3
0.4
0.5
0.6
0.7
Khối lượng xuất khẩu thế giới (30 p.t.) Khối lượng xuất khẩu các nền kinh tế tiên
tiến (41 p.t.)
Khối lượng xuất khẩu của các nền kinh tế
đang phát triển (26 p.t.)
Chất lượng các thể chế Phát triển tài chính Tự do hoá ra bên ngoài Giá cả hàng hoá
1 Biến phụ thuộc và tổng mức chênh lệch được tính theo điểm phần trăm và hiển thị
trên trục X; Tỉ lệ phần trăm của tổng mức chênh lệch tính theo trục Y. Các kết quả dựa
vào việc hồi quy. Khối lượng xuất khẩu đã được loại bỏ lạm phát thông qua chỉ số GDP
thực.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- weo08vn-pdf-3189.pdf