Báo cáo môi trường quốc gia 2011 - Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị

Thời gian tới, công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển theo hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng. Gần đây, có nhiều nhà đầu tư tư nhân đến Việt Nam đem theo các công nghệ đa dạng, tuy nhiên, một số công nghệ không đáp ứng yêu cầu. Bộ Xây dựng đã cấp giấy phép cho một số công nghệ nội địa trong lĩnh vực xử lý CTR sinh hoạt để thúc đẩy các công nghệ phù hợp. Các khu liên hợp xử lý CTR liên tỉnh đã được Bộ Xây dựng thiết kế quy hoạch. Tuy nhiên, tính khả thi của các khu liên hợp này đối với việc xử lý CTR đô thị là điều cần xem xét lại vì đối với các chất thải thông thường, nếu xử lý tập trung liên tỉnh thì chi phí vận chuyển cao sẽ dẫn tới không khả thi. Mặt khác, các địa phương được xác định trong quy hoạch để xây dựng khu liên hợp xử lý CTR về cơ bản cũng không muốn chất thải từ các địa phương lân cận được vận chuyển sang địa bàn tỉnh mình để xử lý

pdf27 trang | Chia sẻ: dntpro1256 | Lượt xem: 505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo môi trường quốc gia 2011 - Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i/ngày (Bảng 2.3). Năm 2008, theo Bộ Xây dựng Khung 2.1. Một loạt các đô thị được nâng cấp trong vài năm gần đây Tổng khối lượng CTR đô thị phát sinh vào khoảng 8.700 - 8.900 tấn/ngày, trong đó, CTR xây dựng (xà bần) chiếm khoảng 1.200 - 1.500 tấn/ngày và CTR sinh hoạt trung bình từ 6.200 - 6.700 tấn/ngày. Ước tính tỷ lệ gia tăng khoảng 8 - 10%/năm. Một số loại CTR đô thị như: rác khu thương mại, xà bần, rác công nghiệp,... trước đây ít thì những năm gần đây mức độ tăng (khối lượng và thành phần chất thải) ngày càng cao. Tỷ trọng nguồn phát sinh cụ thể như sau: - Rác hộ dân chiếm tỉ trọng 57,91% tổng lượng rác. - Rác đường phố chiếm tỉ trọng 14,29% tổng lượng rác. - Rác công sở chiếm tỉ trọng 2,8% tổng lượng rác. - Rác chợ chiếm tỉ trọng 13% tổng lượng rác. - Rác thương nghiệp chiếm tỉ trọng 12% tổng lượng rác. Thành phần chủ yếu trong CTR đô thị là chất hữu cơ (rác thực phẩm), chiếm tỷ lệ khá cao từ 60 - 75% / tổng khối lượng chất thải. Nguồn: Sở TN&MT Tp. HCM, 2011 Nội dung 2007 2008 2009 2010 Dân số đô thị (triệu người) 23,8 27,7 25,5 26,22 % dân số đô thị so với cả nước 28,20 28,99 29,74 30,2 Chỉ số phát sinh CTR đô thị (kg/người/ngày) ~ 0,75 ~ 0,85 0,95 1,0 Tổng lượng CTR đô thị phát sinh (tấn/ngày) 17.682 20.849 24.225 26.224 Bảng 2.3. CTR đô thị phát sinh các năm 2007 - 2010 Nguồn: TCMT tổng hợp, 2011 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 17 thì chỉ số này là 1,45 kg/người/ngày, lớn hơn nhiều so với ở nông thôn là 0,4 kg/người/ngày. Tuy nhiên, theo Báo cáo của các địa phương năm 2010 thì chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt đô thị trung bình trên đầu người năm 2009 của hầu hết các địa phương đều chưa tới 1,0 kg/người/ngày. Các con số thống kê về lượng phát sinh CTR sinh hoạt đô thị không thống nhất là một trong những thách thức cho việc tính toán và dự báo lượng phát thải CTR đô thị ở nước ta. Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007 đã cho thấy, lượng CTR đô thị phát sinh chủ yếu tập trung ở hai đô thị đặc biệt là Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh, chiếm tới 45,24% tổng lượng CTR sinh hoạt phát sinh từ tất cả các đô thị tương ứng khoảng 8.000 tấn/ngày (2,92 triệu tấn/năm) (Biểu đồ 2.2). Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại, tổng lượng và chỉ số phát sinh CTR đô thị của đô thị đặc biệt và đô thị loại 1 hiện nay đã tăng lên rất nhiều. Nguyên nhân của sự gia tăng này là do Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính thì lượng CTR đô thị phát sinh đã lên đến 6.500 tấn/ngày (con số của năm 2007 là 2.600 tấn/ngày), bên cạnh đó, số đô thị loại 1 đã tăng lên 10 đô thị (trong khi năm 2007 là 4 đô thị loại 1). Trong các vùng trọng điểm, vùng Đông Nam Bộ (bao trùm cả KTTĐ phía Nam) là nơi có lượng CTR đô thị nhiều nhất, tiếp đến là vùng Đồng bằng sông Hồng (bao trùm cả vùng KTTĐ Bắc Bộ), ít nhất là khu vực Tây Nguyên (Biểu đồ 2.3). Bảng 2.4. Lượng CTR sinh hoạt phát sinh ở các đô thị Việt Nam năm 2007 Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt tại các đô thị Việt Nam năm 2007 Nguồn: Dự án “Xây dựng mô hình và triển khai thí điểm việc phân loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt cho các khu đô thị mới”, Cục BVMT, 2008 Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007 và Báo cáo của các Sở TN&MT STT Loại đô thị Chỉ số CTR sinh hoạt bình quân đầu người (kg/ người/ngày) Lượng CTR đô thị phát sinh Tấn/ ngày Tấn/năm 1 Đặc biệt 0,96 8.000 2.920.000 2 Loại 1 0,84 1.885 688.025 3 Loại 2 0,72 3.433 1.253.045 4 Loại 3 0,73 3.738 1.364.370 5 Loại 4 0,65 626 228.490 Tổng cộng: 17.682 6.453.930 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 18 Chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt tính bình quân trên đầu người lớn nhất xảy ra ở các đô thị phát triển du lịch như các thành phố: Hạ Long, Hội An, Đà Lạt, Ninh Bình,.. Các đô thị có chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt tính bình quân đầu người thấp nhất là Tp. Đồng Hới (Quảng Bình), Thị xã Gia Nghĩa, Thị xã Kon Tum, Thị xã Cao Bằng (Bảng 2.5). Biểu đồ 2.3. Hiện trạng phát sinh CTR theo các vùng kinh tế của nước ta các năm 2003, 2008 và dự báo cho năm 2015 Nguồn: Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn, Bộ Xây dựng 2010 Cấp đô thị Đô thị CTR sinh hoạt bình quân đầu người (kg/ người/ngày) Cấp đô thị Đô thị CTR sinh hoạt bình quân đầu người (kg/ người/ngày) Đô thị loại đặc biệt Hà Nội 0,9 Đô thị loại 3: Thành phố Đồng Hới 0,31 Hồ Chí Minh 0,98 Đông Hà 0,6 Đô thị loại 1: Thành phố Hải Phòng 0,70 Hội An 1,08 Hạ Long 1,38 Bảo Lộc 0,9 Đà Nẵng 0,83 Kon Tum 0,35 Huế 0,67 Vĩnh Long 0,9 Nha Trang >0,6 Long An 0,7 Đà Lạt 1,06 Bạc Liêu 0,73 Quy Nhơn 0,9 Đô thị loại 4: Thị xã Tuần Giáo (Điện Biên) 0,7 Buôn Ma Thuột 0,8 Sông Công (Thái Nguyên) >0,5 Đô thị loại 2: Thành phố Thái Nguyên >0,5 Từ Sơn (Bắc Ninh) >0,7 Việt Trì 1,1 Lâm Thao (Phú Thọ) 0,5 Ninh Bình 1,30 Cam Ranh (Khánh Hòa) >0,6 Mỹ Tho 0,72 Gia Nghĩa (Đắk Nông) 0,35 Đô thị loại 3: Thành phố Điện Biên Phủ 0,8 Đồng Xoài (Bình Phước) 0,91 Cao Bằng 0,38 Gò Công (Tiền Giang) 0,73 Bắc Ninh >0,7 Ngã Bảy (Hậu Giang) >0,62 Thái Bình >0,6 Đô thị loại 5 Thị trấn, Thị tứ Tủa Chùa (Điện Biên) 0,6 Phú Thọ 0,5 Tiền Hải (Thái Bình) >0,6 Bảng 2.5. Chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt bình quân đầu người của các đô thị năm 2009 Nguồn: Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011; Báo cáo HTMT của các địa phương, 2010 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 19 Lượng CTR đô thị tăng mạnh ở các đô thị lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Đà Nẵng, nơi có tốc độ đô thị hóa, công nghiệp hóa tăng nhanh. Còn một số đô thị nhỏ như Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Long, Tiền Giang, Sóc Trăng,... tăng không nhiều do tốc độ đô thị hóa không cao (Biểu đồ 2.4). Tỷ lệ CTR gia tăng cao tập trung ở các đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các KCN như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), Phủ Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá (12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu vực Tây Nguyên có tỷ lệ CTR gia tăng đồng đều hàng năm với tỷ lệ ít hơn (khoảng 5%). Khung 2.2. Phát sinh CTR đô thị năm 2010 tại Hà Nội Khối lượng CTR trên địa bàn Thủ đô tăng trung bình 15%/năm. Ước tính, tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt ở các quận nội thành đạt khoảng 95%, các huyện ngoại thành chỉ đạt 60%; lượng CTR công nghiệp được thu gom đạt 85 - 90% và CTNH mới chỉ đạt khoảng 60 - 70%. Việc xử lý, tiêu hủy, tái chế CTR hiện chủ yếu vẫn dựa vào chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn (Sóc Sơn), Xuân Sơn (Sơn Tây), Kiêu Kỵ (Gia Lâm), Núi Thoong (Chương Mỹ) và nhà máy xử lý rác ở Cầu Diễn, nhà máy đốt rác ở Sơn Tây. Nguồn: Báo cáo “Quản lý CTR sinh hoạt tại Hà Nội - Hiện trạng và giải pháp, URENCO Hà Nội, 13/5/2011 Khung 2.3. Phát sinh CTR đô thị năm 2009 tại Thái Nguyên Khối lượng chất thải phát sinh trên địa bàn vào khoảng 354 tấn/ngày, trong đó thu gom khoảng 150 tấn/ngày. CTR phát sinh được thu gom và xử lý bằng công nghệ chôn lấp, đốt là chủ yếu. Tỉnh Thái Nguyên hiện đang thực hiện các dự án: Xây dựng 3 Nhà máy xử lý, chế biến CTR tại Thị xã Sông Công, huyện Phổ Yên và Đồng Hỷ; Hỗ trợ quản lý CTR sinh hoạt và chất thải y tế cấp huyện; khắc phục ô nhiễm môi trường tại bãi rác Thịnh Đức,.. Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái, cảnh quan lưu vực sông Cầu - tỉnh Thái Nguyên, Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên, 2011 Ghi chú: Số liệu của Hà Nội năm 2010 là số liệu tính tại thời điểm tháng 3/2011 Biểu đồ 2.4. Lượng phát sinh CTR đô thị của một số tỉnh, thành phố qua các năm 2005 - 2010 Nguồn: Báo cáo HTMT, Sở TN&MT các địa phương, 2010 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 20 2.2.3. Thành phần chất thải rắn đô thị Thành phần CTR sinh hoạt phụ thuộc vào mức sống ở một số đô thị. Mức sống, thu nhập khác nhau giữa các đô thị đóng vai trò quyết định trong thành phần CTR sinh hoạt (Bảng 2.6). Trong thành phần rác thải đưa đến các bãi chôn lấp, thành phần rác có thể sử dụng làm nguyên liệu sản xuất phân hữu cơ rất cao từ 54 - 77,1%; tiếp theo là thành phần nhựa: 8 - 16%; thành phần kim loại đến 2%; CTNH bị thải lẫn vào chất thải sinh hoạt nhỏ hơn 1%. Bảng 2.6. CTR phát sinh tại một số tỉnh, thành phố năm 2010 Nguồn: TCMT, 2011 Loại đô thị, Vùng Đơn vị hành chính Lượng CTR sinh hoạt phát sinh (tấn/ngày) Đô thị loại đặc biệt Thủ đô Hà Nội 6,500 Tp. Hồ Chí Minh 7,081 Đô thị loại 1 Tp. Đà Nẵng 805 Tp. Huế và huyện lỵ 225 Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung Quảng Nam 298 Quảng Ngãi 262 Bình Định 372 Phú Yên 142 Khánh Hoà 486 Ninh Thuận 164 Bình Thuận 594 Tây Nguyên Kon Tum 166 Gia Lai 344 Đắk Lắk 246 Đắk Nông 69 Lâm Đồng 459 Loại đô thị, Vùng Đơn vị hành chính Lượng CTR sinh hoạt phát sinh (tấn/ngày) Đông Nam Bộ Bình Phước 158 Tây Ninh 134 Bình Dương 378 Đồng Nai 773 Bà Rịa - Vũng Tàu 456 ĐBSCL Long An 179 Tiền Giang 230 Bến Tre 135 Trà Vinh 124 Vĩnh Long 137 Đồng Tháp 209 An Giang 562 Kiên Giang 376 Cần Thơ 876 Hậu Giang 105 Sóc Trăng 252 Bạc Liêu 207 Cà Mau 233 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 21 TT Loại chất thải Hà Nội (Nam Sơn) Hà Nội (Xuân Sơn) Hải Phòng (Tràng Cát) Hải Phòng (Đình Vũ) Huế (Thủy Phương) Đà Nẵng (Hòa Khánh) HCM (Đa Phước) HCM (Phước Hiệp) Bắc Ninh (Thị trấn Hồ) 1 Rác hữu cơ 53,81 60,79 55,18 57,56 77,1 68,47 64,50 62,83 56,90 2 Giấy 6,53 5,38 4,54 5,42 1,92 5,07 8,17 6,05 3,73 3 Vải 5,82 1,76 4,57 5,12 2,89 1,55 3,88 2,09 1,07 4 Gỗ 2,51 6,63 4,93 3,70 0,59 2,79 4,59 4,18 - 5 Nhựa 13,57 8,35 14,34 11,28 12,47 11,36 12,42 15,96 9,65 6 Da và cao su 0,15 0,22 1,05 1,90 0,28 0,23 0,44 0,93 0,20 7 Kim loại 0,87 0,25 0,47 0,25 0,40 1,45 0,36 0,59 - 8 Thủy tinh 1,87 5,07 1,69 1,35 0,39 0,14 0,40 0,86 0,58 9 Sành sứ 0,39 1,26 1,27 0,44 0,79 0,79 0,24 1,27 - 10 Đất và cát 6,29 5,44 3,08 2,96 1,70 6,75 1,39 2,28 27,85 11 Xỉ than 3,10 2,34 5,70 6,06 - 0,00 0,44 0,39 - 12 Nguy hại 0,17 0,82 0,05 0,05 - 0,02 0,12 0,05 0,07 13 Bùn 4,34 1,63 2,29 2,75 1,46 1,35 2,92 1,89 - 14 Các loại khác 0,58 0,05 1,46 1,14 - 0,03 0,14 0,04 - Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100 Bảng 2.7. Thành phần CTR sinh hoạt tại đầu vào của các bãi chôn lấp của một số địa phương: Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Tp. HCM (1) và Bắc Ninh (2) năm 2009 - 2010 Nguồn: (1) Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011 (2) Báo cáo Dự án Tổng hợp, xây dựng các mô hình thu gom, xử lý rác thải cho các thị trấn, thị tứ, cấp huyện, cấp xã, 2006 - 2008 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 22 Túi nilon Ở nước ta, các loại túi nilon được sử dụng tràn lan trong các hoạt động sinh hoạt xã hội, chủ yếu là loại túi siêu mỏng, khi thải bỏ rất khó thu gom toàn bộ. Chất thải là túi nilon chiếm khối lượng khá lớn trong thành phần nhựa thải. Các túi nilon này nhỏ, mỏng, ít có giá trị đối với người thu gom, tái chế nên tồn tại khá nhiều trong các bãi chôn lấp và hầu như không bị phân hủy. Các túi nilon nếu bị đốt ở bãi rác hở sẽ gây ô nhiễm môi trường không khí do phát thải các khí ô nhiễm như HCl, VOC, Dioxin, Furan,... Nếu tính trung bình, mỗi hộ gia đình ở đô thị thải khoảng 3 ÷ 10 túi nilon các loại/ngày (ước trung bình mỗi người thải ra 0,2 ÷ 1 túi nilon/người/ ngày, với dân số đô thị năm 2010 là 26,2 triệu người) thì lượng nhựa là túi nilon thải ra mỗi ngày ở các đô thị là vào khoảng 10,48 ÷ 52,4 tấn nhựa/ngày (ước tính 500 túi/kg). Hiện chưa có số liệu thống kê chính thức về lượng túi nilon được sử dụng ở Việt Nam nhưng đã có một số khảo sát, ước tính về số lượng này. Tuy có sự khác nhau về con số nhưng ấn tượng chung là rất lớn và chưa được quản lý ở hầu hết tất cả các khâu của vòng đời túi nilon: từ sản xuất, lưu thông phân phối, sử dụng cho đến thải bỏ, thu gom, xử lý. Chất thải rắn xây dựng Đi cùng quá trình đô thị hóa, tổng diện tích nhà ở xây mới ở đô thị năm 2008 là 28,86 triệu m2 (Báo cáo HTMT ngành Xây dựng, 2008). Mức độ đô thị hóa tăng cao, các công trình xây dựng tăng nhanh ở các đô thị lớn của cả nước và của vùng miền nên lượng chất thải xây dựng cũng tăng rất nhanh, chiếm khoảng 10 ÷ 15% CTR đô thị. Trong năm 2009, ước tính mỗi ngày có khoảng 1.000 tấn CTR xây dựng ở Thủ đô Khung 2.4. Tình hình phát thải bao bì nilon khó phân hủy hiện nay Kết quả khảo sát của Cục Kiểm soát ô nhiễm (TCMT) đối với 263 người sinh sống tại 5 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 vùng miền cho thấy gần 50% số hộ sử dụng hơn 8 bao bì nilon 1 ngày; 35,1% số hộ sử dụng trên 10 bao bì. Tính trung bình mỗi hộ 223 bao bì một tháng, tương đương với 1 kg bao bì một tháng, trong đó đến 98,7 % là bao bì nilon khó phân hủy. Số liệu của Quỹ tái chế Tp. Hồ Chí Minh, một ngày, thành phố tiêu thụ 5 - 9 triệu bao nilon tương đương với 34 - 60 tấn/ngày. Hệ thống Siêu thị Maxi Mart tiêu thụ 10 tấn túi nilon/tháng; Big C tiêu thụ 20 tấn/ tháng. Chợ Đồng Xuân, mỗi hộ kinh doanh tiêu thụ 200 - 300 túi/ngày để gói hàng. Nguồn: Các biện pháp giảm phát thải bao bì nilon khó phân hủy tại Việt Nam, Tạp chí Môi trường, 10/2011 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 23 Hà Nội và 2.000 tấn rác thải xây dựng tại thành phố Hồ Chí Minh được thải bỏ và chôn lấp. Đối với Hà Nội, năm 2010, diện tích nhà ở xây mới là trên 2 triệu m2 (Niên giám thống kê Tp. Hà Nội, 2010). Quá trình xây dựng các công trình mới này sẽ làm phát sinh một lượng không nhỏ CTR xây dựng từ quá trình đào móng, xây dựng và hoàn thiện công trình. Đối với các địa phương khác như Bắc Giang, CTR xây dựng chiếm 12,8% lượng CTR đô thị (năm 2008), Tiền Giang, CTR xây dựng khoảng 40 tấn/ngày (năm 2010) (Báo cáo của các Sở TN&MT, 2010). Căn cứ Nghị quyết của Chính phủ, đến năm 2015 sẽ cơ bản hoàn thành việc phá dỡ, cải tạo các khu chung cư cũ nát tại các đô thị lớn nên lượng rác thải xây dựng sẽ còn tăng mạnh trong thời gian tới. Hà Nội sẽ phải phá dỡ khoảng 23 khu chung cư 4 - 5 tầng với gần 1 triệu mét vuông sàn và thành phố Hồ Chí Minh sẽ phải phá dỡ ít nhất 70 khu chung cư xuống cấp nghiêm trọng (trong tổng số 155 khu chung cư cần cải tạo) để xây mới. Chất thải rắn công nghiệp Hiện nay còn tồn tại khá nhiều cơ sở công nghiệp nằm trong khu vực đô thị, mặc dù theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg nhiều cơ sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã phải di chuyển ra khỏi đô thị hoặc phải cải thiện tình hình ô nhiễm môi trường của mình, song do nhiều khó khăn, vướng mắc, nên còn khá nhiều các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ còn tồn tại trong đô thị như các nhà máy cơ khí, dệt may, da giày, sản xuất bia, bánh kẹo, nước ngọt,... Các cơ sở công nghiệp nêu trên chính là nguồn phát sinh CTR công nghiệp thông thường và nguy hại. Vấn đề CTR công nghiệp sẽ được trình bày kỹ trong Chương 4. Bảng 2.8. Khối lượng CTR xây dựng năm 2009 của một số địa phương Nguồn: Báo cáo khảo sát của Hiệp hội Môi trường đô thị và KCN Việt Nam, năm 2009 Các đô thị Khối lượng CTR xây dựng (tấn/ngày) Tỷ lệ thu gom (%) Hà Nội 1.000 - 1.500 70 Tp. Hồ Chí Minh 2.000 - 2.500 75 Hải Phòng 400 - 450 40 - 45 Đà Nẵng 500 - 600 60 Các đô thị khác 100 - 200 20 - 30 Hoạt động tại nhà máy chế biến chất thải Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 24 CTNH trong sinh hoạt Theo thống kê, CTNH còn bị thải lẫn vào chất thải sinh hoạt mang đến bãi chôn lấp là 0,02 ÷ 0,82%. CTNH trong sinh hoạt thường là: pin, ắc-quy, đèn tuýp, nhiệt kế thủy ngân vỡ, bao bì chất tẩy rửa, vỏ hộp sơn, vec-ny, vỏ hộp thuốc nhuộm tóc, lọ sơn móng tay, vỏ bao thuốc trừ sâu, chất thải y tế lây nhiễm của các cơ sở khám chữa bệnh nhỏ lẻ, các bơm kim tiêm của các đối tượng nghiện chích ma túy,... Pin thải và ắc-quy thải: theo điều tra của đề tài rác thải pin-ắcquy ở Hà Nội năm 2004 cho thấy: Mức tiêu thu pin R6 Zn-C ở khu vực nội thành là 5÷8 cái/người/năm, khu vực ngoại thành là 3÷5 cái/người/năm. Ước tính lượng pin thải R6 Zn-C ở Hà Nội năm 2004 là 200÷350 tấn/năm (con số tương ứng năm 2010 có thể đạt tới 750 tấn). Ắc-quy chạy xe gắn máy chủ yếu là loại ắc-quy chì-axit, tuổi thọ trung bình là 5 năm/cái với trọng lượng 2,5 kg/ắc-quy. Ước tính lượng ắc-quy xe máy chì-axit vào năm 2004 ở Hà Nội là 580 tấn/ năm (con số tương ứng cho năm 2010 có thể đạt trên 1.200 tấn). Hiện tại, CTNH trong sinh hoạt vẫn chưa được thu gom và xử lý riêng và bị thải lẫn với CTR sinh hoạt để đưa đến bãi chôn lấp. Việc chôn lấp và xử lý chung sẽ gây ra nhiều tác hại cho những người tiếp xúc trực tiếp với rác, ảnh hưởng tới quá trình phân hủy rác và hòa tan các chất nguy hại vào nước rỉ rác. Do vậy, các cơ quan quản lý cần có chính sách và yêu cầu các URENCO có kế hoạch thu gom riêng biệt CTNH trong CTR sinh hoạt. Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 25 Chất thải điện tử Lượng chất thải điện tử và điện dân dụng thải ra từ các đô thị như tivi, tủ lạnh, quạt điện, máy tính, đồ dân dụng,.. ngày càng tăng. Các chất thải điện tử được thải ra sẽ được những người thu mua tiến hành một trong các hoạt động sau: (1) Các thiết bị còn sửa chữa được sẽ được các cửa hàng sửa chữa và thời gian hoạt động của các thiết bị này sẽ được kéo dài. Các chi tiết hỏng sẽ được thải cùng với chất thải sinh hoạt; (2) Các đồ dùng đã hỏng sẽ tháo rời thành các bộ phận bán cho cơ sở sửa chữa để tận dụng thiết bị như tụ, bản mạch,... Các chất thải điện tử được tháo rời và tái chế thu hồi kim loại (Cu, Pb, Al, Au, Ag,...), nhựa, dây đồng,... phần không bán được sẽ thải cùng với rác sinh hoạt. Kết quả điều tra nghiên cứu của JICA kết hợp với URENCO công bố năm 2007 về kiểm kê chất thải điện tử ở Việt Nam với các số liệu điều tra được đưa ra dưới đây: Năm Ti-vi Máy tính (PC) Điện thoại di động Tủ lạnh Điều hòa không khí Máy giặt 2002 190,445 62,771 80,912 112,402 17,778 184,140 2003 222,977 77,845 86,467 140,916 24,706 214,271 2004 261,542 90,447 103,414 162,262 29,853 249,094 2005 308,076 110,123 472,707 194,570 39,157 287,910 2006 364,684 131,536 505,268 230,856 49,782 327,649 Bảng 2.9. Chất thải điện tử phát sinh ở Việt Nam từ 2002 đến 2006 Nguồn: Kiểm kê chất thải điện tử ở Việt Nam, JICA 2007 Đơn vị: tấn/năm Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 26 Ngoài các đồ điện, điện tử dân dụng thải ra, Việt Nam còn có 52 doanh nghiệp sản xuất đồ điện và điện tử,... Các doanh nghiệp này khi sản xuất các mạch in, đèn hình, lắp ráp đồ điện tử như ti-vi, tủ lạnh, máy điều hòa, máy giặt,... sẽ thải ra chất thải là các chi tiết hỏng, bao bì,.. Với cách thức thải và xử lý đồ điện tử như trên, đây sẽ là một vấn nạn cho nước ta khi lượng chất thải điện tử ngày càng tăng. CTR đô thị có thể tái chế Chất thải có thể tái chế trong CTR sinh hoạt như giấy, nhựa, kim loại,... trước hết được tách ra một phần tại các hộ gia đình để bán cho người thu mua phế liệu, sau đó còn được người nhặt rác thu lượm tiếp ở đường phố và ngay tại các bãi rác. Hiện nay, ước tính tổng lượng CTR được tái chế trong CTR đô thị chiếm khoảng 8 ÷ 15%. 2.2.4. Ước tính lượng thải và thành phần chất thải rắn đô thị đến năm 2025 Cơ sở của việc ước tính CTR đô thị là tốc độ tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ học, tốc độ tăng GDP hàng năm. Lượng CTR đô thị ngày càng tăng và thành phần ngày càng phức tạp do số lượng dân cư chuyển từ nông thôn ra thành thị ngày càng tăng bởi quá trình đô thị hóa cao, do mức sống ngày càng cao nên tiêu dùng ngày càng đa dạng. Mức độ đô thị hóa tăng nhanh nên số dân ở các đô thị càng ngày càng tăng, nhất là các thành phố lớn có kinh tế phát triển như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng,... Ước tính chỉ số phát sinh CTR đô thị trung bình ở Việt Nam trong những năm 2015, 2020, 2025 vào khoảng 1,2; 1,4; 1,6 kg/ người/ngày. Năm 2015 2020 2025 Dân số đô thị (triệu người) (2) 35 44 52 % dân số đô thị so với cả nước 38 45 50 Chỉ số phát sinh CTR đô thị (kg/người/ngày) 1,2 1,4 1,6 Tổng lượng CTR đô thị phát sinh (tấn/ngày) 42.000 61.600 83.200 Bảng 2.10. Ước tính lượng CTR đô thị phát sinh đến năm 2025 Nguồn: TCMT tổng hợp, 2011 2Dân số đô thị lấy theo Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Quy hoạch phát triển đô thị của Việt Nam Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 27 Từ kết quả dự báo ở Bảng 2.10 trên thì lượng CTR sinh hoạt đô thị năm 2015 tăng gấp 1,6 lần, năm 2020 tăng gấp 2,37 lần, năm 2025 gấp 3,2 lần so với năm 2010. Đây sẽ là áp lực lớn đối với công tác quản lý CTR đô thị trong thời gian tới. Thành phần CTR cũng thay đổi đáng kể do mức độ tiêu dùng tăng cao, hàng hóa ngày càng đa dạng. Chất lượng cuộc sống tăng cao kéo theo CTNH cũng tăng, trở thành nguồn gây ô nhiễm môi trường đáng kể. Bên cạnh đó, các loại bao bì như giấy, nhựa, chai lọ thủy tinh sẽ không ngừng gia tăng, do vậy, cần có chiến lược thu gom, tái chế các chất thải bao bì, giảm sử dụng túi nilon. Các đồ dùng như quần áo, giường tủ, tivi, xe máy cũng được thay thế với tần suất cao hơn. Mặc dù chất thải loại này thường được tái sử dụng, song, lượng chất thải này cũng vẫn gia tăng theo thời gian,... Thành phần chất thải hữu cơ có trong CTR đô thị của Việt Nam từ nay tới năm 2025 cũng vẫn rất cao, khoảng > 50%. Do đó, Việt Nam cần phát triển công nghệ xử lý làm phân compost từ phần hữu cơ của CTR đô thị, chú trọng khâu phân loại CTR tại nguồn để giảm tạp chất cho nguyên liệu đầu vào nhà máy đồng thời giảm nhẹ khâu phân loại trong dây chuyền công nghệ chế biến CTR. 2.3. PHÂN LOẠI VÀ THU GOM CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ Công tác thu gom CTR đô thị mặc dù ngày càng được chính quyền các cấp quan tâm, nhưng do lượng CTR đô thị ngày càng tăng, năng lực thu gom còn hạn chế cả về thiết bị lẫn nhân lực nên tỷ lệ thu gom vẫn chưa đạt yêu cầu. Mặt khác, do nhận thức của người dân còn chưa cao nên lượng rác bị vứt bừa bãi ra môi trường còn nhiều, việc thu gom có phân loại tại nguồn vẫn chưa được áp dụng rộng rãi do thiếu đầu tư cho hạ tầng cơ sở cũng như thiết bị, nhân lực và nâng cao nhận thức. Khung 2.5. Các dự án, chương trình phân loại chất thải tại nguồn ở Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh Hà Nội: Dự án 3R-HN do JICA tài trợ đã triển khai thực hiện phân loại chất thải tại nguồn trên địa bàn thành phố tại phường Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội (kể từ tháng 7/2007); phường Thành Công và phường Láng Hạ (năm 2008). Rác hữu cơ được chuyển đến nhà máy phân Cầu Diễn để sản xuất phân Compost, rác vô cơ được chuyển đến chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn. Tổng cộng có khoảng 18.000 hộ gia đình đã tham gia vào dự án 3R tại các phường thí điểm nêu trên. Tại địa bàn thí điểm, lượng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình đã giảm bình quân từ 31,2 - 45,1% tùy từng phường, đạt mục tiêu giảm thiểu 30% lượng chất thải phải mang đi chôn lấp mà dự án đã đặt ra. Dự án đã thu được khoảng 25.000 tấn rác thải hữu cơ và đã chế biến được khoảng 10.000 tấn phân hữu cơ từ số rác này. Tp. Hồ Chí Minh: Từ năm 2004 thành phố đã thực hiện thí điểm chương trình phân loại CTR tại nguồn ở 10 quận là 1, 3, 5, 6, 7, 8, 9, 10, quận Bình Thạnh, quận Phú Nhuận và huyện Củ Chi, chợ đầu mối Bình Điền... Sau khi phân loại, rác được thu gom vận chuyển đến Khu Liên hợp xử lý rác Đa Phước, huyện Bình Chánh. Rác hữu cơ để sản xuất phân compost, rác vô cơ được xử lý bằng phương pháp chôn lấp. Nguồn: TCMT tổng hợp Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 28 2.3.1. Phân loại tại nguồn 3R (viết tắt của 3 từ Reduce - Giảm thiểu, Reuse - Tái sử dụng, Recycle - Tái chế), với nền tảng cơ bản là hoạt động phân loại tại nguồn. Phân loại chất thải tại nguồn sẽ giúp giảm thiểu lượng rác thải chôn lấp: rác thải hữu cơ được tái chế thành sản phẩm có ích, các chất thải như nhựa, giấy, kim loại được tái chế thành nguyên liệu đầu vào hoặc sản phẩm tái chế. Đây là cơ sở để hình thành và phát triển thị trường tái sử dụng, tái chế chất thải. Các thành phố đã áp dụng thử nghiệm phân loại rác tại nguồn, điển hình như Tp. HCM, Hà Nội, Đà Nẵng,... đã có những kết quả nhất định. Tuy nhiên, để triển khai nhân rộng hoạt động này cần phát triển đồng bộ cơ sở hạ tầng như: các thiết bị thu gom phân loại, địa điểm tập kết và trung chuyển, cơ sở hạ tầng cho công tác tái chế, tái sử dụng như nhà máy làm phân hữu cơ, các cơ sở tái chế chất thải, nhân lực, các chương trình nhằm nâng cao ý thức tham gia của người dân. Hiện nay, chương trình phân loại rác thải tại nguồn vẫn chưa được áp dụng, triển khai rộng rãi vì nhiều lý do như chưa đủ nguồn lực tài chính để mua sắm trang thiết bị, đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như nguồn nhân lực thực hiện, đặc biệt là thói quen của người dân. Tại một số địa phương triển khai thí điểm mô hình phân loại CTR tại nguồn ở giai đoạn đầu, do cơ sở hạ tầng khi tiến hành thí điểm dự án là không đồng bộ và do hạn chế, thiếu đầu tư cho công tác thu gom vận chuyển và xử lý CTR theo từng loại nên sau khi người dân tiến hành phân loại tại nguồn, rác được công nhân URENCO thu gom và đổ lẫn lộn vào xe vận chuyển để mang đến bãi chôn lấp chung, do vậy, mục tiêu của chương trình phân loại Khung 2.6. Vướng mắc trong phân loại CTR tại nguồn và định hướng thực hiện tại Tp. Hồ Chí Minh Năm 2006, Tp.HCM đã triển khai thí điểm chương trình phân loại CTR tại nguồn trên 9 phường của địa bàn quận 6. Kết quả cho thấy có hơn 80% người dân quận 6 tham gia thực hiện dự án, trong đó có hơn 50% hộ dân thực hiện phân loại đúng. Nhưng cho đến nay, dự án phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn quận 6 đã tạm ngừng thực hiện vì dự án chưa được cấp vốn. Quy định về phân loại CTR tại nguồn cho 24 quận, huyện đang vướng về nguồn vốn đầu tư (chưa có nguồn vốn cụ thể) và qui định xử phạt vi phạm khi triển khai thực hiện phân loại. Để từng bước triển khai chương trình phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn thành phố, bước đầu sẽ ưu tiên triển khai thực hiện tại các chợ đầu mối, Trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng, khách sạn,... Bên cạnh đó, Tp. HCM cũng đang khẩn trương xây dựng qui định về phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn thành phố để làm cơ sở triển khai thực hiện đồng bộ việc phân loại CTR tại nguồn trên địa bàn vào năm 2015. Nguồn: Hiện trạng quản lý CTR tại Tp. Hồ Chí Minh, 2011 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 29 rác tại nguồn bị hoài nghi. Do chưa thực sự quen với việc phân loại CTR tại nguồn nên tỷ lệ người dân tự nguyện tham gia phân loại rác chỉ khoảng 70%. Kinh phí cho công tác tuyên truyền vận động ban đầu thì có nhưng đến khi kết thúc dự án thì không còn để duy trì tuyên truyền. Các URENCO ở các nơi có dự án thí điểm cũng không lập quy hoạch tiếp tục duy trì và phát triển dự án, nên các dự án chỉ dừng ở mô hình thí điểm. 2.3.2. Hình thức thu gom Việc phân loại CTR tại nguồn vẫn chưa được triển khai rộng rãi, vì vậy ở hầu hết các đô thị nước ta, việc thu gom rác chưa phân loại vẫn là chủ yếu. Công tác thu gom thông thường sử dụng 2 hình thức là thu gom sơ cấp (người dân tự thu gom vào các thùng/túi chứa sau đó được công nhân thu gom vào các thùng rác đẩy tay cỡ nhỏ) và thu gom thứ cấp (rác các hộ gia đình được công nhân thu gom vào các xe đẩy tay sau đó chuyển đến các xe ép rác chuyên dụng và chuyển đến khu xử lý hoặc tại các chợ/khu dân cư có đặt con- tainer chứa rác, công ty môi trường đô thị có xe chuyên dụng chở container đến khu xử lý). Tp. Hồ Chí Minh có 2 trạm trung chuyển lớn: trạm trung chuyển Quang Trung tiếp nhận 1.084 tấn/ngày, trạm trung chuyển Tống Văn Trân tiếp nhận 820 tấn/ngày. Rác từ 2 trạm trung chuyển này được các xe lớn chuyển tới khu liên hiệp xử lý CTR Đa Phước, Phước Hiệp và Nhà máy Xử lý rác Vietstar. Một trong những bức xúc của các đô thị hiện nay trong công tác thu gom CTR là thiếu các địa điểm trung chuyển rác. Hà Nội chưa có trạm trung chuyển rác trong khi khoảng cách từ Hà Nội tới khu xử lý rác Nam Sơn khoảng 50km. Các thành phố khác cũng chưa có trạm trung chuyển rác đúng nghĩa như ở Tp. Hồ Chí Minh. Theo đánh giá hiện Khung 2.7. Bức xúc của người dân sinh sống quanh các bãi rác và các địa điểm trung chuyển rác Tp. Hồ Chí Minh: điểm trung chuyển trên đường Lê Đức Thọ (phường 14, quận Gò Vấp) do doanh nghiệp tư nhân Dương Duy đầu tư rộng khoảng 1.000 m², bên trong chôn âm hai bồn thép có dung tích khoảng 60m3 để chứa bùn từ xe nhỏ (khoảng 3 - 6 m3/xe) các nơi đổ về, sau đó sẽ bơm bùn qua các xe lớn để chuyển về Nhà máy Xử lý bùn hầm cầu Hòa Bình (Đa Phước, huyện Bình Chánh). Cộng đồng xung quanh tỏ ra bức xúc do mùi hôi phát tán từ điểm trung chuyển do cứ vào buổi trưa và tối, mùi hôi bùn hầm cầu bay vào nhà khiến người dân khó chịu. Theo ông Lê Trung Tuấn Anh, Phó Phòng Quản lý CTR, Sở TN&MT thì về cảm quan, điểm trung chuyển hoạt động khá tốt và bảo đảm vệ sinh, mùi hôi trong khu vực do điểm trung chuyển phát tán không nhiều mà chủ yếu là mùi hôi từ con kênh trước mặt (kênh Bến Thượng) bị ô nhiễm và cơ sở sản xuất nằm bên cạnh. Tuy nhiên, kiến nghị của người dân về việc đóng cửa hoặc di dời điểm trung chuyển này cần phải xem xét lại. Tp. Đà Nẵng: trạm trung chuyển trên đường Ngô Gia Tự phục vụ quá trình thu gom rác cho hai phường Hải Châu 1 và Hải Châu 2 và hai chợ lớn là chợ Cồn và chợ Hàn. Rác thải vận chuyển cả ngày lẫn đêm, luôn bốc mùi hôi thối dữ dội, nhất là những ngày nắng nóng. Trạm được trang bị hệ thống hút bụi và khử mùi bằng than hoạt tính, đồng thời phun chế phẩm sinh học chống mùi vào rác thải. Nước thải tại trạm đã có mương dẫn và hố ga để chảy vào cống, không có hiện tượng nước chảy ra ngoài; Nước vệ sinh trước cổng trạm và vỉa hè thì tràn ra đường, Công ty khắc phục bằng cách không xịt nước mà chỉ quét dọn. Nhiều cử tri nêu ý kiến nên di dời các trạm trung chuyển ra khỏi khu dân cư để đảm bảo mỹ quan và không gây ô nhiễm. Tuy nhiên, việc di dời đang gặp nhiều khó khăn, bởi nếu di dời trạm trung chuyển Ngô Gia Tự thì phải xây dựng một trạm khác có công suất tương đương mới đảm bảo đưa rác của các khu vực trên ra khỏi khu dân cư và địa điểm trung chuyển rác mới cũng chưa tìm được nơi hợp lý. Nguồn: Báo Người Lao động, 01/2011; Báo điện tử Dân Trí, 09/2010; Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 30 nay, hầu hết các đô thị mới chỉ có các điểm tập kết rác, tuy vậy, các điểm tập kết này cũng chưa đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường. Công tác xã hội hóa việc thu gom và vận chuyển chất thải đang được thực hiện rộng rãi ở nhiều nơi. Chỉ ở các đô thị lớn cấp thành phố mới có URENCO đảm nhận việc thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đô thị. Tuy nhiên vẫn có sự tham gia của các công ty cổ phần hoặc công ty tư nhân. Trên địa bàn Thành phố Hà Nội, ngoài URENCO là đơn vị đảm trách chính còn có khoảng gần 30 đơn vị tư nhân và tập thể khác tham gia thực hiện thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt. Tại các đô thị nhỏ cấp thị trấn, phần lớn là các hợp tác xã, tổ đội thu gom, tổ chức tư nhân đảm nhiệm việc thu gom vận chuyển với chi phí thu gom thỏa thuận với người dân đồng thời có sự chỉ đạo của chính quyền địa phương. 2.3.3. Tỷ lệ thu gom Công tác thu gom CTR đô thị trong những năm gần đây đã được quan tâm hơn. Các URENCO ở nhiều địa phương đã quan tâm trang bị thêm phương tiện và nhân lực cho khâu thu gom. Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ được thực hiện với các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh. Tỷ lệ thu gom trung bình ở các đô thị từ 72% năm 2004 tăng lên khoảng 80 - 82% năm 2008 và đạt khoảng 83 - 85% cho năm 2010. Mặc dù tỷ lệ thu gom có tăng nhưng vẫn còn khoảng 15 ÷ 17% CTR đô thị bị thải ra môi trường vứt vào bãi đất, hố đất, ao hồ, hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường. Khung 2.8. Xã hội hóa việc thu gom chất thải rắn sinh hoạt tại Tp. Hồ Chí Minh Tp. Hồ Chí Minh đang tồn tại song song 2 hệ thống tổ chức thu gom rác sinh hoạt: hệ thống thu gom công lập và hệ thống thu gom dân lập. Hệ thống công lập gồm 22 Công ty Dịch vụ công ích của các quận. Hệ thống này đảm nhận toàn bộ việc quét dọn vệ sinh đường phố, thu gom rác chợ, rác cơ quan và các công trình công cộng, đồng thời thực hiện dịch vụ thu gom rác sinh hoạt cho khoảng 30% số hộ dân trên địa bàn, sau đó đưa về trạm trung chuyển hoặc đưa thẳng tới bãi rác. Hệ thống thu gom dân lập bao gồm các cá nhân thu gom rác, các nghiệp đoàn thu gom và các Hợp tác xã vệ sinh môi trường. Lực lượng thu gom dân lập chủ yếu thu gom rác hộ dân (thông qua hình thức thỏa thuận hợp đồng dưới sự quản lý của UBND Phường), trên 70% hộ dân trên địa bàn và các công ty gia đình. Nguồn: Điều tra chỉ số hài lòng về dịch vụ thu gom, Cục Thống kê và Viện Nghiên cứu Phát triển, 2008 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 31 Theo báo cáo của các Sở TN&MT năm 2010 (Bảng 2.12), một số đô thị đặc biệt, đô thị loại 1, có tỷ lệ thu gom đạt mức cao hơn như Hà Nội đạt khoảng 90 - 95% ở 4 quận nội thành cũ, Tp. Hồ Chí Minh đạt 90 - 97%, Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng đều đạt khoảng 90% ở khu vực nội thành, các đô thị loại 2 cũng có cải thiện đáng kể, đa số các đô thị loại 2 và 3 đều đạt tỷ lệ thu gom ở khu vực nội thành đạt trên 80%. Ở các đô thị loại 4 và 5 thì công tác thu gom được cải thiện không nhiều do nguồn lực vẫn hạn chế, thu gom phần lớn do các hợp tác xã hoặc tư nhân thực hiện nên thiếu vốn đầu tư trang thiết bị thu gom. Mặt khác, ý thức người dân ở các đô thị này cũng chưa cao nên có gia đình không sử dụng dịch vụ thu gom rác. Khung 2.9. Thu gom CTR sinh hoạt tại Tp. Đà Nẵng Mỗi ngày Công ty TNHH MTV Môi trường Đô thị Đà Nẵng thu gom được 630 tấn CTR các loại. Tỉ lệ thu gom ước tính đạt từ 90% - 92% lượng rác phát sinh trên địa bàn thành phố. Trong tỷ trọng các loại chất thải thu gom được trên địa bàn thì chất thải sinh hoạt chiếm tỷ trọng trên 80%, còn lại là các loại chất thải công nghiệp, chất thải y tế không nguy hại và nguy hại. Tại 6 quận của thành phố, công tác thu gom rác thải được thực hiện hàng ngày, tỷ lệ thu gom rác tại khu vực nội thành đạt trên 97% khối lượng rác phát sinh trên địa bàn. Riêng huyện Hoà Vang, công tác thu gom CTR mới được thực hiện tại các khu dân cư nằm ven quốc lộ, tỉnh lộ và các chợ của xã. Nguồn: Hiện trạng quản lý CTR trên địa bàn Tp. Đà Nẵng, Cục Kiểm soát ô nhiễm, TCMT, 2011 Tỷ lệ thu gom (%) 2006 2007 2008 2009 2010 2011 Tp. Đà Nẵng - - - - 90 - Tp. Huế 90 ~ 91 92 94 95 ~ 96 Bảng 2.11. Tỷ lệ thu gom CTR đô thị của Tp. Đà Nẵng và Tp. Huế Nguồn: Sở TN&MT Tp. Đà Nẵng và Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế, 2011 Khung 2.10. Thu gom chất thải tại Hà Nội Năm 2010, khối lượng chất thải phát sinh trên địa bàn Hà Nội vào khoảng 6.200 tấn/ngày. Ước tính, tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt ở các quận nội thành đạt khoảng 95%, các huyện ngoại thành chỉ đạt 60%; lượng CTR công nghiệp được thu gom đạt 85 - 90% và CTNH mới chỉ đạt khoảng 60 - 70%. Nguồn: URENCO Hà Nội , 2011 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 32 Đô thị Tỷ lệ thu gom (%) Đô thị Tỷ lệ thu gom (%) Đô thị loại đặc biệt Hà Nội 90 ÷ 95 (4 quận nội thành lõi) 83,2 (10 quận) Đô thị loại 3: Thành phố Bắc Giang > 80 Hồ Chí Minh 90 ÷ 97 Thái Bình 90 Đô thị loại 1: Thành phố Hải Phòng 80 ÷ 90 Phú Thọ 80 Đà Nẵng 90 Bảo Lộc 70 Huế 90 Vĩnh Long 75 Nha Trang 90 Bạc Liêu 52 Quy Nhơn 60,8 Đô thị loại 4: Thị xã Sông Công - Thái Nguyên > 80 Buôn Ma Thuột 70 Từ Sơn - Bắc Ninh 51 Đô thị loại 2: Thành phố Thái Nguyên > 80 Lâm Thao - Phú Thọ 80 Việt Trì 95 Sầm Sơn - Thanh Hóa 90 Nam Định 78 Cam Ranh-Khánh Hòa 90 Thanh Hóa 84,4 Thủ Dầu Một - Bình Dương 84 Cà Mau 80 Đồng Xoài-Bình Phước 70 Mỹ Tho 91 Gò Công - Tiền Giang 60 Long Xuyên 69 Ngã Bảy - Hậu Giang 60 Đô thị loại 3: Thành phố Điện Biên Phủ 80 Đô thị loại 5 Thị trấn, Thị tứ Tủa Chùa - Điện Biên 75 Bắc Ninh 70 Tiền Hải - Thái Bình 74 Bảng 2.12. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt của một số đô thị năm 2009 Nguồn: Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011; Báo cáo hiện trạng môi trường của các địa phương, 2010 Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 33 2.4. TÁI SỬ DỤNG VÀ TÁI CHẾ CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ CTR đô thị có thể tái sử dụng, tái chế thành các sản phẩm như: các chất thải hữu cơ chế biến làm phân hữu cơ, làm thức ăn chăn nuôi; tái chế giấy, kim loại, nhựa, thủy tinh,... Tỷ lệ tái chế các chất thải làm phân hữu cơ và tái chế giấy, nhựa, thủy tinh, kim loại như sắt, đồng, chì, nhôm,... chỉ đạt khoảng 8 ÷ 12% CTR đô thị thu gom được. Xử lý phần hữu cơ của rác thải thành phân hữu cơ hiện là một phương pháp đang sử dụng ở Việt Nam. Đối với công nghệ nội địa xử lý CTR sinh hoạt, đến nay Bộ Xây dựng đã cấp giấy chứng nhận cho bốn công nghệ: (1) công nghệ chế biến CTR Seraphin của Công ty Môi trường Xanh; (2) công nghệ chế biến CTR ANSINH - ASC của Công ty Tâm Sinh Nghĩa; (3) công nghệ ép CTR thành viên nhiên liệu của Công ty Thủy lực máy và (4) công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt bằng phương pháp đốt của Trung tâm Nghiên cứu ứng dụng Công nghệ mới và Môi trường. Công nghệ ép CTR của Công ty Thủy lực máy đã được áp dụng thử nghiệm tại thị xã Sông Công (Thái Nguyên). Công nghệ Seraphin, AST có khả năng xử lý CTR đô thị cho ra các sản phẩm như: phân hữu cơ, nhựa tái chế, thanh nhiên liệu,... Lượng CTR còn lại sau xử lý của công nghệ này chỉ chiếm khoảng 15% lượng chất thải đầu vào. Công nghệ SERAPHIN, ANSINH-ASC và MBT-CD.08 đã được triển khai áp dụng tại Nhà máy Xử lý rác Đông Vinh (Nghệ An), Nhà máy Xử lý rác Sơn Tây (Hà Nội); Nhà máy Xử lý rác Thủy Phương (Thừa Thiên - Huế); Nhà máy Xử lý rác Đồng Văn (Hà Nam). Tuy nhiên, Nhà máy xử lý rác Sơn Tây (Hà Nội) triển khai công nghệ SERAPHIN đã ngừng hoạt động và thay bằng Nhà máy đốt rác năng lượng thấp của Công ty Môi trường Thăng Long với công suất 300 tấn/ngày. Khung 2.11. Hoạt động tái chế CTR ở Nhà máy xử lý rác Thủy Phương, Thừa Thiên - Huế Nhà máy xử lý rác Thủy Phương có diện tích 4 ha đã đi vào hoạt động từ tháng 3 năm 2005. Năm 2007, Công ty cổ phần Tâm Sinh Nghĩa đã đầu tư, xây dựng cải tạo nhà máy theo công nghệ hiện đại, chu trình xử lý rác khép kín đến đầu ra sản phẩm với công suất xử lý 200 tấn rác mỗi ngày. Hoạt động của nhà máy sẽ làm giảm đáng kể lượng rác thải phải chôn lấp tại Bãi rác Thủy Phương. Sản phẩm của nhà máy gồm có: mùn hữu cơ, phân hữu cơ vi sinh, nhựa tái chế dùng để làm tấm lót, ống nhựa, xô chậu,... Chỉ dưới 10% rác thải không sử dụng được như thủy tinh, gạch đá mới phải đem chôn lấp tại bãi rác Thủy Phương. Nguồn: Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế , 2011 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 34 Mặc dù chất thải rắn chở đến các nhà máy làm phân hữu cơ có thành phần hữu cơ từ 60 ÷ 65% nhưng do CTR đô thị chưa được phân loại tại nguồn nên lượng CTR thải ra sau xử lý từ các nhà máy này phải mang đi chôn lấp vào khoảng 35 ÷ 40% lượng chất thải đầu vào. Thống kê sơ bộ cho thấy, không quá 10 nhà máy làm phân hữu cơ đang hoạt động có công suất khoảng 200 tấn/ngày chất thải đầu vào và chỉ có 1 nhà máy công suất 600 tấn/ ngày tại Tp. Hồ Chí Minh. Nếu hoạt động đủ công suất thì số lượng rác thải được xử lý làm phân hữu cơ < 2.500 tấn/ngày, chiếm khoảng < 10% CTR đô thị phát sinh. Thực tế, các nhà máy này đều chưa hoạt động đủ công suất thiết kế do tiêu thụ phân hữu cơ còn gặp nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, vấn đề tồn tại của công nghệ này là ô nhiễm môi trường thứ cấp do đốt các viên nhiên liệu sinh ra. Công nghệ Seraphin và công nghệ ANSINH - ASC tương tự như nhau, đều là chế biến CTR hữu cơ thành phân vi sinh, tái chế các thành phần còn lại: kim loại, thủy tinh, nilon... Việc nghiên cứu nhân rộng các mô hình này trong điều kiện Việt Nam cần có các đánh giá rút kinh nghiệm từ các dự án đã triển khai trong thời gian qua. Tái chế các chất thải như giấy thải, nhựa thải, kim loại thải ở Việt Nam hầu hết do tư nhân và các làng nghề đảm nhiệm. Tuy là các hoạt động tự phát nhưng hoạt động này rất phát triển, mang lại lợi ích kinh tế cho người dân. Khoảng 90% chất thải như giấy, nhựa, kim loại được tạo thành sản phẩm tái chế, còn khoảng 10% thành chất thải sau tái chế. Công nghệ tái chế ở các làng nghề phần lớn là thủ công, lạc hậu nên gây ô nhiễm môi trường nặng nề, bên cạnh đó, các chất thải làng nghề hầu hết đều không được xử lý mà Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 35 đều thải thẳng ra môi trường cùng với chất thải sinh hoạt và đưa đến bãi chôn lấp. Các làng nghề tái chế chỉ chiếm 90/1.450 làng nghề (Đề tài KC 08.09, 2004 - 2005). Còn nhiều cơ sở tái chế không nằm trong làng nghề mà nằm ngay trong các đô thị. Tp. Hồ Chí Minh có 302 cơ sở tái chế nằm trong địa bàn thành phố, chủ yếu ở Quận 11, trong đó 67 cơ sở tái chế nhựa, 15 cơ sở tái chế thủy tinh, 9 cơ sở tái chế kim loại, 7 cơ sở tái chế giấy và 2 cơ sở tái chế cao su (Sở TN&MT Tp. Hồ Chí Minh, 2006). Theo ước tính của JICA, lượng CTR là giấy, kim loại, nhựa được tái chế chiếm khoảng 8,2% lượng rác thu gom được. Tại thời điểm năm 2009, Hà Nội là 348 tấn/ngày, Tp. Hồ Chí Minh 554 tấn/ngày, Hải Phòng 86,5 tấn/ ngày, Đà Nẵng 56,7 tấn/ngày, Huế 16,9 tấn/ngày (JICA, 2011). Hình 2.1. Các chất thải đô thị có thể tái sử dụng, tái chế Nguồn: TCMT tổng hợp Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 36 2.5. XỬ LÝ VÀ TIÊU HỦY CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ Tỷ lệ CTR được chôn lấp hiện chiếm khoảng 76 - 82% lượng CTR thu gom được (trong đó, khoảng 50% được chôn lấp hợp vệ sinh và 50% chôn lấp không hợp vệ sinh). Thống kê trên toàn quốc có 98 bãi chôn lấp chất thải tập trung ở các thành phố lớn đang vận hành nhưng chỉ có 16 bãi được coi là hợp vệ sinh. Ở phần lớn các bãi chôn lấp, việc chôn lấp rác được thực hiện hết sức sơ sài. Như vậy, cùng với lượng CTR được tái chế, hiện ước tính có khoảng 60% CTR đô thị đã được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh và tái chế trong các nhà máy xử lý CTR để tạo ra phân compost, tái chế nhựa,... Đốt chất thải sinh hoạt đô thị chủ yếu ở các bãi rác không hợp vệ sinh: sau khi rác thu gom được đổ thải ra bãi rác phun chế phẩm EM để khử mùi và định kỳ phun vôi bột để khử trùng, rác để khô rồi đổ dầu vào đốt. Tuy nhiên, vào mùa mưa, rác bị ướt không đốt được hoặc bị đốt không triệt để. Ước tính khoảng 40 ÷ 50% lượng rác đưa vào bãi chôn lấp không Hình 2.2. Các công nghệ hiện đang được sử dụng để xử lý, tiêu hủy CTR đô thị ở Việt Nam Nguồn: TCMT tổng hợp Khung 2.12. Bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh và bãi chôn lấp rác không hợp vệ sinh Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh: chất thải được san lấp, phun chế phẩm EM và vôi để khử mùi và khử trùng rồi được chôn từng lớp theo thiết kế. Khi ô chôn lấp đầy sẽ được phủ bằng lớp phủ trên cùng. Ô chôn lấp có lớp lót cạnh, lót đáy để nước rác không thấm ra môi trường. Nước thải, khí thải được thu gom xử lý trước khi thải ra môi trường. Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh: các ô chôn lấp không có lớp lót đáy, không có hệ thống thu gom và xử lý nước rác. Rác được chở đến được đổ vào ô chôn lấp, phun chế phẩm EM và vôi để khử mùi và khử trùng, để khô rồi đổ dầu đốt ngay tại bãi rác để giảm thể tích, vào mùa mưa nước ngấm qua rác tạo ra nước rác chảy tràn ra môi trường gây ô nhiễm. Nguồn: TCMT tổng hợp Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị 37 hợp vệ sinh được đốt lộ thiên. Công nghệ đốt CTR sinh hoạt với hệ thống thiết bị đốt được thiết kế bài bản mới được áp dụng tại Nhà máy đốt rác ở Sơn Tây (Hà Nội). Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang có kế hoạch nhập dây chuyền công nghệ đốt chất thải có tận dụng nhiệt để phát điện trong thời gian tới. Chất thải xây dựng chiếm khoảng 10 ÷ 15% lượng CTR đô thị phát sinh. Về nguyên lý chất thải xây dựng có thể tận dụng để lấp chỗ trũng, rải đường nhưng do không có sự phối kết hợp giữa các Sở GTVT, Sở Xây dựng và URENCO ở các tỉnh, thành phố, hơn nữa người dân thường thuê tư nhân thu gom CTR xây dựng nên chất thải xây dựng cũng bị đổ bừa bãi ra môi trường. Chất thải điện và điện tử phát sinh ở khu vực đô thị ngoài những phần được tái sử dụng và tái chế thì ở khu vực phía Bắc, chất thải loại này hiện đã được URENCO Hà Nội thu gom và xử lý tại Công ty Bắc Sơn - Xử lý CTNH tại khu liên hợp Nam Sơn, Sóc Sơn. Báo cáo của Bộ TN&MT đánh giá tình hình thực hiện Quyết định 64/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ (năm 2011) cho thấy, trên toàn quốc còn đến 27/52 bãi chôn lấp vẫn đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt để; chỉ có 25/52 bãi chôn lấp không còn gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Rất nhiều trong số các bãi chôn lấp đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt để là các điểm ô nhiễm tồn lưu. Do đó, bãi chôn lấp đã đóng cửa cần có sự quan tâm và các biện pháp quyết liệt để xử lý, khắc phục ô nhiễm. Tổng hợp các kết quả điều tra nghiên cứu và báo cáo của các địa phương cho thấy rất nhiều tỉnh thành phố chưa có bãi chôn lấp hợp vệ sinh và nhà máy xử lý rác, việc xử lý và tiêu hủy rác ở đây chủ yếu là chôn lấp và Khung 2.13. Đặc trưng ô nhiễm của một số bãi chôn lấp đã đóng cửa Bãi chôn lấp đã đóng cửa có một số đặc trưng ô nhiễm sau: - Hóa chất hữu cơ POPs từ các bao bì thuốc BVTV đã bị cấm sử dụng; - Kim loại nặng Pb, Hg, Cd, Cu... từ các nhiệt kế thủy ngân vỡ, bùn thải của các xí nghiệp công nghiệp, pH,... - Các hợp chất hữu cơ khó phân hủy: các dạng thuốc tồn dư (kháng sinh, các dạng hoóc-môn, thuốc sát trùng, thuốc BVTV, các hợp chất chứa halohien như cloro benzen, cloroform; - Coliform; - Phát tán bụi, khí hơi hữu cơ, H2S, CH4; Các chất độc hại nêu trên có khả năng tan trong nước rác gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm và môi trường không khí. Nguồn: Điều tra, đánh giá và đề xuất kế hoạch quản lý, xử lý và phục hồi môi trường tại các điểm ô nhiễm tồn lưu, TCMT, 2009 Khung 2.14. Bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh Thủy Phương, Thừa Thiên - Huế Bãi rác Thủy Phương là bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh, loại bãi chìm, nằm trong vùng gò đồi có cao độ 28 - 40m, cách trung tâm thành phố Huế hơn 10 km theo đường thẳng về phía Tây Nam và cách Quốc lộ 1A theo đường tỉnh lộ 10 khoảng 6 km; Bãi rác Thuỷ Phương được thiết kế theo tiêu chuẩn kỹ thuật với đầy đủ các hạng mục, trong đó có chia các ô đổ rác, hệ thống thu, thoát khí từ rác, hệ thống ao thu gom, xử lý nước rác, hệ thống rãnh thu gom nước mưa chảy tràn và bãi rác, đường vận chuyển rác... Bãi rác Thủy Phương gồm có 2 bãi chôn lấp. Bãi chôn lấp số 1 có diện tích 2,2 ha, hoạt động từ năm 1999 và đã đóng cửa hoàn toàn vào tháng 7 năm 2009. Bãi chôn lấp số 2 có diện tích 2,5 ha, đưa vào sử dụng năm 2009; Bãi chôn lấp này là một bãi chôn lấp an toàn về môi trường, đơn giản trong vận hành và bảo dưỡng trong điều kiện đặc thù của địa phương. Nguồn: Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế, 2011 Báo cáo môi trường quốc gia 2011: Chất thải rắn 38 đốt ngay tại các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh3. Các bãi rác không được quy hoạch và phân bố nhỏ lẻ ở khắp các thành phố, thị xã và các huyện. Một số địa phương điển hình như: Điện Biên, Hà Giang, Thanh Hóa, Quảng Trị, Bình Thuận, Bình Phước, Tiền Giang, Hậu Giang,... Thời gian tới, công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển theo hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái chế, tái sử dụng. Gần đây, có nhiều nhà đầu tư tư nhân đến Việt Nam đem theo các công nghệ đa dạng, tuy nhiên, một số công nghệ không đáp ứng yêu cầu. Bộ Xây dựng đã cấp giấy phép cho một số công nghệ nội địa trong lĩnh vực xử lý CTR sinh hoạt để thúc đẩy các công nghệ phù hợp. Các khu liên hợp xử lý CTR liên tỉnh đã được Bộ Xây dựng thiết kế quy hoạch. Tuy nhiên, tính khả thi của các khu liên hợp này đối với việc xử lý CTR đô thị là điều cần xem xét lại vì đối với các chất thải thông thường, nếu xử lý tập trung liên tỉnh thì chi phí vận chuyển cao sẽ dẫn tới không khả thi. Mặt khác, các địa phương được xác định trong quy hoạch để xây dựng khu liên hợp xử lý CTR về cơ bản cũng không muốn chất thải từ các địa phương lân cận được vận chuyển sang địa bàn tỉnh mình để xử lý. Các tiêu chí Điểm tối đa(*) Điều kiện áp dụng 1.Tiêu chí kỹ thuật: Nguyên lý công nghệ, tính năng kỹ thuật của từng cụm thiết bị trong dây chuyền xử lý, hiệu quả xử lý, giải pháp xử lý chất thải thứ cấp, mức độ cơ khí hóa, tự động hóa, mức độ thuận tiện trong vận hành, bảo dưỡng, công nghệ nội sinh 30 Tổng điểm 4 tiêu chí > 70 điểm. Xếp loại A g khuyến khích áp dụng. Từ 50-70 điểm. Xếp loại B g Có thể áp dụng. < 50 điểm. Xếp loại C g không nên áp dụng 2.Tiêu chí kinh tế: Chi phí đầu tư mua và xây lắp thiết bị, công trình, chi phí vận hành, bảo dưỡng, chi phí xử lý chất thải thứ cấp, giá trị thu lợi sản phẩm (nếu có), thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra 30 3.Tiêu chí sự phù hợp với điều kiện đô thị Việt Nam: Phù hợp với thành phần chất thải, loại vật liệu thiết bị chính, khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu, khả năng chịu mài mòn, điều kiện kinh tế kỹ thuật, quy mô đô thị,.. 20 4.Tiêu chí an toàn và thân thiện môi trường: Các chỉ số an toàn kỹ thuật của thiết bị, các chỉ số về thân thiện môi trường, các chỉ số về biện pháp giảm thiểu tác động xấu đến kinh tế, văn hóa, cảnh quan, sinh thái 20 Nguồn: Báo cáo của Viện Môi trường đô thị và Công nghiệp Việt Nam tại Hội thảo “Lựa chọn công nghệ xử lý CTR phù hợp với điều kiện Việt Nam”, ngày 21/10/2011 Ghi chú: (*) Tính theo thang điểm 100 3 Xem trong Phụ lục 1. Các công nghệ xử lý CTR sinh hoạt hiện đang áp dụng ở một số tỉnh/thành phố Bảng 2.13. Các tiêu chí được đề xuất để lựa chọn công nghệ xử lý CTR đô thị

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfy_chuong_2_chat_thai_ran_o_do_thi_6353_2001300.pdf