Thời gian tới, công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển theo
hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái chế, tái
sử dụng. Gần đây, có nhiều nhà đầu tư tư nhân đến Việt Nam đem theo các
công nghệ đa dạng, tuy nhiên, một số công nghệ không đáp ứng yêu cầu. Bộ
Xây dựng đã cấp giấy phép cho một số công nghệ nội địa trong lĩnh vực xử lý
CTR sinh hoạt để thúc đẩy các công nghệ phù hợp.
Các khu liên hợp xử lý CTR liên tỉnh đã được Bộ Xây dựng thiết kế quy
hoạch. Tuy nhiên, tính khả thi của các khu liên hợp này đối với việc xử lý CTR
đô thị là điều cần xem xét lại vì đối với các chất thải thông thường, nếu xử lý
tập trung liên tỉnh thì chi phí vận chuyển cao sẽ dẫn tới không khả thi. Mặt
khác, các địa phương được xác định trong quy hoạch để xây dựng khu liên
hợp xử lý CTR về cơ bản cũng không muốn chất thải từ các địa phương lân
cận được vận chuyển sang địa bàn tỉnh mình để xử lý
27 trang |
Chia sẻ: dntpro1256 | Lượt xem: 616 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo môi trường quốc gia 2011 - Chương 2: Chất thải rắn ở đô thị, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i/ngày
(Bảng 2.3). Năm 2008, theo Bộ Xây dựng
Khung 2.1. Một loạt các đô thị được
nâng cấp trong vài năm gần đây
Tổng khối lượng CTR đô thị phát sinh vào
khoảng 8.700 - 8.900 tấn/ngày, trong đó, CTR
xây dựng (xà bần) chiếm khoảng 1.200 - 1.500
tấn/ngày và CTR sinh hoạt trung bình từ 6.200
- 6.700 tấn/ngày. Ước tính tỷ lệ gia tăng khoảng
8 - 10%/năm.
Một số loại CTR đô thị như: rác khu thương
mại, xà bần, rác công nghiệp,... trước đây ít thì
những năm gần đây mức độ tăng (khối lượng và
thành phần chất thải) ngày càng cao. Tỷ trọng
nguồn phát sinh cụ thể như sau:
- Rác hộ dân chiếm tỉ trọng 57,91% tổng
lượng rác.
- Rác đường phố chiếm tỉ trọng 14,29%
tổng lượng rác.
- Rác công sở chiếm tỉ trọng 2,8% tổng
lượng rác.
- Rác chợ chiếm tỉ trọng 13% tổng lượng rác.
- Rác thương nghiệp chiếm tỉ trọng 12%
tổng lượng rác.
Thành phần chủ yếu trong CTR đô thị là
chất hữu cơ (rác thực phẩm), chiếm tỷ lệ khá
cao từ 60 - 75% / tổng khối lượng chất thải.
Nguồn: Sở TN&MT Tp. HCM, 2011
Nội dung 2007 2008 2009 2010
Dân số đô thị (triệu người) 23,8 27,7 25,5 26,22
% dân số đô thị so với cả nước 28,20 28,99 29,74 30,2
Chỉ số phát sinh CTR đô thị (kg/người/ngày) ~ 0,75 ~ 0,85 0,95 1,0
Tổng lượng CTR đô thị phát sinh (tấn/ngày) 17.682 20.849 24.225 26.224
Bảng 2.3. CTR đô thị phát sinh các năm 2007 - 2010
Nguồn: TCMT tổng hợp, 2011
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
17
thì chỉ số này là 1,45 kg/người/ngày, lớn hơn
nhiều so với ở nông thôn là 0,4 kg/người/ngày.
Tuy nhiên, theo Báo cáo của các địa phương
năm 2010 thì chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt
đô thị trung bình trên đầu người năm 2009
của hầu hết các địa phương đều chưa tới 1,0
kg/người/ngày. Các con số thống kê về lượng
phát sinh CTR sinh hoạt đô thị không thống
nhất là một trong những thách thức cho việc
tính toán và dự báo lượng phát thải CTR đô
thị ở nước ta.
Kết quả điều tra tổng thể năm 2006 - 2007
đã cho thấy, lượng CTR đô thị phát sinh chủ
yếu tập trung ở hai đô thị đặc biệt là Hà
Nội và Tp. Hồ Chí Minh, chiếm tới 45,24%
tổng lượng CTR sinh hoạt phát sinh từ tất cả
các đô thị tương ứng khoảng 8.000 tấn/ngày
(2,92 triệu tấn/năm) (Biểu đồ 2.2). Tuy nhiên,
cho đến thời điểm hiện tại, tổng lượng và chỉ
số phát sinh CTR đô thị của đô thị đặc biệt và
đô thị loại 1 hiện nay đã tăng lên rất nhiều.
Nguyên nhân của sự gia tăng này là do Thủ
đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành
chính thì lượng CTR đô thị phát sinh đã lên
đến 6.500 tấn/ngày (con số của năm 2007 là
2.600 tấn/ngày), bên cạnh đó, số đô thị loại
1 đã tăng lên 10 đô thị (trong khi năm 2007
là 4 đô thị loại 1).
Trong các vùng trọng điểm, vùng Đông
Nam Bộ (bao trùm cả KTTĐ phía Nam) là nơi
có lượng CTR đô thị nhiều nhất, tiếp đến là
vùng Đồng bằng sông Hồng (bao trùm cả vùng
KTTĐ Bắc Bộ), ít nhất là khu vực Tây Nguyên
(Biểu đồ 2.3).
Bảng 2.4. Lượng CTR sinh hoạt phát sinh
ở các đô thị Việt Nam năm 2007
Biểu đồ 2.2. Tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt tại các đô thị
Việt Nam năm 2007
Nguồn: Dự án “Xây dựng mô hình và triển khai thí điểm việc phân
loại, thu gom và xử lý rác thải sinh hoạt cho các khu đô thị mới”,
Cục BVMT, 2008
Nguồn: Kết quả khảo sát năm 2006, 2007
và Báo cáo của các Sở TN&MT
STT
Loại đô
thị
Chỉ số CTR
sinh hoạt
bình quân
đầu người (kg/
người/ngày)
Lượng CTR đô thị
phát sinh
Tấn/
ngày
Tấn/năm
1 Đặc
biệt
0,96 8.000 2.920.000
2 Loại 1 0,84 1.885 688.025
3 Loại 2 0,72 3.433 1.253.045
4 Loại 3 0,73 3.738 1.364.370
5 Loại 4 0,65 626 228.490
Tổng cộng: 17.682 6.453.930
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
18
Chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt tính bình
quân trên đầu người lớn nhất xảy ra ở các
đô thị phát triển du lịch như các thành phố:
Hạ Long, Hội An, Đà Lạt, Ninh Bình,.. Các
đô thị có chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt tính
bình quân đầu người thấp nhất là Tp. Đồng
Hới (Quảng Bình), Thị xã Gia Nghĩa, Thị xã
Kon Tum, Thị xã Cao Bằng (Bảng 2.5). Biểu đồ 2.3. Hiện trạng phát sinh CTR theo các vùng
kinh tế của nước ta các năm 2003, 2008
và dự báo cho năm 2015
Nguồn: Viện Quy hoạch Đô thị và Nông thôn,
Bộ Xây dựng 2010
Cấp đô
thị
Đô thị
CTR sinh hoạt bình
quân đầu người (kg/
người/ngày)
Cấp đô
thị
Đô thị
CTR sinh hoạt bình
quân đầu người (kg/
người/ngày)
Đô thị
loại đặc
biệt
Hà Nội 0,9 Đô thị
loại 3:
Thành
phố
Đồng Hới 0,31
Hồ Chí Minh 0,98 Đông Hà 0,6
Đô thị
loại 1:
Thành
phố
Hải Phòng 0,70 Hội An 1,08
Hạ Long 1,38 Bảo Lộc 0,9
Đà Nẵng 0,83 Kon Tum 0,35
Huế 0,67 Vĩnh Long 0,9
Nha Trang >0,6 Long An 0,7
Đà Lạt 1,06 Bạc Liêu 0,73
Quy Nhơn 0,9 Đô thị
loại 4:
Thị xã
Tuần Giáo (Điện Biên) 0,7
Buôn Ma Thuột 0,8 Sông Công
(Thái Nguyên)
>0,5
Đô thị
loại 2:
Thành
phố
Thái Nguyên >0,5 Từ Sơn (Bắc Ninh) >0,7
Việt Trì 1,1 Lâm Thao (Phú Thọ) 0,5
Ninh Bình 1,30 Cam Ranh
(Khánh Hòa)
>0,6
Mỹ Tho 0,72 Gia Nghĩa (Đắk Nông) 0,35
Đô thị
loại 3:
Thành
phố
Điện Biên Phủ 0,8 Đồng Xoài
(Bình Phước)
0,91
Cao Bằng 0,38 Gò Công (Tiền Giang) 0,73
Bắc Ninh >0,7 Ngã Bảy (Hậu Giang) >0,62
Thái Bình >0,6 Đô thị
loại 5
Thị trấn,
Thị tứ
Tủa Chùa (Điện Biên) 0,6
Phú Thọ 0,5 Tiền Hải (Thái Bình) >0,6
Bảng 2.5. Chỉ số phát sinh CTR sinh hoạt bình quân đầu người của các đô thị năm 2009
Nguồn: Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011; Báo cáo HTMT của các địa phương, 2010
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
19
Lượng CTR đô thị tăng mạnh ở các đô thị
lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Tp. Đà
Nẵng, nơi có tốc độ đô thị hóa, công nghiệp
hóa tăng nhanh. Còn một số đô thị nhỏ như
Thái Bình, Nam Định, Vĩnh Long, Tiền Giang,
Sóc Trăng,... tăng không nhiều do tốc độ đô thị
hóa không cao (Biểu đồ 2.4).
Tỷ lệ CTR gia tăng cao tập trung ở các
đô thị đang có xu hướng mở rộng, phát triển
mạnh cả về quy mô lẫn dân số và các KCN
như các đô thị tỉnh Phú Thọ (19,9%), Phủ
Lý (17,3%), Hưng Yên (12,3%), Rạch Giá
(12,7%), Cao Lãnh (12,5%)... Các đô thị khu
vực Tây Nguyên có tỷ lệ CTR gia tăng đồng
đều hàng năm với tỷ lệ ít hơn (khoảng 5%).
Khung 2.2. Phát sinh CTR đô thị năm 2010
tại Hà Nội
Khối lượng CTR trên địa bàn Thủ đô tăng
trung bình 15%/năm. Ước tính, tỷ lệ thu gom
chất thải sinh hoạt ở các quận nội thành đạt
khoảng 95%, các huyện ngoại thành chỉ đạt
60%; lượng CTR công nghiệp được thu gom
đạt 85 - 90% và CTNH mới chỉ đạt khoảng
60 - 70%. Việc xử lý, tiêu hủy, tái chế CTR
hiện chủ yếu vẫn dựa vào chôn lấp tại bãi rác
Nam Sơn (Sóc Sơn), Xuân Sơn (Sơn Tây), Kiêu
Kỵ (Gia Lâm), Núi Thoong (Chương Mỹ) và nhà
máy xử lý rác ở Cầu Diễn, nhà máy đốt rác ở
Sơn Tây.
Nguồn: Báo cáo “Quản lý CTR sinh hoạt tại Hà Nội -
Hiện trạng và giải pháp, URENCO Hà Nội, 13/5/2011
Khung 2.3. Phát sinh CTR đô thị năm 2009 tại Thái Nguyên
Khối lượng chất thải phát sinh trên địa bàn vào khoảng 354 tấn/ngày, trong đó thu gom khoảng
150 tấn/ngày. CTR phát sinh được thu gom và xử lý bằng công nghệ chôn lấp, đốt là chủ yếu.
Tỉnh Thái Nguyên hiện đang thực hiện các dự án: Xây dựng 3 Nhà máy xử lý, chế biến CTR tại
Thị xã Sông Công, huyện Phổ Yên và Đồng Hỷ; Hỗ trợ quản lý CTR sinh hoạt và chất thải y tế cấp
huyện; khắc phục ô nhiễm môi trường tại bãi rác Thịnh Đức,..
Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện đề án tổng thể bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái,
cảnh quan lưu vực sông Cầu - tỉnh Thái Nguyên, Sở TN&MT tỉnh Thái Nguyên, 2011
Ghi chú: Số liệu của Hà Nội năm 2010 là số liệu tính tại thời điểm tháng 3/2011
Biểu đồ 2.4. Lượng phát sinh CTR đô thị của một số tỉnh, thành phố qua các năm 2005 - 2010
Nguồn: Báo cáo HTMT, Sở TN&MT các địa phương, 2010
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
20
2.2.3. Thành phần chất thải rắn đô thị
Thành phần CTR sinh hoạt phụ thuộc vào mức sống ở một số đô thị. Mức sống, thu nhập khác
nhau giữa các đô thị đóng vai trò quyết định trong thành phần CTR sinh hoạt (Bảng 2.6).
Trong thành phần rác thải đưa đến các bãi chôn lấp, thành phần rác có thể sử dụng làm nguyên
liệu sản xuất phân hữu cơ rất cao từ 54 - 77,1%; tiếp theo là thành phần nhựa: 8 - 16%; thành phần
kim loại đến 2%; CTNH bị thải lẫn vào chất thải sinh hoạt nhỏ hơn 1%.
Bảng 2.6. CTR phát sinh tại một số tỉnh, thành phố năm 2010
Nguồn: TCMT, 2011
Loại đô thị,
Vùng
Đơn vị hành chính
Lượng CTR sinh
hoạt phát sinh
(tấn/ngày)
Đô thị loại
đặc biệt
Thủ đô Hà Nội 6,500
Tp. Hồ Chí Minh 7,081
Đô thị loại 1
Tp. Đà Nẵng 805
Tp. Huế và huyện lỵ 225
Bắc Trung Bộ
và Duyên hải
miền Trung
Quảng Nam 298
Quảng Ngãi 262
Bình Định 372
Phú Yên 142
Khánh Hoà 486
Ninh Thuận 164
Bình Thuận 594
Tây Nguyên
Kon Tum 166
Gia Lai 344
Đắk Lắk 246
Đắk Nông 69
Lâm Đồng 459
Loại đô thị,
Vùng
Đơn vị hành chính
Lượng CTR sinh
hoạt phát sinh
(tấn/ngày)
Đông Nam Bộ
Bình Phước 158
Tây Ninh 134
Bình Dương 378
Đồng Nai 773
Bà Rịa - Vũng Tàu 456
ĐBSCL
Long An 179
Tiền Giang 230
Bến Tre 135
Trà Vinh 124
Vĩnh Long 137
Đồng Tháp 209
An Giang 562
Kiên Giang 376
Cần Thơ 876
Hậu Giang 105
Sóc Trăng 252
Bạc Liêu 207
Cà Mau 233
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
21
TT
Loại
chất
thải
Hà
Nội
(Nam
Sơn)
Hà Nội
(Xuân
Sơn)
Hải
Phòng
(Tràng
Cát)
Hải
Phòng
(Đình
Vũ)
Huế (Thủy
Phương)
Đà
Nẵng
(Hòa
Khánh)
HCM (Đa
Phước)
HCM
(Phước
Hiệp)
Bắc
Ninh
(Thị
trấn Hồ)
1
Rác hữu
cơ
53,81 60,79 55,18 57,56 77,1 68,47 64,50 62,83 56,90
2 Giấy 6,53 5,38 4,54 5,42 1,92 5,07 8,17 6,05 3,73
3 Vải 5,82 1,76 4,57 5,12 2,89 1,55 3,88 2,09 1,07
4 Gỗ 2,51 6,63 4,93 3,70 0,59 2,79 4,59 4,18 -
5 Nhựa 13,57 8,35 14,34 11,28 12,47 11,36 12,42 15,96 9,65
6
Da và
cao su
0,15 0,22 1,05 1,90 0,28 0,23 0,44 0,93 0,20
7 Kim loại 0,87 0,25 0,47 0,25 0,40 1,45 0,36 0,59 -
8
Thủy
tinh
1,87 5,07 1,69 1,35 0,39 0,14 0,40 0,86 0,58
9 Sành sứ 0,39 1,26 1,27 0,44 0,79 0,79 0,24 1,27 -
10
Đất và
cát
6,29 5,44 3,08 2,96 1,70 6,75 1,39 2,28 27,85
11 Xỉ than 3,10 2,34 5,70 6,06 - 0,00 0,44 0,39 -
12
Nguy
hại
0,17 0,82 0,05 0,05 - 0,02 0,12 0,05 0,07
13 Bùn 4,34 1,63 2,29 2,75 1,46 1,35 2,92 1,89 -
14
Các loại
khác
0,58 0,05 1,46 1,14 - 0,03 0,14 0,04 -
Tổng 100 100 100 100 100 100 100 100
Bảng 2.7. Thành phần CTR sinh hoạt tại đầu vào của các bãi chôn lấp của một số địa phương:
Hà Nội, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Tp. HCM (1) và Bắc Ninh (2) năm 2009 - 2010
Nguồn: (1) Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011
(2) Báo cáo Dự án Tổng hợp, xây dựng các mô hình thu gom, xử lý rác thải cho các thị trấn, thị tứ, cấp huyện, cấp xã, 2006 - 2008
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
22
Túi nilon
Ở nước ta, các loại túi nilon được sử dụng
tràn lan trong các hoạt động sinh hoạt xã hội,
chủ yếu là loại túi siêu mỏng, khi thải bỏ rất
khó thu gom toàn bộ. Chất thải là túi nilon
chiếm khối lượng khá lớn trong thành phần
nhựa thải. Các túi nilon này nhỏ, mỏng, ít có
giá trị đối với người thu gom, tái chế nên tồn
tại khá nhiều trong các bãi chôn lấp và hầu
như không bị phân hủy. Các túi nilon nếu bị
đốt ở bãi rác hở sẽ gây ô nhiễm môi trường
không khí do phát thải các khí ô nhiễm như
HCl, VOC, Dioxin, Furan,... Nếu tính trung
bình, mỗi hộ gia đình ở đô thị thải khoảng 3
÷ 10 túi nilon các loại/ngày (ước trung bình
mỗi người thải ra 0,2 ÷ 1 túi nilon/người/
ngày, với dân số đô thị năm 2010 là 26,2
triệu người) thì lượng nhựa là túi nilon thải ra
mỗi ngày ở các đô thị là vào khoảng 10,48 ÷
52,4 tấn nhựa/ngày (ước tính 500 túi/kg).
Hiện chưa có số liệu thống kê chính thức
về lượng túi nilon được sử dụng ở Việt Nam
nhưng đã có một số khảo sát, ước tính về
số lượng này. Tuy có sự khác nhau về con
số nhưng ấn tượng chung là rất lớn và chưa
được quản lý ở hầu hết tất cả các khâu của
vòng đời túi nilon: từ sản xuất, lưu thông phân
phối, sử dụng cho đến thải bỏ, thu gom, xử lý.
Chất thải rắn xây dựng
Đi cùng quá trình đô thị hóa, tổng diện
tích nhà ở xây mới ở đô thị năm 2008 là
28,86 triệu m2 (Báo cáo HTMT ngành Xây
dựng, 2008). Mức độ đô thị hóa tăng cao, các
công trình xây dựng tăng nhanh ở các đô thị
lớn của cả nước và của vùng miền nên lượng
chất thải xây dựng cũng tăng rất nhanh,
chiếm khoảng 10 ÷ 15% CTR đô thị.
Trong năm 2009, ước tính mỗi ngày có
khoảng 1.000 tấn CTR xây dựng ở Thủ đô
Khung 2.4. Tình hình phát thải bao bì
nilon khó phân hủy hiện nay
Kết quả khảo sát của Cục Kiểm soát ô
nhiễm (TCMT) đối với 263 người sinh sống
tại 5 tỉnh/thành phố đại diện cho 3 vùng miền
cho thấy gần 50% số hộ sử dụng hơn 8 bao
bì nilon 1 ngày; 35,1% số hộ sử dụng trên 10
bao bì.
Tính trung bình mỗi hộ 223 bao bì một
tháng, tương đương với 1 kg bao bì một tháng,
trong đó đến 98,7 % là bao bì nilon khó phân
hủy.
Số liệu của Quỹ tái chế Tp. Hồ Chí Minh,
một ngày, thành phố tiêu thụ 5 - 9 triệu bao
nilon tương đương với 34 - 60 tấn/ngày.
Hệ thống Siêu thị Maxi Mart tiêu thụ 10
tấn túi nilon/tháng; Big C tiêu thụ 20 tấn/
tháng.
Chợ Đồng Xuân, mỗi hộ kinh doanh tiêu
thụ 200 - 300 túi/ngày để gói hàng.
Nguồn: Các biện pháp giảm phát thải bao bì nilon khó
phân hủy tại Việt Nam, Tạp chí Môi trường, 10/2011
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
23
Hà Nội và 2.000 tấn rác thải xây dựng tại
thành phố Hồ Chí Minh được thải bỏ và chôn
lấp. Đối với Hà Nội, năm 2010, diện tích
nhà ở xây mới là trên 2 triệu m2 (Niên giám
thống kê Tp. Hà Nội, 2010). Quá trình xây
dựng các công trình mới này sẽ làm phát sinh
một lượng không nhỏ CTR xây dựng từ quá
trình đào móng, xây dựng và hoàn thiện công
trình. Đối với các địa phương khác như Bắc
Giang, CTR xây dựng chiếm 12,8% lượng
CTR đô thị (năm 2008), Tiền Giang, CTR xây
dựng khoảng 40 tấn/ngày (năm 2010) (Báo
cáo của các Sở TN&MT, 2010).
Căn cứ Nghị quyết của Chính phủ, đến
năm 2015 sẽ cơ bản hoàn thành việc phá dỡ,
cải tạo các khu chung cư cũ nát tại các đô thị
lớn nên lượng rác thải xây dựng sẽ còn tăng
mạnh trong thời gian tới. Hà Nội sẽ phải phá
dỡ khoảng 23 khu chung cư 4 - 5 tầng với gần
1 triệu mét vuông sàn và thành phố Hồ Chí
Minh sẽ phải phá dỡ ít nhất 70 khu chung cư
xuống cấp nghiêm trọng (trong tổng số 155
khu chung cư cần cải tạo) để xây mới.
Chất thải rắn công nghiệp
Hiện nay còn tồn tại khá nhiều cơ sở công
nghiệp nằm trong khu vực đô thị, mặc dù
theo Quyết định 64/2003/QĐ-TTg nhiều cơ
sở ô nhiễm môi trường nghiêm trọng đã phải
di chuyển ra khỏi đô thị hoặc phải cải thiện
tình hình ô nhiễm môi trường của mình, song
do nhiều khó khăn, vướng mắc, nên còn khá
nhiều các cơ sở công nghiệp vừa và nhỏ còn
tồn tại trong đô thị như các nhà máy cơ khí,
dệt may, da giày, sản xuất bia, bánh kẹo,
nước ngọt,...
Các cơ sở công nghiệp nêu trên chính
là nguồn phát sinh CTR công nghiệp thông
thường và nguy hại. Vấn đề CTR công nghiệp
sẽ được trình bày kỹ trong Chương 4.
Bảng 2.8. Khối lượng CTR xây dựng năm 2009
của một số địa phương
Nguồn: Báo cáo khảo sát của Hiệp hội Môi trường đô thị
và KCN Việt Nam, năm 2009
Các đô thị
Khối lượng
CTR xây dựng
(tấn/ngày)
Tỷ lệ thu
gom (%)
Hà Nội 1.000 - 1.500 70
Tp. Hồ Chí Minh 2.000 - 2.500 75
Hải Phòng 400 - 450 40 - 45
Đà Nẵng 500 - 600 60
Các đô thị khác 100 - 200 20 - 30
Hoạt động tại nhà máy chế biến chất thải
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
24
CTNH trong sinh hoạt
Theo thống kê, CTNH còn bị thải lẫn
vào chất thải sinh hoạt mang đến bãi chôn
lấp là 0,02 ÷ 0,82%. CTNH trong sinh hoạt
thường là: pin, ắc-quy, đèn tuýp, nhiệt kế
thủy ngân vỡ, bao bì chất tẩy rửa, vỏ hộp
sơn, vec-ny, vỏ hộp thuốc nhuộm tóc, lọ sơn
móng tay, vỏ bao thuốc trừ sâu, chất thải y
tế lây nhiễm của các cơ sở khám chữa bệnh
nhỏ lẻ, các bơm kim tiêm của các đối tượng
nghiện chích ma túy,...
Pin thải và ắc-quy thải: theo điều tra của
đề tài rác thải pin-ắcquy ở Hà Nội năm 2004
cho thấy: Mức tiêu thu pin R6 Zn-C ở khu
vực nội thành là 5÷8 cái/người/năm, khu vực
ngoại thành là 3÷5 cái/người/năm. Ước tính
lượng pin thải R6 Zn-C ở Hà Nội năm 2004
là 200÷350 tấn/năm (con số tương ứng năm
2010 có thể đạt tới 750 tấn). Ắc-quy chạy xe
gắn máy chủ yếu là loại ắc-quy chì-axit, tuổi
thọ trung bình là 5 năm/cái với trọng lượng
2,5 kg/ắc-quy. Ước tính lượng ắc-quy xe máy
chì-axit vào năm 2004 ở Hà Nội là 580 tấn/
năm (con số tương ứng cho năm 2010 có thể
đạt trên 1.200 tấn).
Hiện tại, CTNH trong sinh hoạt vẫn chưa
được thu gom và xử lý riêng và bị thải lẫn với
CTR sinh hoạt để đưa đến bãi chôn lấp. Việc
chôn lấp và xử lý chung sẽ gây ra nhiều tác
hại cho những người tiếp xúc trực tiếp với
rác, ảnh hưởng tới quá trình phân hủy rác và
hòa tan các chất nguy hại vào nước rỉ rác. Do
vậy, các cơ quan quản lý cần có chính sách
và yêu cầu các URENCO có kế hoạch thu
gom riêng biệt CTNH trong CTR sinh hoạt.
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
25
Chất thải điện tử
Lượng chất thải điện tử và điện dân dụng thải ra từ các đô thị như tivi,
tủ lạnh, quạt điện, máy tính, đồ dân dụng,.. ngày càng tăng. Các chất thải
điện tử được thải ra sẽ được những người thu mua tiến hành một trong các
hoạt động sau: (1) Các thiết bị còn sửa chữa được sẽ được các cửa hàng sửa
chữa và thời gian hoạt động của các thiết bị này sẽ được kéo dài. Các chi
tiết hỏng sẽ được thải cùng với chất thải sinh hoạt; (2) Các đồ dùng đã hỏng
sẽ tháo rời thành các bộ phận bán cho cơ sở sửa chữa để tận dụng thiết bị
như tụ, bản mạch,... Các chất thải điện tử được tháo rời và tái chế thu hồi
kim loại (Cu, Pb, Al, Au, Ag,...), nhựa, dây đồng,... phần không bán được sẽ
thải cùng với rác sinh hoạt.
Kết quả điều tra nghiên cứu của JICA kết hợp với URENCO công bố năm
2007 về kiểm kê chất thải điện tử ở Việt Nam với các số liệu điều tra được
đưa ra dưới đây:
Năm Ti-vi
Máy tính
(PC)
Điện thoại
di động
Tủ lạnh
Điều hòa
không khí
Máy giặt
2002 190,445 62,771 80,912 112,402 17,778 184,140
2003 222,977 77,845 86,467 140,916 24,706 214,271
2004 261,542 90,447 103,414 162,262 29,853 249,094
2005 308,076 110,123 472,707 194,570 39,157 287,910
2006 364,684 131,536 505,268 230,856 49,782 327,649
Bảng 2.9. Chất thải điện tử phát sinh ở Việt Nam từ 2002 đến 2006
Nguồn: Kiểm kê chất thải điện tử ở Việt Nam, JICA 2007
Đơn vị: tấn/năm
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
26
Ngoài các đồ điện, điện tử dân dụng thải
ra, Việt Nam còn có 52 doanh nghiệp sản
xuất đồ điện và điện tử,... Các doanh nghiệp
này khi sản xuất các mạch in, đèn hình, lắp
ráp đồ điện tử như ti-vi, tủ lạnh, máy điều
hòa, máy giặt,... sẽ thải ra chất thải là các
chi tiết hỏng, bao bì,.. Với cách thức thải và
xử lý đồ điện tử như trên, đây sẽ là một vấn
nạn cho nước ta khi lượng chất thải điện tử
ngày càng tăng.
CTR đô thị có thể tái chế
Chất thải có thể tái chế trong CTR sinh
hoạt như giấy, nhựa, kim loại,... trước hết
được tách ra một phần tại các hộ gia đình để
bán cho người thu mua phế liệu, sau đó còn
được người nhặt rác thu lượm tiếp ở đường
phố và ngay tại các bãi rác. Hiện nay, ước
tính tổng lượng CTR được tái chế trong CTR
đô thị chiếm khoảng 8 ÷ 15%.
2.2.4. Ước tính lượng thải và thành phần
chất thải rắn đô thị đến năm 2025
Cơ sở của việc ước tính CTR đô thị là tốc
độ tăng dân số tự nhiên và tăng dân số cơ
học, tốc độ tăng GDP hàng năm.
Lượng CTR đô thị ngày càng tăng và thành
phần ngày càng phức tạp do số lượng dân cư
chuyển từ nông thôn ra thành thị ngày càng
tăng bởi quá trình đô thị hóa cao, do mức
sống ngày càng cao nên tiêu dùng ngày càng
đa dạng. Mức độ đô thị hóa tăng nhanh nên
số dân ở các đô thị càng ngày càng tăng, nhất
là các thành phố lớn có kinh tế phát triển
như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng,...
Ước tính chỉ số phát sinh CTR đô thị trung
bình ở Việt Nam trong những năm 2015,
2020, 2025 vào khoảng 1,2; 1,4; 1,6 kg/
người/ngày.
Năm 2015 2020 2025
Dân số đô thị
(triệu người) (2)
35 44 52
% dân số đô thị so với
cả nước
38 45 50
Chỉ số phát sinh CTR
đô thị
(kg/người/ngày)
1,2 1,4 1,6
Tổng lượng CTR đô thị
phát sinh (tấn/ngày)
42.000 61.600 83.200
Bảng 2.10. Ước tính lượng CTR đô thị phát sinh
đến năm 2025
Nguồn: TCMT tổng hợp, 2011
2Dân số đô thị lấy theo Quyết định số 445/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về Quy hoạch phát triển đô thị của Việt Nam
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
27
Từ kết quả dự báo ở Bảng 2.10 trên thì lượng
CTR sinh hoạt đô thị năm 2015 tăng gấp 1,6 lần,
năm 2020 tăng gấp 2,37 lần, năm 2025 gấp 3,2
lần so với năm 2010. Đây sẽ là áp lực lớn đối với
công tác quản lý CTR đô thị trong thời gian tới.
Thành phần CTR cũng thay đổi đáng kể do
mức độ tiêu dùng tăng cao, hàng hóa ngày càng
đa dạng. Chất lượng cuộc sống tăng cao kéo theo
CTNH cũng tăng, trở thành nguồn gây ô nhiễm
môi trường đáng kể. Bên cạnh đó, các loại bao
bì như giấy, nhựa, chai lọ thủy tinh sẽ không
ngừng gia tăng, do vậy, cần có chiến lược thu
gom, tái chế các chất thải bao bì, giảm sử dụng
túi nilon. Các đồ dùng như quần áo, giường tủ,
tivi, xe máy cũng được thay thế với tần suất cao
hơn. Mặc dù chất thải loại này thường được tái
sử dụng, song, lượng chất thải này cũng vẫn gia
tăng theo thời gian,...
Thành phần chất thải hữu cơ có trong CTR đô
thị của Việt Nam từ nay tới năm 2025 cũng vẫn
rất cao, khoảng > 50%. Do đó, Việt Nam cần phát
triển công nghệ xử lý làm phân compost từ phần
hữu cơ của CTR đô thị, chú trọng khâu phân loại
CTR tại nguồn để giảm tạp chất cho nguyên liệu
đầu vào nhà máy đồng thời giảm nhẹ khâu phân
loại trong dây chuyền công nghệ chế biến CTR.
2.3. PHÂN LOẠI VÀ THU GOM CHẤT THẢI
RẮN ĐÔ THỊ
Công tác thu gom CTR đô thị mặc dù ngày
càng được chính quyền các cấp quan tâm,
nhưng do lượng CTR đô thị ngày càng tăng, năng
lực thu gom còn hạn chế cả về thiết bị lẫn nhân
lực nên tỷ lệ thu gom vẫn chưa đạt yêu cầu. Mặt
khác, do nhận thức của người dân còn chưa cao
nên lượng rác bị vứt bừa bãi ra môi trường còn
nhiều, việc thu gom có phân loại tại nguồn vẫn
chưa được áp dụng rộng rãi do thiếu đầu tư cho
hạ tầng cơ sở cũng như thiết bị, nhân lực và
nâng cao nhận thức.
Khung 2.5. Các dự án, chương trình
phân loại chất thải tại nguồn ở Hà Nội
và Tp. Hồ Chí Minh
Hà Nội: Dự án 3R-HN do JICA tài trợ đã
triển khai thực hiện phân loại chất thải tại
nguồn trên địa bàn thành phố tại phường
Phan Chu Trinh, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội
(kể từ tháng 7/2007); phường Thành Công
và phường Láng Hạ (năm 2008). Rác hữu cơ
được chuyển đến nhà máy phân Cầu Diễn
để sản xuất phân Compost, rác vô cơ được
chuyển đến chôn lấp tại bãi rác Nam Sơn.
Tổng cộng có khoảng 18.000 hộ gia đình
đã tham gia vào dự án 3R tại các phường
thí điểm nêu trên. Tại địa bàn thí điểm,
lượng rác thải sinh hoạt từ các hộ gia đình
đã giảm bình quân từ 31,2 - 45,1% tùy
từng phường, đạt mục tiêu giảm thiểu 30%
lượng chất thải phải mang đi chôn lấp mà
dự án đã đặt ra. Dự án đã thu được khoảng
25.000 tấn rác thải hữu cơ và đã chế biến
được khoảng 10.000 tấn phân hữu cơ từ số
rác này.
Tp. Hồ Chí Minh: Từ năm 2004 thành
phố đã thực hiện thí điểm chương trình
phân loại CTR tại nguồn ở 10 quận là 1, 3,
5, 6, 7, 8, 9, 10, quận Bình Thạnh, quận
Phú Nhuận và huyện Củ Chi, chợ đầu mối
Bình Điền... Sau khi phân loại, rác được thu
gom vận chuyển đến Khu Liên hợp xử lý rác
Đa Phước, huyện Bình Chánh. Rác hữu cơ
để sản xuất phân compost, rác vô cơ được
xử lý bằng phương pháp chôn lấp.
Nguồn: TCMT tổng hợp
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
28
2.3.1. Phân loại tại nguồn
3R (viết tắt của 3 từ Reduce - Giảm thiểu,
Reuse - Tái sử dụng, Recycle - Tái chế), với
nền tảng cơ bản là hoạt động phân loại tại
nguồn. Phân loại chất thải tại nguồn sẽ giúp
giảm thiểu lượng rác thải chôn lấp: rác thải
hữu cơ được tái chế thành sản phẩm có ích,
các chất thải như nhựa, giấy, kim loại được
tái chế thành nguyên liệu đầu vào hoặc sản
phẩm tái chế. Đây là cơ sở để hình thành
và phát triển thị trường tái sử dụng, tái chế
chất thải.
Các thành phố đã áp dụng thử nghiệm
phân loại rác tại nguồn, điển hình như Tp.
HCM, Hà Nội, Đà Nẵng,... đã có những kết
quả nhất định. Tuy nhiên, để triển khai nhân
rộng hoạt động này cần phát triển đồng bộ
cơ sở hạ tầng như: các thiết bị thu gom phân
loại, địa điểm tập kết và trung chuyển, cơ sở
hạ tầng cho công tác tái chế, tái sử dụng như
nhà máy làm phân hữu cơ, các cơ sở tái chế
chất thải, nhân lực, các chương trình nhằm
nâng cao ý thức tham gia của người dân.
Hiện nay, chương trình phân loại rác
thải tại nguồn vẫn chưa được áp dụng, triển
khai rộng rãi vì nhiều lý do như chưa đủ
nguồn lực tài chính để mua sắm trang thiết
bị, đầu tư cơ sở hạ tầng cũng như nguồn
nhân lực thực hiện, đặc biệt là thói quen
của người dân. Tại một số địa phương triển
khai thí điểm mô hình phân loại CTR tại
nguồn ở giai đoạn đầu, do cơ sở hạ tầng
khi tiến hành thí điểm dự án là không đồng
bộ và do hạn chế, thiếu đầu tư cho công
tác thu gom vận chuyển và xử lý CTR theo
từng loại nên sau khi người dân tiến hành
phân loại tại nguồn, rác được công nhân
URENCO thu gom và đổ lẫn lộn vào xe vận
chuyển để mang đến bãi chôn lấp chung,
do vậy, mục tiêu của chương trình phân loại
Khung 2.6. Vướng mắc trong phân loại CTR
tại nguồn và định hướng thực hiện
tại Tp. Hồ Chí Minh
Năm 2006, Tp.HCM đã triển khai thí điểm
chương trình phân loại CTR tại nguồn trên 9
phường của địa bàn quận 6. Kết quả cho thấy có
hơn 80% người dân quận 6 tham gia thực hiện dự
án, trong đó có hơn 50% hộ dân thực hiện phân
loại đúng. Nhưng cho đến nay, dự án phân loại
CTR tại nguồn trên địa bàn quận 6 đã tạm ngừng
thực hiện vì dự án chưa được cấp vốn.
Quy định về phân loại CTR tại nguồn cho 24
quận, huyện đang vướng về nguồn vốn đầu tư
(chưa có nguồn vốn cụ thể) và qui định xử phạt
vi phạm khi triển khai thực hiện phân loại.
Để từng bước triển khai chương trình phân
loại CTR tại nguồn trên địa bàn thành phố, bước
đầu sẽ ưu tiên triển khai thực hiện tại các chợ đầu
mối, Trung tâm thương mại, siêu thị, nhà hàng,
khách sạn,...
Bên cạnh đó, Tp. HCM cũng đang khẩn trương
xây dựng qui định về phân loại CTR tại nguồn
trên địa bàn thành phố để làm cơ sở triển khai
thực hiện đồng bộ việc phân loại CTR tại nguồn
trên địa bàn vào năm 2015.
Nguồn: Hiện trạng quản lý CTR tại
Tp. Hồ Chí Minh, 2011
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
29
rác tại nguồn bị hoài nghi. Do chưa thực sự
quen với việc phân loại CTR tại nguồn nên
tỷ lệ người dân tự nguyện tham gia phân
loại rác chỉ khoảng 70%. Kinh phí cho công
tác tuyên truyền vận động ban đầu thì có
nhưng đến khi kết thúc dự án thì không còn
để duy trì tuyên truyền. Các URENCO ở các
nơi có dự án thí điểm cũng không lập quy
hoạch tiếp tục duy trì và phát triển dự án,
nên các dự án chỉ dừng ở mô hình thí điểm.
2.3.2. Hình thức thu gom
Việc phân loại CTR tại nguồn vẫn chưa
được triển khai rộng rãi, vì vậy ở hầu hết các
đô thị nước ta, việc thu gom rác chưa phân
loại vẫn là chủ yếu. Công tác thu gom thông
thường sử dụng 2 hình thức là thu gom sơ
cấp (người dân tự thu gom vào các thùng/túi
chứa sau đó được công nhân thu gom vào các
thùng rác đẩy tay cỡ nhỏ) và thu gom thứ cấp
(rác các hộ gia đình được công nhân thu gom
vào các xe đẩy tay sau đó chuyển đến các xe
ép rác chuyên dụng và chuyển đến khu xử
lý hoặc tại các chợ/khu dân cư có đặt con-
tainer chứa rác, công ty môi trường đô thị có
xe chuyên dụng chở container đến khu xử lý).
Tp. Hồ Chí Minh có 2 trạm trung chuyển
lớn: trạm trung chuyển Quang Trung tiếp
nhận 1.084 tấn/ngày, trạm trung chuyển
Tống Văn Trân tiếp nhận 820 tấn/ngày. Rác
từ 2 trạm trung chuyển này được các xe lớn
chuyển tới khu liên hiệp xử lý CTR Đa Phước,
Phước Hiệp và Nhà máy Xử lý rác Vietstar.
Một trong những bức xúc của các đô thị
hiện nay trong công tác thu gom CTR là thiếu
các địa điểm trung chuyển rác. Hà Nội chưa
có trạm trung chuyển rác trong khi khoảng
cách từ Hà Nội tới khu xử lý rác Nam Sơn
khoảng 50km. Các thành phố khác cũng
chưa có trạm trung chuyển rác đúng nghĩa
như ở Tp. Hồ Chí Minh. Theo đánh giá hiện
Khung 2.7. Bức xúc của người dân sinh sống
quanh các bãi rác và các địa điểm trung chuyển rác
Tp. Hồ Chí Minh: điểm trung chuyển trên đường
Lê Đức Thọ (phường 14, quận Gò Vấp) do doanh
nghiệp tư nhân Dương Duy đầu tư rộng khoảng
1.000 m², bên trong chôn âm hai bồn thép có dung
tích khoảng 60m3 để chứa bùn từ xe nhỏ (khoảng 3
- 6 m3/xe) các nơi đổ về, sau đó sẽ bơm bùn qua các
xe lớn để chuyển về Nhà máy Xử lý bùn hầm cầu
Hòa Bình (Đa Phước, huyện Bình Chánh). Cộng
đồng xung quanh tỏ ra bức xúc do mùi hôi phát tán
từ điểm trung chuyển do cứ vào buổi trưa và tối,
mùi hôi bùn hầm cầu bay vào nhà khiến người dân
khó chịu. Theo ông Lê Trung Tuấn Anh, Phó Phòng
Quản lý CTR, Sở TN&MT thì về cảm quan, điểm
trung chuyển hoạt động khá tốt và bảo đảm vệ sinh,
mùi hôi trong khu vực do điểm trung chuyển phát
tán không nhiều mà chủ yếu là mùi hôi từ con kênh
trước mặt (kênh Bến Thượng) bị ô nhiễm và cơ sở
sản xuất nằm bên cạnh. Tuy nhiên, kiến nghị của
người dân về việc đóng cửa hoặc di dời điểm trung
chuyển này cần phải xem xét lại.
Tp. Đà Nẵng: trạm trung chuyển trên đường
Ngô Gia Tự phục vụ quá trình thu gom rác cho hai
phường Hải Châu 1 và Hải Châu 2 và hai chợ lớn
là chợ Cồn và chợ Hàn. Rác thải vận chuyển cả
ngày lẫn đêm, luôn bốc mùi hôi thối dữ dội, nhất
là những ngày nắng nóng. Trạm được trang bị hệ
thống hút bụi và khử mùi bằng than hoạt tính, đồng
thời phun chế phẩm sinh học chống mùi vào rác
thải. Nước thải tại trạm đã có mương dẫn và hố ga
để chảy vào cống, không có hiện tượng nước chảy
ra ngoài; Nước vệ sinh trước cổng trạm và vỉa hè thì
tràn ra đường, Công ty khắc phục bằng cách không
xịt nước mà chỉ quét dọn. Nhiều cử tri nêu ý kiến
nên di dời các trạm trung chuyển ra khỏi khu dân
cư để đảm bảo mỹ quan và không gây ô nhiễm. Tuy
nhiên, việc di dời đang gặp nhiều khó khăn, bởi
nếu di dời trạm trung chuyển Ngô Gia Tự thì phải
xây dựng một trạm khác có công suất tương đương
mới đảm bảo đưa rác của các khu vực trên ra khỏi
khu dân cư và địa điểm trung chuyển rác mới cũng
chưa tìm được nơi hợp lý.
Nguồn: Báo Người Lao động, 01/2011; Báo điện tử Dân Trí,
09/2010;
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
30
nay, hầu hết các đô thị mới chỉ có các điểm
tập kết rác, tuy vậy, các điểm tập kết này
cũng chưa đảm bảo các tiêu chuẩn về vệ sinh
môi trường.
Công tác xã hội hóa việc thu gom và vận
chuyển chất thải đang được thực hiện rộng
rãi ở nhiều nơi. Chỉ ở các đô thị lớn cấp
thành phố mới có URENCO đảm nhận việc
thu gom, vận chuyển và xử lý CTR đô thị. Tuy
nhiên vẫn có sự tham gia của các công ty
cổ phần hoặc công ty tư nhân. Trên địa bàn
Thành phố Hà Nội, ngoài URENCO là đơn vị
đảm trách chính còn có khoảng gần 30 đơn
vị tư nhân và tập thể khác tham gia thực hiện
thu gom, vận chuyển chất thải sinh hoạt.
Tại các đô thị nhỏ cấp thị trấn, phần
lớn là các hợp tác xã, tổ đội thu gom, tổ
chức tư nhân đảm nhiệm việc thu gom vận
chuyển với chi phí thu gom thỏa thuận với
người dân đồng thời có sự chỉ đạo của chính
quyền địa phương.
2.3.3. Tỷ lệ thu gom
Công tác thu gom CTR đô thị trong những
năm gần đây đã được quan tâm hơn. Các
URENCO ở nhiều địa phương đã quan tâm
trang bị thêm phương tiện và nhân lực cho
khâu thu gom. Tuy nhiên, việc đầu tư chỉ
được thực hiện với các thành phố lớn như Hà
Nội, Tp. Hồ Chí Minh.
Tỷ lệ thu gom trung bình ở các đô thị từ
72% năm 2004 tăng lên khoảng 80 - 82%
năm 2008 và đạt khoảng 83 - 85% cho năm
2010. Mặc dù tỷ lệ thu gom có tăng nhưng
vẫn còn khoảng 15 ÷ 17% CTR đô thị bị thải
ra môi trường vứt vào bãi đất, hố đất, ao hồ,
hoặc đốt lộ thiên gây ô nhiễm môi trường.
Khung 2.8. Xã hội hóa việc thu gom chất thải
rắn sinh hoạt tại Tp. Hồ Chí Minh
Tp. Hồ Chí Minh đang tồn tại song song 2 hệ
thống tổ chức thu gom rác sinh hoạt: hệ thống thu
gom công lập và hệ thống thu gom dân lập.
Hệ thống công lập gồm 22 Công ty Dịch vụ
công ích của các quận. Hệ thống này đảm nhận
toàn bộ việc quét dọn vệ sinh đường phố, thu gom
rác chợ, rác cơ quan và các công trình công cộng,
đồng thời thực hiện dịch vụ thu gom rác sinh hoạt
cho khoảng 30% số hộ dân trên địa bàn, sau đó
đưa về trạm trung chuyển hoặc đưa thẳng tới bãi
rác.
Hệ thống thu gom dân lập bao gồm các cá
nhân thu gom rác, các nghiệp đoàn thu gom và
các Hợp tác xã vệ sinh môi trường. Lực lượng thu
gom dân lập chủ yếu thu gom rác hộ dân (thông
qua hình thức thỏa thuận hợp đồng dưới sự quản
lý của UBND Phường), trên 70% hộ dân trên địa
bàn và các công ty gia đình.
Nguồn: Điều tra chỉ số hài lòng về dịch vụ thu gom,
Cục Thống kê và Viện Nghiên cứu Phát triển, 2008
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
31
Theo báo cáo của các Sở TN&MT năm
2010 (Bảng 2.12), một số đô thị đặc biệt, đô
thị loại 1, có tỷ lệ thu gom đạt mức cao hơn
như Hà Nội đạt khoảng 90 - 95% ở 4 quận
nội thành cũ, Tp. Hồ Chí Minh đạt 90 - 97%,
Huế, Đà Nẵng, Hải Phòng đều đạt khoảng
90% ở khu vực nội thành, các đô thị loại 2
cũng có cải thiện đáng kể, đa số các đô thị
loại 2 và 3 đều đạt tỷ lệ thu gom ở khu vực
nội thành đạt trên 80%. Ở các đô thị loại 4 và
5 thì công tác thu gom được cải thiện không
nhiều do nguồn lực vẫn hạn chế, thu gom
phần lớn do các hợp tác xã hoặc tư nhân thực
hiện nên thiếu vốn đầu tư trang thiết bị thu
gom. Mặt khác, ý thức người dân ở các đô thị
này cũng chưa cao nên có gia đình không sử
dụng dịch vụ thu gom rác.
Khung 2.9. Thu gom CTR sinh hoạt tại Tp. Đà Nẵng
Mỗi ngày Công ty TNHH MTV Môi trường Đô thị Đà Nẵng thu gom được 630 tấn CTR các loại. Tỉ
lệ thu gom ước tính đạt từ 90% - 92% lượng rác phát sinh trên địa bàn thành phố. Trong tỷ trọng các
loại chất thải thu gom được trên địa bàn thì chất thải sinh hoạt chiếm tỷ trọng trên 80%, còn lại là các
loại chất thải công nghiệp, chất thải y tế không nguy hại và nguy hại.
Tại 6 quận của thành phố, công tác thu gom rác thải được thực hiện hàng ngày, tỷ lệ thu gom rác
tại khu vực nội thành đạt trên 97% khối lượng rác phát sinh trên địa bàn. Riêng huyện Hoà Vang, công
tác thu gom CTR mới được thực hiện tại các khu dân cư nằm ven quốc lộ, tỉnh lộ và các chợ của xã.
Nguồn: Hiện trạng quản lý CTR trên địa bàn Tp. Đà Nẵng, Cục Kiểm soát ô nhiễm, TCMT, 2011
Tỷ lệ thu gom (%)
2006 2007 2008 2009 2010 2011
Tp. Đà Nẵng - - - - 90 -
Tp. Huế 90 ~ 91 92 94 95 ~ 96
Bảng 2.11. Tỷ lệ thu gom CTR đô thị của Tp. Đà Nẵng và Tp. Huế
Nguồn: Sở TN&MT Tp. Đà Nẵng và Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế, 2011
Khung 2.10. Thu gom chất thải tại Hà Nội
Năm 2010, khối lượng chất thải phát sinh
trên địa bàn Hà Nội vào khoảng 6.200 tấn/ngày.
Ước tính, tỷ lệ thu gom chất thải sinh hoạt ở các
quận nội thành đạt khoảng 95%, các huyện
ngoại thành chỉ đạt 60%; lượng CTR công nghiệp
được thu gom đạt 85 - 90% và CTNH mới chỉ đạt
khoảng 60 - 70%.
Nguồn: URENCO Hà Nội , 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
32
Đô thị Tỷ lệ thu gom (%) Đô thị Tỷ lệ thu gom (%)
Đô thị
loại đặc
biệt
Hà Nội 90 ÷ 95 (4 quận
nội thành lõi)
83,2 (10 quận)
Đô thị
loại 3:
Thành
phố
Bắc Giang > 80
Hồ Chí Minh 90 ÷ 97 Thái Bình 90
Đô thị
loại 1:
Thành
phố
Hải Phòng 80 ÷ 90 Phú Thọ 80
Đà Nẵng 90 Bảo Lộc 70
Huế 90 Vĩnh Long 75
Nha Trang 90 Bạc Liêu 52
Quy Nhơn 60,8
Đô thị
loại 4:
Thị xã
Sông Công - Thái
Nguyên
> 80
Buôn Ma Thuột 70 Từ Sơn - Bắc Ninh 51
Đô thị
loại 2:
Thành
phố
Thái Nguyên > 80 Lâm Thao - Phú Thọ 80
Việt Trì 95 Sầm Sơn - Thanh Hóa 90
Nam Định 78 Cam Ranh-Khánh Hòa 90
Thanh Hóa 84,4 Thủ Dầu Một -
Bình Dương
84
Cà Mau 80 Đồng Xoài-Bình Phước 70
Mỹ Tho 91 Gò Công - Tiền Giang 60
Long Xuyên 69 Ngã Bảy - Hậu Giang 60
Đô thị
loại 3:
Thành
phố
Điện Biên Phủ 80 Đô thị
loại
5 Thị
trấn,
Thị tứ
Tủa Chùa - Điện Biên 75
Bắc Ninh 70 Tiền Hải - Thái Bình 74
Bảng 2.12. Tỷ lệ thu gom CTR sinh hoạt của một số đô thị năm 2009
Nguồn: Báo cáo Nghiên cứu quản lý CTR tại Việt Nam, JICA, 3/2011;
Báo cáo hiện trạng môi trường của các địa phương, 2010
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
33
2.4. TÁI SỬ DỤNG VÀ TÁI CHẾ
CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
CTR đô thị có thể tái sử dụng, tái chế thành
các sản phẩm như: các chất thải hữu cơ chế
biến làm phân hữu cơ, làm thức ăn chăn
nuôi; tái chế giấy, kim loại, nhựa, thủy tinh,...
Tỷ lệ tái chế các chất thải làm phân hữu cơ
và tái chế giấy, nhựa, thủy tinh, kim loại như
sắt, đồng, chì, nhôm,... chỉ đạt khoảng 8 ÷
12% CTR đô thị thu gom được.
Xử lý phần hữu cơ của rác thải thành phân
hữu cơ hiện là một phương pháp đang sử
dụng ở Việt Nam. Đối với công nghệ nội địa
xử lý CTR sinh hoạt, đến nay Bộ Xây dựng
đã cấp giấy chứng nhận cho bốn công nghệ:
(1) công nghệ chế biến CTR Seraphin của
Công ty Môi trường Xanh; (2) công nghệ chế
biến CTR ANSINH - ASC của Công ty Tâm
Sinh Nghĩa; (3) công nghệ ép CTR thành
viên nhiên liệu của Công ty Thủy lực máy và
(4) công nghệ xử lý rác thải sinh hoạt bằng
phương pháp đốt của Trung tâm Nghiên cứu
ứng dụng Công nghệ mới và Môi trường.
Công nghệ ép CTR của Công ty Thủy lực máy
đã được áp dụng thử nghiệm tại thị xã Sông
Công (Thái Nguyên). Công nghệ Seraphin,
AST có khả năng xử lý CTR đô thị cho ra các
sản phẩm như: phân hữu cơ, nhựa tái chế,
thanh nhiên liệu,... Lượng CTR còn lại sau
xử lý của công nghệ này chỉ chiếm khoảng
15% lượng chất thải đầu vào. Công nghệ
SERAPHIN, ANSINH-ASC và MBT-CD.08
đã được triển khai áp dụng tại Nhà máy Xử lý
rác Đông Vinh (Nghệ An), Nhà máy Xử lý rác
Sơn Tây (Hà Nội); Nhà máy Xử lý rác Thủy
Phương (Thừa Thiên - Huế); Nhà máy Xử lý
rác Đồng Văn (Hà Nam). Tuy nhiên, Nhà
máy xử lý rác Sơn Tây (Hà Nội) triển khai
công nghệ SERAPHIN đã ngừng hoạt động
và thay bằng Nhà máy đốt rác năng lượng
thấp của Công ty Môi trường Thăng Long với
công suất 300 tấn/ngày.
Khung 2.11. Hoạt động tái chế CTR ở
Nhà máy xử lý rác Thủy Phương,
Thừa Thiên - Huế
Nhà máy xử lý rác Thủy Phương có diện
tích 4 ha đã đi vào hoạt động từ tháng 3 năm
2005. Năm 2007, Công ty cổ phần Tâm Sinh
Nghĩa đã đầu tư, xây dựng cải tạo nhà máy
theo công nghệ hiện đại, chu trình xử lý rác
khép kín đến đầu ra sản phẩm với công suất
xử lý 200 tấn rác mỗi ngày. Hoạt động của
nhà máy sẽ làm giảm đáng kể lượng rác thải
phải chôn lấp tại Bãi rác Thủy Phương.
Sản phẩm của nhà máy gồm có: mùn hữu
cơ, phân hữu cơ vi sinh, nhựa tái chế dùng
để làm tấm lót, ống nhựa, xô chậu,...
Chỉ dưới 10% rác thải không sử dụng
được như thủy tinh, gạch đá mới phải đem
chôn lấp tại bãi rác Thủy Phương.
Nguồn: Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế , 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
34
Mặc dù chất thải rắn chở đến các nhà
máy làm phân hữu cơ có thành phần hữu cơ
từ 60 ÷ 65% nhưng do CTR đô thị chưa được
phân loại tại nguồn nên lượng CTR thải ra sau
xử lý từ các nhà máy này phải mang đi chôn
lấp vào khoảng 35 ÷ 40% lượng chất thải đầu
vào. Thống kê sơ bộ cho thấy, không quá 10
nhà máy làm phân hữu cơ đang hoạt động có
công suất khoảng 200 tấn/ngày chất thải đầu
vào và chỉ có 1 nhà máy công suất 600 tấn/
ngày tại Tp. Hồ Chí Minh. Nếu hoạt động đủ
công suất thì số lượng rác thải được xử lý làm
phân hữu cơ < 2.500 tấn/ngày, chiếm khoảng
< 10% CTR đô thị phát sinh. Thực tế, các
nhà máy này đều chưa hoạt động đủ công
suất thiết kế do tiêu thụ phân hữu cơ còn gặp
nhiều khó khăn.
Bên cạnh đó, vấn đề tồn tại của công nghệ
này là ô nhiễm môi trường thứ cấp do đốt các
viên nhiên liệu sinh ra. Công nghệ Seraphin
và công nghệ ANSINH - ASC tương tự như
nhau, đều là chế biến CTR hữu cơ thành phân
vi sinh, tái chế các thành phần còn lại: kim
loại, thủy tinh, nilon... Việc nghiên cứu nhân
rộng các mô hình này trong điều kiện Việt
Nam cần có các đánh giá rút kinh nghiệm từ
các dự án đã triển khai trong thời gian qua.
Tái chế các chất thải như giấy thải, nhựa
thải, kim loại thải ở Việt Nam hầu hết do tư
nhân và các làng nghề đảm nhiệm. Tuy là
các hoạt động tự phát nhưng hoạt động này
rất phát triển, mang lại lợi ích kinh tế cho
người dân. Khoảng 90% chất thải như giấy,
nhựa, kim loại được tạo thành sản phẩm tái
chế, còn khoảng 10% thành chất thải sau
tái chế.
Công nghệ tái chế ở các làng nghề phần
lớn là thủ công, lạc hậu nên gây ô nhiễm môi
trường nặng nề, bên cạnh đó, các chất thải
làng nghề hầu hết đều không được xử lý mà
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
35
đều thải thẳng ra môi trường cùng với chất thải sinh hoạt và đưa đến bãi
chôn lấp.
Các làng nghề tái chế chỉ chiếm 90/1.450 làng nghề (Đề tài KC 08.09,
2004 - 2005). Còn nhiều cơ sở tái chế không nằm trong làng nghề mà nằm
ngay trong các đô thị. Tp. Hồ Chí Minh có 302 cơ sở tái chế nằm trong địa
bàn thành phố, chủ yếu ở Quận 11, trong đó 67 cơ sở tái chế nhựa, 15 cơ
sở tái chế thủy tinh, 9 cơ sở tái chế kim loại, 7 cơ sở tái chế giấy và 2 cơ
sở tái chế cao su (Sở TN&MT Tp. Hồ Chí Minh, 2006).
Theo ước tính của JICA, lượng CTR là giấy, kim loại, nhựa được tái chế
chiếm khoảng 8,2% lượng rác thu gom được. Tại thời điểm năm 2009, Hà
Nội là 348 tấn/ngày, Tp. Hồ Chí Minh 554 tấn/ngày, Hải Phòng 86,5 tấn/
ngày, Đà Nẵng 56,7 tấn/ngày, Huế 16,9 tấn/ngày (JICA, 2011).
Hình 2.1. Các chất thải đô thị có thể tái sử dụng, tái chế
Nguồn: TCMT tổng hợp
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
36
2.5. XỬ LÝ VÀ TIÊU HỦY CHẤT THẢI RẮN ĐÔ THỊ
Tỷ lệ CTR được chôn lấp hiện chiếm khoảng 76 - 82% lượng CTR thu gom
được (trong đó, khoảng 50% được chôn lấp hợp vệ sinh và 50% chôn lấp
không hợp vệ sinh). Thống kê trên toàn quốc có 98 bãi chôn lấp chất thải tập
trung ở các thành phố lớn đang vận hành nhưng chỉ có 16 bãi được coi là hợp
vệ sinh. Ở phần lớn các bãi chôn lấp, việc chôn lấp rác được thực hiện hết
sức sơ sài. Như vậy, cùng với lượng CTR được tái chế, hiện ước tính có khoảng
60% CTR đô thị đã được xử lý bằng phương pháp chôn lấp hợp vệ sinh và
tái chế trong các nhà máy xử lý CTR để tạo ra phân compost, tái chế nhựa,...
Đốt chất thải sinh hoạt đô thị chủ yếu ở các bãi rác không hợp vệ sinh:
sau khi rác thu gom được đổ thải ra bãi rác phun chế phẩm EM để khử
mùi và định kỳ phun vôi bột để khử trùng, rác để khô rồi đổ dầu vào đốt.
Tuy nhiên, vào mùa mưa, rác bị ướt không đốt được hoặc bị đốt không
triệt để. Ước tính khoảng 40 ÷ 50% lượng rác đưa vào bãi chôn lấp không
Hình 2.2. Các công nghệ hiện đang được sử dụng để xử lý, tiêu hủy
CTR đô thị ở Việt Nam
Nguồn: TCMT tổng hợp
Khung 2.12. Bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh và bãi chôn lấp rác
không hợp vệ sinh
Các bãi chôn lấp hợp vệ sinh: chất thải được san lấp, phun chế phẩm EM
và vôi để khử mùi và khử trùng rồi được chôn từng lớp theo thiết kế. Khi ô chôn
lấp đầy sẽ được phủ bằng lớp phủ trên cùng. Ô chôn lấp có lớp lót cạnh, lót
đáy để nước rác không thấm ra môi trường. Nước thải, khí thải được thu gom
xử lý trước khi thải ra môi trường.
Các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh: các ô chôn lấp không có lớp lót đáy,
không có hệ thống thu gom và xử lý nước rác. Rác được chở đến được đổ vào ô
chôn lấp, phun chế phẩm EM và vôi để khử mùi và khử trùng, để khô rồi đổ dầu
đốt ngay tại bãi rác để giảm thể tích, vào mùa mưa nước ngấm qua rác tạo ra
nước rác chảy tràn ra môi trường gây ô nhiễm.
Nguồn: TCMT tổng hợp
Chương 2:
Chất thải rắn ở đô thị
37
hợp vệ sinh được đốt lộ thiên. Công nghệ
đốt CTR sinh hoạt với hệ thống thiết bị đốt
được thiết kế bài bản mới được áp dụng tại
Nhà máy đốt rác ở Sơn Tây (Hà Nội). Hà
Nội và thành phố Hồ Chí Minh đang có kế
hoạch nhập dây chuyền công nghệ đốt chất
thải có tận dụng nhiệt để phát điện trong
thời gian tới.
Chất thải xây dựng chiếm khoảng 10 ÷
15% lượng CTR đô thị phát sinh. Về nguyên
lý chất thải xây dựng có thể tận dụng để lấp
chỗ trũng, rải đường nhưng do không có sự
phối kết hợp giữa các Sở GTVT, Sở Xây dựng
và URENCO ở các tỉnh, thành phố, hơn nữa
người dân thường thuê tư nhân thu gom CTR
xây dựng nên chất thải xây dựng cũng bị đổ
bừa bãi ra môi trường.
Chất thải điện và điện tử phát sinh ở khu
vực đô thị ngoài những phần được tái sử
dụng và tái chế thì ở khu vực phía Bắc, chất
thải loại này hiện đã được URENCO Hà Nội
thu gom và xử lý tại Công ty Bắc Sơn - Xử lý
CTNH tại khu liên hợp Nam Sơn, Sóc Sơn.
Báo cáo của Bộ TN&MT đánh giá tình
hình thực hiện Quyết định 64/2003/QĐ-TTg
của Thủ tướng Chính phủ (năm 2011) cho
thấy, trên toàn quốc còn đến 27/52 bãi chôn
lấp vẫn đang triển khai xử lý ô nhiễm triệt
để; chỉ có 25/52 bãi chôn lấp không còn gây
ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Rất nhiều
trong số các bãi chôn lấp đang triển khai xử
lý ô nhiễm triệt để là các điểm ô nhiễm tồn
lưu. Do đó, bãi chôn lấp đã đóng cửa cần có
sự quan tâm và các biện pháp quyết liệt để
xử lý, khắc phục ô nhiễm.
Tổng hợp các kết quả điều tra nghiên cứu
và báo cáo của các địa phương cho thấy rất
nhiều tỉnh thành phố chưa có bãi chôn lấp
hợp vệ sinh và nhà máy xử lý rác, việc xử lý
và tiêu hủy rác ở đây chủ yếu là chôn lấp và
Khung 2.13. Đặc trưng ô nhiễm của một số
bãi chôn lấp đã đóng cửa
Bãi chôn lấp đã đóng cửa có một số đặc trưng
ô nhiễm sau:
- Hóa chất hữu cơ POPs từ các bao bì thuốc
BVTV đã bị cấm sử dụng;
- Kim loại nặng Pb, Hg, Cd, Cu... từ các nhiệt
kế thủy ngân vỡ, bùn thải của các xí nghiệp công
nghiệp, pH,...
- Các hợp chất hữu cơ khó phân hủy: các dạng
thuốc tồn dư (kháng sinh, các dạng hoóc-môn,
thuốc sát trùng, thuốc BVTV, các hợp chất chứa
halohien như cloro benzen, cloroform;
- Coliform;
- Phát tán bụi, khí hơi hữu cơ, H2S, CH4;
Các chất độc hại nêu trên có khả năng tan
trong nước rác gây ô nhiễm nước mặt, nước ngầm
và môi trường không khí.
Nguồn: Điều tra, đánh giá và đề xuất kế hoạch
quản lý, xử lý và phục hồi môi trường tại các điểm
ô nhiễm tồn lưu, TCMT, 2009
Khung 2.14. Bãi chôn lấp rác hợp vệ sinh
Thủy Phương, Thừa Thiên - Huế
Bãi rác Thủy Phương là bãi chôn lấp rác hợp vệ
sinh, loại bãi chìm, nằm trong vùng gò đồi có cao
độ 28 - 40m, cách trung tâm thành phố Huế hơn
10 km theo đường thẳng về phía Tây Nam và cách
Quốc lộ 1A theo đường tỉnh lộ 10 khoảng 6 km;
Bãi rác Thuỷ Phương được thiết kế theo tiêu
chuẩn kỹ thuật với đầy đủ các hạng mục, trong đó
có chia các ô đổ rác, hệ thống thu, thoát khí từ rác,
hệ thống ao thu gom, xử lý nước rác, hệ thống rãnh
thu gom nước mưa chảy tràn và bãi rác, đường vận
chuyển rác...
Bãi rác Thủy Phương gồm có 2 bãi chôn lấp. Bãi
chôn lấp số 1 có diện tích 2,2 ha, hoạt động từ năm
1999 và đã đóng cửa hoàn toàn vào tháng 7 năm
2009. Bãi chôn lấp số 2 có diện tích 2,5 ha, đưa vào
sử dụng năm 2009;
Bãi chôn lấp này là một bãi chôn lấp an toàn về
môi trường, đơn giản trong vận hành và bảo dưỡng
trong điều kiện đặc thù của địa phương.
Nguồn: Sở TN&MT Thừa Thiên - Huế, 2011
Báo cáo môi trường quốc gia 2011:
Chất thải rắn
38
đốt ngay tại các bãi chôn lấp không hợp vệ sinh3. Các bãi rác không được quy
hoạch và phân bố nhỏ lẻ ở khắp các thành phố, thị xã và các huyện. Một số
địa phương điển hình như: Điện Biên, Hà Giang, Thanh Hóa, Quảng Trị, Bình
Thuận, Bình Phước, Tiền Giang, Hậu Giang,...
Thời gian tới, công nghệ xử lý CTR tại Việt Nam sẽ được phát triển theo
hướng giảm thiểu tối đa lượng rác thải chôn lấp và tăng cường tỷ lệ tái chế, tái
sử dụng. Gần đây, có nhiều nhà đầu tư tư nhân đến Việt Nam đem theo các
công nghệ đa dạng, tuy nhiên, một số công nghệ không đáp ứng yêu cầu. Bộ
Xây dựng đã cấp giấy phép cho một số công nghệ nội địa trong lĩnh vực xử lý
CTR sinh hoạt để thúc đẩy các công nghệ phù hợp.
Các khu liên hợp xử lý CTR liên tỉnh đã được Bộ Xây dựng thiết kế quy
hoạch. Tuy nhiên, tính khả thi của các khu liên hợp này đối với việc xử lý CTR
đô thị là điều cần xem xét lại vì đối với các chất thải thông thường, nếu xử lý
tập trung liên tỉnh thì chi phí vận chuyển cao sẽ dẫn tới không khả thi. Mặt
khác, các địa phương được xác định trong quy hoạch để xây dựng khu liên
hợp xử lý CTR về cơ bản cũng không muốn chất thải từ các địa phương lân
cận được vận chuyển sang địa bàn tỉnh mình để xử lý.
Các tiêu chí
Điểm
tối đa(*)
Điều kiện
áp dụng
1.Tiêu chí kỹ thuật: Nguyên lý công nghệ, tính năng kỹ
thuật của từng cụm thiết bị trong dây chuyền xử lý, hiệu
quả xử lý, giải pháp xử lý chất thải thứ cấp, mức độ cơ khí
hóa, tự động hóa, mức độ thuận tiện trong vận hành, bảo
dưỡng, công nghệ nội sinh
30 Tổng điểm 4 tiêu
chí > 70 điểm.
Xếp loại A g
khuyến khích áp
dụng.
Từ 50-70 điểm.
Xếp loại B g Có
thể áp dụng.
< 50 điểm. Xếp
loại C g không
nên áp dụng
2.Tiêu chí kinh tế: Chi phí đầu tư mua và xây lắp thiết bị,
công trình, chi phí vận hành, bảo dưỡng, chi phí xử lý chất
thải thứ cấp, giá trị thu lợi sản phẩm (nếu có), thị trường
tiêu thụ sản phẩm đầu ra
30
3.Tiêu chí sự phù hợp với điều kiện đô thị Việt Nam: Phù
hợp với thành phần chất thải, loại vật liệu thiết bị chính,
khả năng thích ứng với điều kiện khí hậu, khả năng chịu
mài mòn, điều kiện kinh tế kỹ thuật, quy mô đô thị,..
20
4.Tiêu chí an toàn và thân thiện môi trường: Các chỉ số
an toàn kỹ thuật của thiết bị, các chỉ số về thân thiện môi
trường, các chỉ số về biện pháp giảm thiểu tác động xấu
đến kinh tế, văn hóa, cảnh quan, sinh thái
20
Nguồn: Báo cáo của Viện Môi trường đô thị và Công nghiệp Việt Nam tại Hội thảo
“Lựa chọn công nghệ xử lý CTR phù hợp với điều kiện Việt Nam”, ngày 21/10/2011
Ghi chú: (*) Tính theo thang điểm 100
3 Xem trong Phụ lục 1. Các công nghệ xử lý CTR sinh hoạt hiện đang áp dụng ở một số tỉnh/thành phố
Bảng 2.13. Các tiêu chí được đề xuất để lựa chọn công nghệ xử lý CTR đô thị
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- y_chuong_2_chat_thai_ran_o_do_thi_6353_2001300.pdf