Bàn về khái niệm nhân cách trong tâm lý học ngày nay
Khái niệm nhân cách được xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và là khái niệm then chốt
trong tâm lí học, là một khái niệm rộng nên nhân cách được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Và
đây cũng là khái niệm liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học nên rất được quan tâm, được hiểu
theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam khái niệm này chưa có sự
thống nhất. Về cơ bản người ta coi nhân cách là hệ thống các giá trị xã hội nằm trong con người, là
những thuộc tính tâm lí ổn định của cá nhân, hay là tổ hợp đạo đức và năng lực trong con người.
4 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 421 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn về khái niệm nhân cách trong tâm lý học ngày nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đinh Đức Hợi Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 61(12/2): 107 - 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
107
BÀN VỀ KHÁI NIỆM NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC NGÀY NAY
Đinh Đức Hợi*
Trường Đại học Sư Phạm – Đại học Thái Nguyên
TÓM TẮT
Khái niệm nhân cách được xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử nhân loại và là khái niệm then chốt
trong tâm lí học, là một khái niệm rộng nên nhân cách được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Và
đây cũng là khái niệm liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học nên rất được quan tâm, được hiểu
theo nhiều khuynh hướng khác nhau. Trên thế giới cũng như ở Việt Nam khái niệm này chưa có sự
thống nhất. Về cơ bản người ta coi nhân cách là hệ thống các giá trị xã hội nằm trong con người, là
những thuộc tính tâm lí ổn định của cá nhân, hay là tổ hợp đạo đức và năng lực trong con người.
Từ khoá: Nhân cách, cá nhân, cá tính, giá trị xã hội, phẩm chất, năng lực.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Có lẽ khoa học nghiên cứu về nhân cách và
hành vi của con người là nghiên cứu thú vị
nhất được thực hiện từ trước đến nay. Tại sao
con người lại cư xử như thế? Tại sao bạn lại
buồn chán, giận dữ, vui sướng hoặc lo âu?
Những chuẩn mực về hành vi được thiết lập
như thế nào và chúng thay đổi ra sao? Những
kiểu hành vi kì quái được con người phát triển
như thế nào và làm sao để xử lí chúng một
cách hiệu quả. Tâm lí học nhân cách là một
khoa học hấp dẫn, sẽ cung cấp câu trả lời cho
toàn bộ vấn đề trên.
Mỗi người đều khác nhau, nhưng chúng ta
cũng có những điểm chung đi đến sự nhất trí
về tính cá nhân ở con người và những gì tạo
ra nhân cách cá nhân là một trong những vấn
đề thu hút nhất trong tâm lí học.
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
Về bản chất, nhân cách là những giá trị làm
nên bản sắc riêng của con người đó, được
hình thành trong quá trình con người sống và
hoạt động.
* Ngoài nước (có thể phân thành các hướng
nghiên cứu sau):
+ Xu hướng sinh vật cho nhân cách là thuộc
tính sinh vật, bản năng tình dục, đặc điểm
hình thể, siêu đẳng bù trừ...(S. Freud; A.
Adler; K. Jung; Krestchmer).
Tel: 0985 464 848
- Thuật ngữ “nhân cách” bắt nguồn từ chữ
“Persona” trong tiếng Hi Lạp cổ đại dùng để chỉ
cái mặt nạ của diễn viên sân khấu cổ đại, tiếp
đến dùng để chỉ bản thân người diễn viên và các
vai mà người đó đóng. Sau đó nó dùng để chỉ
vai trò thực sự của con người trong xã hội.
- Nhân cách là một cơ cấu có tổ chức của các
quá trình và trạng thái tâm lý liên quan đến cá
nhân (R. Linton).
- Nhân cách là cơ quan điều khiển thể xác,
một thiết chế tác động đến những sự biến đổi
không ngừng từ lúc được sinh ra đến khi chết
(H.A.Murray).
- Con người vượt ra khỏi giới động vật
nhờ lao động và phát triển trong xã hội,
tham gia giao tiếp với những người khác
nhờ tiếng nói, đã trở thành nhân
cách...chủ thể của nhận thức và cải tổ
tích cực hiện thực (A.V. Petrovxki).
- Nhân cách là một tổ chức tâm lí mới về
chất, được hình thành nhờ sống trong xã hội
(A.N. Leonchiev).
- Nhân cách là một tồn tại cá nhân nhất định,
độc nhất vô nhị, không thể phân chia, được
đặc trưng bởi sự thể hiện tính cách do tư chất
và môi trường tạo ra (W.arnold).
- Nhân cách là toàn bộ nội dung tinh thần
với những phẩm chất thể lực và đặc trưng
tâm lí , với giá trị cá nhân trong tập thể,
với vai trò
của cá nhân trong lao động của họ ( I. Edrink)
[6; tr 10]. - Nhân cách là cá nhân cụ thể, lịch
sử, sinh động gắn với những quan hệ thực tế
đối với thế giới hiện thực (X.L.Rubinstêin).
Đinh Đức Hợi Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 61(12/2): 107 - 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
108
+ Xu hướng nhân cách là nhân tính con
người, là động cơ tự điều chỉnh, là tương tác
xã hội, là nhu cầu, là lo lắng... (C. Rogers;
R.May; A. Maslow; G. Allport; J. Bugental;
A. Murray; G.H. Merd; K. Horney).
- Nhân cách là một cá thể có ý thức, một vị trí
nhất định trong xã hội và thực hiện một vai
trò nhất định (A.G. Covaliov).
- Nhân cách là con người với tư cách là chủ
thể có ý thức (K.K. Platonov) [1; tr 240].
- Nhân cách là một trật tự động (dynamic) của
các hệ thống tâm-thể trong cá nhân quy định
những sự thích nghi độc đáo đối với môi
trường xung quanh của họ (G.W. Allport).
- Nhân cách là khái niệm chỉ mọi sự kiện hợp
thành lịch sử cuộc đời của cá nhân (H.
Thomae).
+ Xu hướng nhân cách là toàn bộ mối quan hệ
xã hội của cá nhân (L. Seve; Zeigarnite;
Ogorodnikov).
- Nhân cách là tổng hoà các phẩm chất cá
nhân tương đối bền vững (L.I. Borovich).
- Nhân cách của một cá nhân là cấu trúc độc
đáo của các thuộc tính (J.P. Guilford).
- Nhân cách là những hành vi, tư duy và cảm
xúc có tính chất đặc biệt và ổn định của cá
nhân (R.A. Baron) [100; tr 10].
- Nhân cách là sản phẩm cuối cùng của thói
quen (J. Watson).
- A.N. Leonchiev quan niệm: Nhân cách là
một cấu tạo trọn vẹn thuộc một loại đặc
biệt...người ta sinh ra không phải đã là nhân
cách mà người ta trở thành nhân cách.
- A.I. Secbacov: Nhân cách là sự hình thành
một cách trọn vẹn những cấu trúc tâm lí, phản
ánh bản chất xã hội của con người hiện thực
với tư cách là chủ thể có ý thức của nhận thức
và tích cực cải tạo thế giới [6; tr 10].
+ Nhân cách được hiểu đồng nghĩa với khái
niệm con người (K.K. Platonov).
+ Nhân cách được hiểu như cá nhân con người
với tư cách là chủ thể của mối quan hệ và hoạt
động có ý thức (A.G. Kovalev; I.X. Kon).
- Nhân cách là một sản phẩm xã hội – lịch sử,
chủ thể có ý thức xã hội – có trách nhiệm
(J.P. Galpêrin).
- Nhân cách phát triển toàn diện là một người
có năng lực và sẵn sàng hành động ngày càng
độc lập (tự động) và có ý thức trong những
phạm vi hoạt động hết sức đa dạng, có ý
nghĩa xã hội trong sự tác động chung, tập thể
đối với những người khác (A.Kossakowski).
- Nhân cách là hệ thống sinh động của
những quan hệ xã hội giữa các phương thức
hành vi..., cơ sở chung, đầy đủ nhất để xem
xét những mặt khác nhau của đời sống cá
nhân (L.Sève).
- Nhân cách là những mẫu hành vi ứng xử có
tính kiên định và những quá trình tâm lý trong
mối quan hệ, giữa chủ thể và bản thân, khởi
xướng từ bên trong cá nhân (J.M.Burger).
Nhân cách như là những mặt và trong các mặt
này chứa các nét nhân cách [6; tr 171].
Nhận xét: Nhìn chung các tác giả nước ngoài
khi định nghĩa nhân cách cũng chưa có sự
thống nhất vì họ xây dựng quan niệm theo
những cách tiếp cận khác nhau. Khi đề cập
đến nhân cách đại đa số tập trung vào giá trị
xã hội, quá trình ý thức, quá trình trở thành
một nhân cách, sự tác động của xã hội, của
hoạt động của giao tiếp đến nhân cách.
* Trong nước (có thể phân thành các hướng
nghiên cứu sau):
Tương tự như trong nhiều nền tâm lý học
khác, trong tâm lý học Việt Nam cũng có
những cách hiểu khác nhau về nhân cách.
+ Xu hướng coi nhân cách là hệ thống giá trị:
- Từ điển tiếng Việt lí giải nhân cách là tư
cách là phẩm chất con người.
GS.VS. Phạm Minh Hạc định nghĩa nhân
cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất
tâm lý của cá nhân, quy định giá trị xã hội và
hành vi xã hội của nó” [2; tr 478].
Gần đây, ông đưa đến một định nghĩa mới về
nhân cách. Đó là: “Nhân cách của con người
là hệ thống các thái độ của mỗi người thể hiện
ở mức độ phù hợp giữa thang giá trị và thước
đo giá trị của người ấy với thang giá trị và
Đinh Đức Hợi Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 61(12/2): 107 - 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
109
thuớc đo giá trị của cộng đồng và xã hội, độ phù
hợp càng cao nhân cách càng lớn” [3; tr 24].
- Theo PGS Lê Đức Phúc, “Nhân cách là cấu
tạo tâm lý phức hợp, bao gồm những thuộc
tính tâm lý cá nhân, được hình thành và phát
triển trong cuộc sống và hoạt động, tạo nên
nhân diện và quy định giá trị xã hội của mỗi
người” [3;74-76].
- Tác giả Trần Trọng Thuỷ cho rằng, “Nhân
cách là toàn bộ những đặc điểm, phẩm chất
tâm lý quy định giá trị xã hội và hành vi xã hội
của cá nhân”. Nhân cách của con người phải
được phân tích và được đánh giá ở 3 mức độ
khác nhau: mức độ bên trong cá nhân, mức độ
bên ngoài cá nhân, mức độ siêu cá nhân” .
- Tác giả Nguyễn Ngọc Bích định nghĩa:
Nhân cách là hệ thống những phẩm giá xã hội
của cá nhân thể hiện những phẩm chất bên
trong của cá nhân, mối quan hệ qua lại của cá
nhân với các cá nhân khác, với tập thể, xã hội,
với thế giới xung quanh và mối quan hệ của
cá nhân với công việc trong quá khứ, hiện tại
và tương lai [1; tr 233].
+ Xu hướng coi nhân cách là một thuộc tính
tâm lí ổn định:
- Tác giả Đặng Xuân Hoài: Nhân cách là một
cấu trúc bao gồm những thuộc tính và đặc
điểm tâm lí ổn định tạo nên bản sắc của cá
nhân, được hình thành từ những quan hệ xã
hội. Nhân cách là chủ thể của hành vi và hoạt
động có ý thức, qua đó thể hiện giá trị xã hội
của mỗi người [4; tr 5].
- Tác giả Nguyễn Quang Uẩn quan niệm:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những
thuộc tính tâm lí của cá nhân, biểu hiện ở bản
sắc và giá trị xã hội của con người.
- Tác giả Trần Hiệp: Nhân cách là kết quả của
quá trình xã hội hoá nhân cách, nhân cách bao
gồm một tập hợp những đặc điểm, những
thuộc tính tâm lí đã qui định hoạt động và
hành vi của cá nhân, qua đó giá trị của cá
nhân đó được xác định.
- Tác giả Hoàng Anh, Nguyễn Thạc, Đỗ Thị
Châu quan niệm: Nhân cách là tổ hợp những
đặc điểm, những thuộc tính tâm lí của cá
nhân, qui định hành vi xã hội và giá trị xã hội
của cá nhân đó.
+ Xu hướng coi nhân cách là bản tính xã hội,
chủ thể ý thức:
- Tác giả Nguyễn Khắc Viện quan niệm:
Nhân cách là tổng hoà tất cả những gì hợp
thành một con người, một cá nhân với bản sắc
và cá tính rõ nét..
- Tác giả Nguyễn Ngọc Phú: Nhân cách là
tổng hoà các phẩm chất xã hội, được cá nhân
lĩnh hội trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh
giá trị xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng.
- Tác giả Vũ Dũng: Một mặt nhân cách là sản
phẩm của sự phát triển lịch sử xã hội, mặt
khác nhân cách cũng là người sáng tạo ra
hoàn cảnh, điều kiện, của cải xã hội.
- Tác giả Đỗ Long coi nhân cách là một chủ
thể tự ý thức ở mỗi con người, thể hiện thông
qua quá trình tự khẳng định trong hoạt động
chủ đạo của chính mình.
- Tác giả Phạm Tất Dong quan niệm: Nhân
cách được xem xét với tư cách là con người
mang ý thức, một con người rất cụ thể với cá
tính của họ, với những ưu khuyết điểm đang
bộc lộ trong cuộc sống hàng ngày của họ.
Nhận xét: Có thể thấy là ở Việt Nam hiện nay
có xu hướng đặt giá trị xã hội thành một
thành phần, một mặt quan trọng nếu không
nói là trung tâm của nhân cách. Mức độ của
giá trị xã hội của nhân cách quy định kích cỡ
của nhân cách ấy.
KẾT LUẬN
Như vậy, cũng giống như trên thế giới, ở Việt
Nam cũng chưa có một khái niệm nhân cách
thống nhất. Khi xây dựng khái niệm nhân
cách chúng tôi kế thừa tư tưởng của các tác
giả đi trước, đồng thời xuất phát từ tư tưởng
chỉ đạo của chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ
Chí Minh về bản chất con người, chúng tôi
cho rằng, nói đến nhân cách là chúng ta cần
nói đến:
+ Các nét tâm lí tương đối ổn định;
+ Nhân cách được hình thành trong cuộc
sống, trong hoạt động, giao tiếp;
Đinh Đức Hợi Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 61(12/2): 107 - 110
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
110
+ Là những nét (bản sắc) riêng biệt của mỗi
cá nhân;
+ Là thước đo giá trị của con người trong xã hội.
Vậy, nhân cách là toàn bộ những phẩm chất tâm
lí tương đối ổn định của cá nhân, biểu hiện ở các
nét nhân cách của chính cá nhân đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lí học nhân
cách. NXB Giáo dục, Hà Nội.
[2]. Phạm Minh Hạc (chủ biên), Phạm Hoàng Gia,
Trần Trọng Thuỷ, Nguyễn Quang Uẩn (1992),
Tâm lí học, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[3]. Đào Thị Oanh (chủ biên)(2007), Vấn đề nhân
cách trong tâm lí học ngày nay, NXB Giáo dục,
Hà Nội.
[4]. Damarin F. L, Cattell R. B (1986),
Personality factors in early childhood and their
relation to intelligence, Monographs of the society
for researcher in child development.
[5]. Don Richard Riso, Russ Hudson (1996),
Personality Types, Houghton Mifflin.
[6]. Jerry M. Burger (2000), Personality, Fifth
Edition, Wadsworth, Wadsworth Morton Hunt
SUMMARY
THE CONCEPT OF PERSONALITY IN MODERN PSYCHOLOGY
Dinh Duc Hoi
College of Education, Thai Nguyen University
The concept of personality has been taken into consideration for a long time in human’s history,
and it is regarded as a fundomental key concept in psychology the concept of personality is a broad
concept so it can be understood in many different ways.
The concept of personality has certain relations with many other fields of science, thus there have
been a number of approaches to understand it.
In the world as well as there have been no consennes in understandiny this concept in Vietnam. In
general, it is supposed that personality is a system of social values existiny a human, psychological
permanent attributes of an invididual or a conbination of morals and abilities in a human.
Keywords: personality, an individualls, social values, morals, abilities
Tel: 0985 464 848
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3423_9722_dinhduchoi_9951_2052913.pdf