Bàn thêm về vấn đề dự đoán thời cơ, chớp thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng tám năm 1945 - Lý Thị Thu Huyền

Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi lớn nhất trong suốt 15 năm (1930-1945) đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đạt tới thắng lợi rực rỡ đó là nhờ tinh thần yêu nước, đoàn kết của nhân dân ta, nhờ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt vận dụng sáng tạo vào nước ta lý luận tình thế cách mạng, điều kiện, thời cơ của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đảng đã thường xuyên “bắt mạch” thời cuộc thế giới và trong nước, vừa giữ vững nguyên tắc, vừa linh hoạt nhạy bén trước tình thế, đưa ra những dự kiến tài tình về thời cơ tổng khởi nghĩa. Đảng ra sức chuẩn bị những điều kiện tinh thần và vật chất cho tổng khởi nghĩa, vừa tuân thủ quy luật chung vừa phát huy cao độ tính năng động, chủ động, sáng tạo. Đảng đã mau lẹ, kịp thời chớp lấy thời cơ thuận lợi khi Nhật đầu hàng, bằng trí tuệ, nghị lực cách mạng, tinh thần dũng cảm, huy động toàn bộ lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, lực lượmg toàn dân, toàn dân tộc để giành độc lập dân tộc, giành chính quyền toàn quốc trong thời gian ngắn. Trong hội nhập quốc tế ở thời kỳ mới của đất nước, việc tích cực, chủ động để không ngừng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là rất quan trọng và cấp thiết đối với mỗi tổ chức trong xã hội và từng người. Song phải thực hiện tốt phương châm ứng vạn biến, luôn nhạy bén phát hiện, mau lẹ chớp lấy và nắm chắc thời cơ, vận hội mới để góp phần đắc lực đưa đất nước phát triển vững chắc theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó cũng chính là con đường mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải nghiệm và cần được tiếp tục nghiên cứu vận dụng, phát triển với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để phù hợp với bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước ta hiện nay

pdf8 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bàn thêm về vấn đề dự đoán thời cơ, chớp thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng tám năm 1945 - Lý Thị Thu Huyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 103 BÀN THÊM VỀ VẤN ĐỀ DỰ ĐOÁN THỜI CƠ, CHỚP THỜI CƠ TIẾN LÊN TỔNG KHỞI NGHĨA GIÀNH CHÍNH QUYỀN TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945 Lý Thị Thu Huyền*, Đoàn Thị Yến Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Lịch sử các cuộc cách mạng trên thế giới đã chứng minh, cách mạng muốn thắng lợi phải có thời cơ. Thời cơ rất quý và hiếm, song thời cơ sẽ qua đi nếu cách mạng chưa hội tụ đầy đủ những điều kiện cần thiết để chủ động nắm chắc lấy nó. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945 đã thể hiện sự nhạy bén của Đảng; biểu hiện tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo của toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân trong quá trình chuẩn bị lực lượng và tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Vì vậy có thể khẳng định, sự chuẩn bị sẵn sàng về chủ trương, lực lượng và dự đoán chính xác thời cơ, mau lẹ chớp lấy thời cơ, đó chính là một trong những bí quyết lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Đảng Cộng sản và lãnh tụ Hồ Chí Minh trong cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ khóa: thời cơ, dự đoán thời cơ, chớp thời cơ, cách mạng tháng Tám MỞ ĐẦU* Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc vĩ đại, điển hình do Đảng cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp, lật đổ chế độ quân chủ hàng nghìn năm và ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân của một quốc gia, trở thành người làm chủ vận mệnh của mình. Thắng lợi của cuộc cách mạng tháng Tám là một điển hình sáng tạo về đường lối chính trị, phương pháp cách mạng, trong đó nổi bật lên là việc dự đoán thời cơ, chớp thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa giành độc lập dân tộc, giành chính quyền về tay nhân dân. Thời cơ là tình thế xuất hiện trong thời điểm nhất định có lợi nhất cho việc chủ động phát huy mọi sức mạnh để giành thắng lợi. Thời cơ đó có thể là do sai lầm của đối phương, do năng động chủ quan tạo nên, hoặc do khách quan đưa đến. Khi thời cơ đến, phải nhạy bén nắm bắt và phải kịp thời chớp lấy. * Tel: 0977 022982, Email: thuhuyenly@gmail.com Đã có nhiều bài viết về thời cơ trong cách mạng tháng Tám trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí nghiên cứu Lịch sử, Tạp chí Lịch sử Đảng Trong bài viết này, Tác giả chỉ xin đề cập đến Vấn đề dự đoán thời cơ, chớp thời cơ tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cách mạng tháng Tám năm 1945. NỘI DUNG Sự xuất hiện thời cơ và sự đánh giá thời cơ Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới II đã vào giai đoạn cuối. Chủ nghĩa phát xít cả ở châu Âu và châu Á đều lâm vào tình thế nguy khốn. Ở Đông Dương, phát xít Nhật tiến hành đảo chính gạt bỏ thực dân Pháp (9-3-1945). Những sự kiện đó phản ánh mâu thuẫn và khủng hoảng sâu sắc trong hàng ngũ kẻ thù cụ thể và trực tiếp của cách mạng nước ta. Đó cũng là dấu hiệu chứng tỏ thời cơ cách mạng đã chín muồi. Nhạy bén trước tình hình mới, Trung ương Đảng ra bản chỉ thị lịch sử: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” (12-31945). Theo tinh thần đó, cả nước bùng lên một cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ. Khi các điều kiện tổng khởi nghĩa đã đầy đủ, thời cơ tổng khởi nghĩa đã tới, dưới sự lãnh đạo của Đảng toàn dân, toàn quân ta đồng lòng hiệp sức kiên quyết vùng dậy giành chính quyền. 106Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 104 Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về việc thành lập Ủy ban giải phóng Việt Nam. Tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào (Tuyên Quang) để chỉ đạo phong trào cách mạng toàn quốc. Người chỉ thị phải gấp rút chuẩn bị đại hội quốc dân và thành lập “khu giải phóng”. Ủy ban lâm thời Khu giải phóng được thành lập. Khu giải phóng đã trở thành căn cứ địa chính của cách mạng của cả nước và là hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam mới. Những sự kiện đó vừa phản ánh sự nhanh nhạy nắm bắt thời cơ, thúc đẩy thời cơ mau tới gần và sẵn sàng đón thời cơ của Đảng. Thời cơ tạo nên sức mạnh, nhưng phải có thực lực mới có thể chủ động khi thời cơ xuất hiện và không bỏ lỡ thời cơ. Phân tích sự phát triển của tình hình thế giới và sự phát triển của phong trào trong nước, đầu tháng Tám, Bác Hồ và Trung ương Đảng đã tận dụng triệt để những thuận lợi cơ bản: Phát xít Nhật hoang mang, chính phủ Trần Trọng Kim yếu thế, quân Đồng minh chưa vào nước ta, quân Pháp có tham vọng quay trở lại Việt Nam nhưng chúng chưa có lực lượng. Từ 13 đến 15-8-1945 Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (Tuyên Quang) nhận định thời cơ đã đến, quyết định tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, giành chính quyền trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Ngay trong đêm 13-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa đã ra Quân lệnh số 1 hạ lệnh tổng khởi nghĩa. Lệnh Tổng khởi nghĩa do Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh phát đi chỉ mất một tiếng đồng hồ khi lần thứ hai Trung ương nhận được tin Nhật đầu hàng. Việc nắm bắt thời cơ chín muồi là cơ hội rất tốt cho việc phát động Tổng khởi nghĩa của Đảng. Thời cơ cho cuộc tổng khởi nghĩa như phân tích của Đảng ta đã xuất hiện khi kẻ thù trực tiếp của cách mạng Việt Nam là Phát xít Nhật đã đầu hàng Đồng minh không điều kiện, hàng ngũ chỉ huy của Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, quân lính Nhật tan rã mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ; khi cao trào cách mạng đã phát triển lên đến đỉnh cao, toàn dân đứng lên với quyết tâm “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”; khi mà lực lượng Đồng minh chưa kịp vào để tước vũ khí quân Nhật. Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi, đây là cơ hội rất tốt để cho ta giành quyền độc lập. Tuy nhiên thời cơ này không tồn tại vĩnh viễn, nó sẽ biến mất khi quân Đồng minh vào nước ta để tước vũ khí phát xít Nhật. Với bản chất thực dân đế quốc, chúng có thể dựng ra một chính quyền tay sai trái với ý chí và nguyện vọng của dân tộc ta. Đế quốc Pháp đang lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông Dương. Bọn phản động trong nước cũng đang tìm cách thay thầy đổi chủ. Vì vậy thời cơ cách mạng chỉ xuất hiện trong nửa cuối tháng Tám năm 1945 từ khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào nước ta. Đồng chí Trường Chinh trong tác phẩm Cách mạng Tháng Tám đã phân tích thời cơ khi Tổng khởi nghĩa nổ ra như sau: Nếu ngày 9- 3-1945, Nhật vừa đánh đổ Pháp mà cuộc khởi nghĩa đã nổ ra nhanh thì cách mạng có thể tổn thất nhiều và chính quyền chưa thể thành lập trong toàn quốc, vì lực lượng Nhật lúc đó còn khá vững, có thể tiêu diệt quân cách mạng ở những nơi có thể giữ. Cho nên lúc đó chỉ khởi nghĩa bộ phận giành chính quyền địa phương. Nếu sau khi quân Nhật đầu hàng Đồng Minh mà nhân dân ta bị động trông chờ quân Đồng Minh vào “giải phóng”, không tức thời nổi dậy giành chính quyền toàn quốc thì sẽ ra sao? Hai trường hợp có thể xảy ra: Hoặc bọn bù nhìn tay sai của Nhật đứng ra vỗ ngực “thoát ly ảnh hưởng của Nhật” và tự xưng là “độc lập, dân chủ” để đầu hàng Anh, Mỹ chứ không phải để giải phóng dân tộc. Hoặc Pháp sẽ thu thập sức tàn ở Đông Dương và đem tàn quân chạy ra ngoài rồi trở lại cùng với bọn Việt gian thân Pháp, lập chính quyền bù nhìn thân Pháp trong toàn quốc lập nên xứ Đông Dương “tự trị”. Cả hai trường hợp trên đều vô cùng nguy hiểm. Dự đoán đúng thời cơ và điều kiện tổng khởi nghĩa. Trên một ý nghĩa nhất định, thời cơ cũng là lực lượng, thời cơ trôi đi rất nhanh. Nắm đúng thời cơ sẽ thúc đấy phong trào cách mạng phát triển nhảy vọt đảm bảo cho cách mạng chắc thắng. 107Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 105 Chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ cho các đảng cách mạng lý luận về khởi nghĩa vũ trang, về tình thế cách mạng, về thời cơ tổng khởi nghĩa. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khảng định phương pháp cách mạng bạo lực là quy luật phổ biến, là phương thức chủ yếu và tất yếu để giai cấp vô sản lật đổ sự thống trị của giai cấp tư sản, thiết lập sự thống trị của mình, thay thế nhà nước tư sản bằng nhà nước vô sản. Chủ nghĩa Mác - Lênin coi khởi nghĩa vũ trang là một khoa học và nghệ thuật, có những quy tắc đòi hỏi các đảng lãnh đạo phải phục tùng nghiêm ngặt. Đó là: “Không được đùa với khởi nghĩa; không nên bắt đầu khởi nghĩa khi chưa có điều kiện chín muồi; Khi điều kiện đã chín muồi thì phải đảm bảo có sự chuẩn bị chu đáo lực lượng khởi nghĩa; Một khi khởi nghĩa bắt đầu thì phải hành động với một quyết tâm rất lớn và phải giành thế tiến công, không được phòng ngự; Phải đánh quân thù một cách bất ngờ, phải giữ ưu thế tinh thần và mỗi ngày phải đạt được những thắng lợi dẫu nhỏ”[1, tr.357]. Đảng ta hiểu rằng, thời cơ là sự kết hợp của hàng loạt nhân tố chủ quan và khách quan đã đến độ chín muồi, rằng thời cơ không phải tự nó đến, một phần lớn là do ta sửa soạn nó, thúc đẩy nó.Chính vì vậy Đảng đã công phu và bền bỉ chuẩn bị tinh thần và lực lượng trong suốt mười lăm năm qua. Đảng chăm chú theo dõi, phân tích sâu sắc sự phát triển của tình hình, dự đoán các tình huống, chủ động đối phó với địch. Ngay từ đầu những năm 20 của thế kỉ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận định: sự đầu độc có hệ thống của bọn tư bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư tưởng của người Đông Dương. “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rùi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công việc giải phóng nữa thôi”[3, tr.7]. Và Cương lĩnh năm 1930 của Đảng là sự bắt đầu gieo hạt giống giải phóng đó. Khi chiến tranh thế giới thứ II bùng nổ, theo dự kiến từ trước, nhận thấy thời cơ thuận lợi cho cách mạng giải phóng các dân tộc Đông Dương bắt đầu xuất hiện, Hội nghị lần thứ VI (11-1939) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nhận định: “Cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị gây nên bởi đế quốc chiến tranh lần này sẽ nung nấu cách mệnh Đông Dương bùng nổ và tiền đồ cách mệnh giải phóng Đông Dương nhất định sẽ quang minh, rực rỡ”. Từ đó, Đảng nêu cao nhiệm vụ giải phóng dân tộc, hướng tất cả các cuộc đấu tranh của quần chúng vào mục tiêu trung tâm chống đế quốc, chống tay sai “dự bị những điều kiện bước tới bạo động làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc”. Hội nghị Trung ương lần thứ VII (11-1940) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã dự kiến: “Một cao trào cách mạng nhất định sẽ nổi dậy, Đảng phải chuẩn bị gánh lấy sứ mệnh thiêng liêng lãnh đạo cho các dân tộc bị áp bức ở Đông Dương võ trang bạo động giành lại quyền tự do, độc lập”. Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Nam Kỳ (11-1940) và Binh biến Đô Lương (1-1941) nổ ra, Đảng đã phân tích từng cuộc khởi nghĩa và rút ra những vấn đề có ý nghĩa lớn về phương pháp cách mạng và nghệ thuật khởi nghĩa. Đó là những vấn đề về thời cơ. Năm 1940, cách mạng nước ta chưa có điều kiện cho tổng khởi nghĩa thắng lợi. Để nắm thời cơ phải có lực lượng to lớn cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang. Để chuẩn bị lực lượng cách mạng, Đảng đã bám sát từng bước ngoặt của chiến tranh thế giới, cũng như thắng lợi của Liên Xô và các nước dân chủ. Đồng thời Đảng cũng quyết định duy trì, phát triển các đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, xây dựng căn cứ địa cách mạng Cao Bằng, Bắc Sơn - Vũ Nhai Ngày 28-1-1941, Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Trung ương Đảng trực tiếp lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc. Sự trở về tổ quốc ở thời điểm lịch sử đó đã phản ánh tư duy, tầm nhìn chiến lược của Người về tình thế cách mạng trực tiếp xuất hiện. Tại hội nghị lần thứ VIII của Ban chấp hành Trung ương Đảng (5- 1941) khẳng định: “Cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa vũ trang”. Chúng ta phải “luôn luôn chuẩn bị một lực lượng, nhằm vào cơ hội thuận tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”[4, tr.131]. 108Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 106 Tính hết mọi khả năng để nắm thời cơ, nhưng tư tưởng chỉ đạo chính yếu của Đảng là không ngồi yên trông chờ vào những điều kiện đã dự kiến một cách thụ động, trái lại phải chủ động chuẩn bị lực lượng sẵn sàng để chớp thời cơ thuận lợi. Theo tinh thần đó, Đảng đã lập ra Mặt trận Việt Minh nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, toàn dân tộc dựa trên cơ sở liên minh công nông và nông dân; phát triển phong trào cả ở nông thôn và thành thị; dựa vào nông thôn đồng bằng và miền núi để xây dựng căn cứ địa và an toàn khu; xây dựng lực lượng chính trị mạnh để từng bước xây dựng lực lượng vũ trang. Tiếp tục tổng kết thực tiễn các cuộc khởi nghĩa địa phương, căn cứ vào tư tưởng Hồ Chí Minh, Hội nghị lần thứ VIII (5-1941) của Ban chấp hành Trung ương Đảng đã nêu bật tư tưởng: Nay mai đây tình hình xoay ra hoàn toàn có lợi cho cách mạng Đông Dương thì lúc đó với lực lượng sẵn có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể giành được sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn. Đây là một phát hiện sáng tạo độc đáo và quan trọng của Đảng ta về hình thái vận động khách quan của tổng khởi nghĩa trong cách mạng giải phóng dân tộc nước ta. Theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ VIII (5-1941) của Ban chấp hành Trung ương Đảng, phải “đặt mình vào tình thế khẩn cấp”, coi việc “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và dân ta trong giai đoạn hiện tại”[5,tr.298] Hội nghị vạch ra một kế hoạch thúc đẩy việc chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt cho cuộc khởi nghĩa sắp đến. Vận dụng luận điểm của Lênin về tình thế cách mạng, trong tác phẩm Con đường giải phóng, Hồ Chí Minh đã nêu ba điều kiện của thời cơ khởi nghĩa: Một là, chính quyền thực dân đế quốc đã lung lay bối rối đến cao độ, chúng đã cảm thấy không thể ngồi yên nắm giữ địa vị của chúng như trước. Hai là, quần chúng đói khổ đã căm thù thù thực dân đến cực điểm, đã thấy cần phải đồng tâm hiệp lực, nổi đậy lật đổ ách thống trị của đế quốc thực dân, vì mọi người hiểu rằng ngồi yên cũng chết. Ba là, đã có một chính Đảng cách mạng đủ sức tổ chức, lãnh đạo quần chúng nổi dậy khởi nghĩa theo một đường lối đúng đắn, một kế hoạch phù hợp, đảm bảo giành thắng lợi cho cuộc khởi nghĩa. Từ dự đoán ban đầu đó, dựa vào phân tích tình hình thế giới, chiều hướng phát triển của chiến tranh, tiền đề cách mạng thế giới và cách mạng Đông Dương, Hội nghị lần thứ VIII (5-1941) của Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: “Liên Xô thắng trận, quân Trung Quốc phản công...Tất cả các điều kiện ấy sẽ giúp cho cuộc vận động của Đảng ta mau phát triển và rồi đây lực lượng sẽ lan ra toàn quốc để gây một cuộc khởi nghĩa hoàn toàn rộng lớn”. Hội nghị còn nêu lên bốn nhân tố của thời cơ chín muồi cho cuộc tổng khởi nghĩa là: “a. Mặt trận cứu quốc đã thống nhất được toàn quốc. b. Nhân dân không thể sống được nữa dưới ách thống trị của Pháp - Nhật, mà sẵn sàng hi sinh bước vào con đường khởi nghĩa. c. Phe thống trị Đông Dương đã bước vào cuộc khủng hoảng phổ thông đến cực điểm về kinh tế, chính tri lẫn quân sự. d. Những điều kiện khách quan tiện lợi cho cuộc khởi nghĩa Đông Dương như quân Trung Quốc đại thắng quân Nhật. Cách mạng Pháp hay cách mạng Nhật nổi dậy, phe dân chủ đại thắng ở Thái Bình Dương, Liên Xô đại thắng, cách mạng các thuộc địa Pháp - Nhật sôi sục và nhất là quân Trung Quốc hay quân Anh - Mỹ tràn vào Đông Dương”[4,tr.130]. Từ năm 1942, trong bốn khả năng, Đảng nhận định khả năng Liên Xô chiến thắng phát xít Đức, Nhật là quan trọng nhất, là thời cơ tốt nhất và xác định “chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của Đảng ta và nhân dân ta trong giai đoạn hiện tại. Tháng 9-1944, Đảng dự kiến rằng, mâu thuẫn Nhật - Pháp sẽ dẫn tới Nhật đảo chính lật đổ Pháp, và chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng: “Hãy mài gươm, lắp súng khi quân Nhật - Pháp bắn nhau, kịp nổi dậy, tiêu diệt chúng giành lại giang sơn”. 109Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 107 Tháng 10- 1944, trong “Thư gửi đồng bào toàn quốc”, Hồ chí Minh dự báo: Phe xâm lược gần đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được thắng lợi cuối cùng. Cơ hội cho dân ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp ta phải làm nhanh!”[3, tr.334] Đến hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng tháng 3-1945, dự đoán của ta về cách mạng cụ thể rõ ràng và chính xác hơn. Đảng cho rằng, cuộc đảo chính Pháp - Nhật làm cho cuộc khủng hoảng chính trị thêm sâu sắc. Tuy vậy, những điều kiện khởi nghĩa chưa thật chín muồi. Những cơ hội tốt đang giúp cho những điều kiện khởi nghĩa mau chín muồi. Ba cơ hội đó là: a. Chính trị khủng hoảng (quân thù không rảnh tay đối phó với cách mạng). b. Nạn đói ghê gớm (quần chúng cách mạng oán ghét quân cướp nước). c. Chiến tranh đến giai đoạn quyết liệt (Đồng minh sẽ đổ bộ vào Đông Dương đánh Nhật). Đảng dự kiến ba trường hợp, tạo thời cơ cho cách mạng bùng nổ: Cách mạng bùng nổ; Nhật mất nước; Quân Đồng minh vào Đông Dương. Đảng đặc biệt chú ý trường hợp quân Đồng minh vào Đông Dương, phải tính toán rất chu đáo khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật không phải là ta có thể phát động khởi nghĩa ngay tức khắc. Quân Đồng minh vào, mà ta khởi nghĩa ngay có thể Nhật chưa thật lúng túng, nó có thể tiến hành đàn áp. Quân Anh, Mỹ là quân đế quốc khi đổ bộ vào, ta khởi nghĩa nó có thể dừng lại cho quân cách mạng rồi mới tiến quân. Mượn Nhật diệt cộng sản, vừa tiến tới tiêu diệt Nhật, lập chính phủ bù nhìn tay sai. Quyết tâm chớp thời cơ, phát động tổng khởi nghĩa. Lý luận cách mạng cho biết, cuộc tổng khởi nghĩa chỉ có thể giành thắng lợi nếu Đảng lãnh đạo nắm vững nguyên lý chung của Mác - Lênin: không đùa với khởi nghĩa và khi thời cơ đến phải có quyết tâm cao, phát động quần chúng nổi dậy, phải liên tục tiến công giành thắng lợi từng giờ. Thời cơ và nguy cơ thường luôn đi liền với nhau. Khi thời cơ Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 xuất hiện, thì nguy cơ lớn cũng đến gần. 20 vạn quân Trung hoa dân quốc, công cụ của đế quốc Mỹ vào miền Bắc Đông Dương từ vĩ tuyến 16 trở ra và 1 vạn quân Anh đóng từ vĩ tuyến 16 trở vào với danh nghĩa tước vũ khí quân Nhật nhưng nuôi âm mưu chống phá cách mạng hoặc giúp Pháp trở lại, hoặc lập một chính quyền công cụ của chúng. Trong khi đó, chính phủ Đờ Gôn cũng ráo riết thực hiện khôi phục vị trí cũ của Pháp ở Đông Dương, bằng những hoạt động ngoại giao, cho sĩ quan nhảy dù và đưa tàn quân trước đây chạy trốn ra nước ngoài trở lại miền núi phía Bắc. Phải có quyết tâm rất cao, cao đến tột độ mới phát động quần chúng tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong bối cảnh lịch sử lúc đó. Lợi dụng được thời cơ sẽ tạo thế và lực mới để vượt qua nguy cơ. Đảng không thể chậm trễ phát động quần chúng vùng dậy tước vũ khí quân Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương giành lấy chính quyền từ tay Nhật, lật đổ bọn bù nhìn, “đứng ở địa vị làm chủ nước mình mà tiếp đón quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật” và dự kiến các biện pháp đối phó thích hợp. Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào (13 đến 15-8- 1945) quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa. Kiên quyết chớp thời cơ, Hội nghị chỉ rõ: “Tình thế vô cùng khẩn cấp. Tất cả mọi việc đều phải nhằm vào ba nguyên tắc: a. Tập trung - Tập trung lực lượng vào những việc chính. b. Thống nhất - Thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy. c. Kịp thời - kịp thời hành động không bỏ lỡ cơ hội”[4,tr.425]. Ngày 16 và 17-8-1945, Quốc dân đại hội họp đã tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng cộng sản Đông Dương, thông qua 10 chính sách lớn của Việt Minh, thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, Chính phủ cách mạng lâm thời do chủ tịch Hồ Chí Minh làm đứng đầu. Trong thư kêu gọi đồng bào cả nước Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà giải 110Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 108 phóng cho ta Chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”[4, tr.554]. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc Việt Nam nhất tề nổi dậy với ý chí dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng kiên quyết giành cho được độc lập. Từ đây cách mạng Việt Nam đã tiến đến bước nhảy vọt vĩ đại: Nhanh chóng chuyển từ khởi nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa. Cuộc tổng khởi nghĩa bắt đầu từ đêm 13 rạng ngày 14-8-1945, đánh dấu thời điểm mở đầu của cách mạng tháng Tám. Trong cách mạng tháng Tám, Đảng và mặt trận Việt Minh đã huy động nhanh chóng lực lượng đông đảo toàn dân tộc vào thời điểm quyết định. Tại những tỉnh, thành nhận được lệnh của Trung ương cũng như địa phương chưa nhận được lệnh tổng khởi nghĩa đều nổi dậy kịp thời. Từ ngày 14 đến 18-8-1945, hàng vạn nhân dân ở phần lớn làng, xã, huyện thuộc các tỉnh miền Bắc, miền Trung được huy động giành chính quyền. Hàng chục ngàn nhân dân được tổ chức, tập hợp tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở tỉnh lỵ đầu tiên: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam, Quảng Ngãi. Ngày 19-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hà Nội, hàng vạn quần chúng sau khi dự mít tinh đã rầm rộ xuống đường biểu tình, tuần hành và mau chóng tỏa đi các hướng chiếm Phủ Khâm sai, Tòa Thị chính, Trại lính bảo an, Sở cảnh sát và các công sở của chính quyền bù nhìn. Trước khí thế áp đảo của quần chúng khởi nghĩa hơn 1 vạn quân Nhật ở Hà Nội bị tê liệt, không dám chống cự. Chính quyền về tay nhân dân. Ngày 23-8-1945, khởi nghĩa giành thắng lợi ở Huế. Ở Nam Kỳ, ngay trong đêm 24-8-1945 các lực lượng khởi nghĩa của công nhân, nhân dân lao động, thanh niên với gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Ngày 25-8-1945 xứ ủy và Việt Minh Nam Bộ, Đảng bộ Việt Minh thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đã chỉ đạo nhân dân các vùng lân cận thuộc Gia Định, Tân An, Biên Hòa và đồng bào dân tộc thiểu số Khơme Nam Bộ làm cuộc mít tinh, biểu tình, tuần hành khổng lồ lật đổ chính quyền Phát xít Nhật và tay sai Nam Kỳ, làm chủ hoàn toàn thành phố. Đến ngày 25-8-1945, khi Trung ương Đảng, Chính phủ lâm thời, Tổng bộ Việt Minh và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã về đông đủ ở thủ đô Hà Nội chỉ đạo toàn quốc gấp rút hoàn thành Tổng khởi nghĩa. Khi các thành phố lớn và đa số các tỉnh trong cả nước đã khởi nghĩa giành được chính quyền, ổn định chính trị, xã hội, an ninh thì cách mạng tháng Tám căn bản thành công. Một số ít tỉnh còn tiếp tục khởi nghĩa cho đến cuối tháng 8-1945. Đầu tháng 9-1945, 4500 tù chính trị là các chiến sĩ cộng sản và chiến sĩ yêu nước cách mạng, bị giam ở nhà tù Côn Đảo nổi dậy phá bỏ chế độ nhà tù đế quốc, lập chính quyền cách mạng, làm chủ Côn Đảo. Trong cách mạng tháng Tám, bốn tỉnh lỵ biên giới phía Bắc Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu và thị xã Vĩnh Yên, Việt Minh không nắm được chính quyền, vì bị quân Tưởng và bọn phản động thân Tưởng, thân Nhật chiếm giữ từ trước. Còn tất cả các địa phương hơn 60 tỉnh, thành từ địa đầu Tổ quốc cho đến cực cuối phía Nam; từ Tây Nguyên cho đến các hải đảo, chính quyền đã về tay nhân dân, thống nhất đất nước. Cách mạng tháng Tám hoàn toàn thắng lợi, kết thúc vào ngày 2-9-1945, ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chí Minh thận trọng mà không do dự, quyết tâm mà không phiêu lưu. Cuộc tổng khởi nghĩa đã thắng lợi mà ít đổ máu. Đó là vì cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra đúng thời cơ chín muồi. Cuộc tổng khởi nghĩa thắng lợi là kết quả của trí tuệ, tài năng, thông minh, bình tĩnh, tinh thần quả cảm, kiên quyết và khôn khéo của nhân dân ta và của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đánh giá về thắng lợi và những ưu điểm của cách mạng tháng Tám, đồng chí Trường Chinh đã kết luận: “Cách mạng tháng Tám thắng lợi, một phần lớn là nhờ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhờ công tác tổ chức và chuẩn bị của Đảng và của Mặt trận Việt Minh trước khi khởi nghĩa”[2, tr.367] “Thắng lợi cách mạng không tự nó đến, phải chuẩn bị nó, giành lấy 111Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 109 nó. Đảng đã chuẩn bị chu đáo và đúng nguyên tắc để giành thắng lợi cho cách mạng. Song cách mạng thắng lợi không phải chỉ ở chỗ chuẩn bị chu đáo, mà còn ở chỗ nổ ra đúng lúc phải nổ. Mau lẹ, kịp thời, nổ ra đúng lúc phải nổ là một ưu điểm lớn của cách mạng tháng Tám” [2, tr.372]. Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình là một minh chứng hùng hồn rằng: Khởi nghĩa vũ trang không chỉ là một khoa học, mà đồng thời còn là một nghệ thuật, đòi hỏi sự nắm vững và tuân theo những quy luật hết sức chặt chẽ đòi hỏi sự khéo léo của lực lượng lãnh đạo cách mạng. Đó không chỉ là thắng lợi của đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn mà còn là thắng lợi của phương pháp cách mạng độc lập tự chủ và sáng tạo của Đảng và Hồ Chí Minh, thắng lợi của nghệ thuật khởi nghĩa dân tộc. KẾT LUẬN Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi lớn nhất trong suốt 15 năm (1930-1945) đấu tranh cách mạng của dân tộc ta. Đạt tới thắng lợi rực rỡ đó là nhờ tinh thần yêu nước, đoàn kết của nhân dân ta, nhờ Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quán triệt vận dụng sáng tạo vào nước ta lý luận tình thế cách mạng, điều kiện, thời cơ của chủ nghĩa Mác- Lênin. Đảng đã thường xuyên “bắt mạch” thời cuộc thế giới và trong nước, vừa giữ vững nguyên tắc, vừa linh hoạt nhạy bén trước tình thế, đưa ra những dự kiến tài tình về thời cơ tổng khởi nghĩa. Đảng ra sức chuẩn bị những điều kiện tinh thần và vật chất cho tổng khởi nghĩa, vừa tuân thủ quy luật chung vừa phát huy cao độ tính năng động, chủ động, sáng tạo. Đảng đã mau lẹ, kịp thời chớp lấy thời cơ thuận lợi khi Nhật đầu hàng, bằng trí tuệ, nghị lực cách mạng, tinh thần dũng cảm, huy động toàn bộ lực lượng chính trị, lực lượng vũ trang, lực lượmg toàn dân, toàn dân tộc để giành độc lập dân tộc, giành chính quyền toàn quốc trong thời gian ngắn. Trong hội nhập quốc tế ở thời kỳ mới của đất nước, việc tích cực, chủ động để không ngừng phát huy nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế là rất quan trọng và cấp thiết đối với mỗi tổ chức trong xã hội và từng người. Song phải thực hiện tốt phương châm ứng vạn biến, luôn nhạy bén phát hiện, mau lẹ chớp lấy và nắm chắc thời cơ, vận hội mới để góp phần đắc lực đưa đất nước phát triển vững chắc theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Đó cũng chính là con đường mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã trải nghiệm và cần được tiếp tục nghiên cứu vận dụng, phát triển với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo để phù hợp với bối cảnh quốc tế và tình hình đất nước ta hiện nay. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Mác - Ăngghen tuyển tập (1981), Tập 2, Nxb Sự thật, Hà Nội. [2]. Trường Chinh (1975), Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. [3]. Hồ Chí Minh tuyển tập (1980), Tập 1, Nxb Sự thật, Hà Nội. [4]. Văn kiện Đảng toàn tập (2000), Tập 7, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội. 112Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Lý Thị Thu Huyền và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 103(03): 103 - 110 110 SUMMARY SAY MORE ABOUT ANTICIPATED OPPORTUNITIES, BLINK OPPORTUNITIES ADVANCE TO THE GENERAL UPRISING TO SEIZE POWER IN THE AUGUST 1945 REVOLUTION Ly Thi Thu Huyen*, Doan Thi Yen College of Sciences – TNU History of the revolution in the world have proven successful revolution want to have the opportunity. Opportunities is very precious and rare, but the opportunity will go away if the revolution have not full convergence conditions needed to actively grasp retrieve it. The victory of the August Revolution 1945 had shown acumen of the party; manifestations the spirit of independence, autonomy and creativity of the Party, the people and the armed forces in process the preparation and conduct of general uprising to seize power. So can be affirmed, the preparedness about the policy and force, accurately predict opportunities, quickly seize opportunities, which is one of the secrets of the Vietnamese revolutionary leader of the Communist Party production and revolutionary leader Ho Chi Minh City in August 1945. Key words: opportunities, anticipated opportunities, blink opportunities, the August Revolution Ngày nhận bài: 02/11/2012, ngày phản biện:22/11/2012, ngày duyệt đăng:26/3/2013 * Tel: 0977 022982, Email: thuhuyenly@gmail.com 113Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_38557_42106_208201382853103_5959_2052043.pdf
Tài liệu liên quan