Bản thể luận trong tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm

Ngô Thì Nhậm là nhân vật lịch sử nổi bật của Việt Nam thế kỷ XVIII. Cũng như nhiều nho sĩ đương thời, Ngô Thì Nhậm đã quan tâm đến một số vấn đề chính trị - xã hội, coi đó là nền tảng cho tư tưởng và phương châm xử thế của mình. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả muốn chỉ rõ quan niệm của Ngô Thì Nhậm về bản thể luận - một vấn đề không mới trong lịch sử triết học, nhưng được nhìn nhận dưới góc độ “Tam giáo hòa đồng”. Tư tưởng này thể hiện rõ sự kế thừa quan niệm về bản thể của Lý học Tống Nho và Trúc Lâm Tam Tổ. Ngô Thì Nhậm coi bản thể của thế giới là Thái cực, Âm Dương, Đạo và Không. Bên cạnh đó, Ngô Thì Nhậm còn xem xét sự tồn tại của thế giới là vô cùng, vô tận, thống nhất trong đa dạng. Mặc dù, không vượt ra khỏi lập trường duy tâm khách quan của Lý học Tống Nho, nhưng khác với những người đi trước, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra cái nhìn mới về sự dung thông tam giáo trên lập trường Nho giáo.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 08/03/2022 | Lượt xem: 230 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bản thể luận trong tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ngô Thị Mây Ước Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 145 - 149 145 BẢN THỂ LUẬN TRONG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA NGÔ THÌ NHẬM Ngô Thị Mây Ước* Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Ngô Thì Nhậm là nhân vật lịch sử nổi bật của Việt Nam thế kỷ XVIII. Cũng như nhiều nho sĩ đương thời, Ngô Thì Nhậm đã quan tâm đến một số vấn đề chính trị - xã hội, coi đó là nền tảng cho tư tưởng và phương châm xử thế của mình. Trong khuôn khổ bài viết, tác giả muốn chỉ rõ quan niệm của Ngô Thì Nhậm về bản thể luận - một vấn đề không mới trong lịch sử triết học, nhưng được nhìn nhận dưới góc độ “Tam giáo hòa đồng”. Tư tưởng này thể hiện rõ sự kế thừa quan niệm về bản thể của Lý học Tống Nho và Trúc Lâm Tam Tổ. Ngô Thì Nhậm coi bản thể của thế giới là Thái cực, Âm Dương, Đạo và Không. Bên cạnh đó, Ngô Thì Nhậm còn xem xét sự tồn tại của thế giới là vô cùng, vô tận, thống nhất trong đa dạng. Mặc dù, không vượt ra khỏi lập trường duy tâm khách quan của Lý học Tống Nho, nhưng khác với những người đi trước, Ngô Thì Nhậm đã đưa ra cái nhìn mới về sự dung thông tam giáo trên lập trường Nho giáo. Từ khóa: Ngô Thì Nhậm, tư tưởng Việt Nam, thế kỷ XVIII, bản thể luận, triết học. Tư tưởng triết học của Ngô Thì Nhậm hình thành và phát triển trong thời kỳ đầy biến động của lịch sử Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII. Nó phản ánh nỗi băn khoăn, trăn trở về thời cuộc của một tầng lớp nho sĩ đang loay hoay tìm kiếm một giải pháp, một lối thoát trong sự bất lực của hệ tư tưởng Nho giáo. Nhằm tạo ra cho mình con đường đi phù hợp với thời cuộc, Ngô Thì Nhậm đã tìm lối thoát trong xu hướng “Tam giáo hòa đồng”.* Nghiên cứu triết học Ngô Thì Nhậm, trước hết phải tìm hiểu những tư tưởng về bản thể. Theo nghĩa gốc (theo tiếng Hán) thì “Bản” là gốc, “Thể” là nguyên chất, chất ban đầu chứa trong vạn vật. Vậy, bản thể là chất ban đầu, là gốc rễ, khởi nguyên, là cội nguồn căn bản nhất của mọi sự vật. Theo tiếng Hy Lạp, bản thể luận là khoa học về tồn tại (tồn tại của thế giới). Tư tưởng về bản thể luận của Ngô Thì Nhậm vừa chịu ảnh hưởng của tư tưởng Lý học Tống Nho, vừa kế thừa những quan điểm triết học của Thiền phái Trúc Lâm thời Trần. Tuy nhiên, là một nhà nho yêu nước và thức thời, Ngô Thì Nhậm không tiếp thu một cách rập khuôn, mà còn có những nhận thức mới, phù hợp với thời cuộc. Vì vậy, bản thể luận của Ngô Thì Nhậm thể hiện rất rõ xu hướng hòa đồng Nho - Phật - Đạo. * Email: mayuoc83@gmail.com Chu Hy (1130 - 1200) đại biểu xuất sắc nhất của Lý học Tống Nho và cũng là người có ảnh hưởng nhiều nhất đến tư tưởng của các nhà nho Việt Nam đã tổng hợp học thuyết “Thái cực” của Chu Đôn Di, tư tưởng về “lý” và “khí” của Trình Di, để phát triển lên trình độ mới cao hơn. Theo Chu Hy, Thái cực bao hàm “lý” và “khí”, trong đó, lý có trước và khí có sau. “Lý” được coi là Đạo, là hình nhi thượng, là gốc sinh ra vạn vật. Khí là thuộc hình nhi hạ, là khí cụ, là chất liệu để tạo thành sự vật. “Lý” có trong mọi sự vật, sự vật nào thì “lý” ấy và sự tồn tại của “lý” trong sự vật là khách quan, “đạo lý sở dĩ nhiên” [2, tr.556]. Nhìn chung, quan niệm về nguồn gốc thế giới của các nhà Lý học Tống Nho mang tính duy tâm khách quan. Vì vậy, thật dễ hiểu khi quan niệm về bản thể của Ngô Thì Nhậm cũng như của các nhà Nho đương thời không thể vượt ra ngoài các quan điểm về Âm dương, Thái cực, Trời Trên cơ sở kế thừa quan điểm của Lý học Tống Nho, Ngô Thì Nhậm đã nhiều lần đề cập đến “Thái cực”, “Âm dương” và Trời. Trong bài Ký đình thuỷ nhất, ông viết: “Số của trời đất bắt đầu từ một hội nguyên; lý của âm dương trước hết ở một khuyên thái cực. Số “một” là nơi hoá công chứa cái “vô tận” và thánh nhân chứa đựng cái không bao giờ cạn kiệt”, (Thiên địa chi số, thuỷ ư nhất nguyên, âm dương chi lý, thuỷ ư nhất khuyên. Nhất giả hoá công sở dĩ tàng vô tận, thánh Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngô Thị Mây Ước Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 145 - 149 146 nhân sở dĩ sừ bất kiệt) [3, tr.445]. Ngô Thì Nhậm đã tiếp thu quan niệm của Chu Hy về sự thống nhất của thế giới ở Thái cực, ở “số một”. Vì thế, “Gộp muôn số thành một, hợp những cái khác nhau thành xâu, lý số âm dương của trời đất đều ở đó, nên mới có câu: Trời được “một” thì trong, đất được “một” thì yên, thánh nhân được “một” thì thiên hạ trị bình” (Hội vạn vu nhất, hợp thù vu quán, thiên địa âm dương chi lý số tại thị yên. Cố viết thiên đắc nhất nhi thanh, địa đắc nhất nhi ninh, thánh nhân đắc nhất nhi thiên hạ) [3, tr.446]. Có thể thấy, quan niệm của Ngô Thì Nhậm đã không thể vượt qua được lập trường duy tâm khách quan của Lý học Tống Nho. Mặc dù, là một nhà Nho, nhưng do thời thế nên Ngô Thì Nhậm lại có khuynh hướng Phật giáo. Bởi vậy, quan niệm về bản thể của ông ít nhiều chịu ảnh hưởng của Thiền Tông Việt Nam. Theo Trần Thái Tông (1218 - 1277) thì “bản thể, khởi nguyên, cội nguồn của vũ trụ, vạn vật chính là Không. “Không” chính là “hư” và ngược lại “hư” cũng chính là “Không”. Trong tác phẩm Khóa hư lục, Trần Thái Tông đã khẳng định: “Nguyên lai, tứ đại vốn là không, ngũ uẩn cũng chẳng có. Từ không khởi ra hư vọng, từ hư vọng thành ra sắc tướng mà sắc tướng là từ cái chân không” [7, tr.34]. Ở Trần Thái Tông, bản thể còn là Phật tính, Chân tâm, cũng được gọi là Chân như, tức cái tính chân thực, chưa hề biến cải, chẳng sinh chẳng diệt, từ mầm thiện, mầm giác ngộ trong mỗi con người. Ta cũng bắt gặp quan niệm về bản thể Không trong tư tưởng của Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230 - 1291), nhà Thiền học xuất sắc của thời Trần. Tuệ Trung viết: “Bản thể tròn đầy mãi mãi là điều tự nhiên” (Bản thể như như chỉ tự nhiên) [1, tr.253]. Theo Tuệ Trung, bản thể “như như” nghĩa là bản thể lúc nào cũng như thế, là như nhiên, tự nhiên, không cần phải ngược xuôi tìm ở đâu cả. Bản thể muôn đời cứ như thế, không tăng không giảm, không thêm không bớt, không mất không được, nên ông mới nói: “Bản thể của nó cứ như thế và không tịch” (Bản thể như như tự không tịch) [1, tr.272]. Chỗ khác Tuệ Trung lại viết: “Phiền não và bồ đề vốn chẳng phải là hai, Chân như và vọng niệm hết thảy đều là không” (Phiền não bồ đề nguyên bất nhị, Chân như vọng niệm tổng giai không) Phiền não, Bồ đề hay chân như, vọng niệm đều chung một tính Không, cũng như mọi sự vật trong thế giới đều quy về Không [1, tr.248-249]. Ngô Thì Nhậm đã kế thừa quan niệm coi bản thể của thế giới là Không từ Trần Thái Tông và Tuệ Trung. Trong tác phẩm Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh, Ngô Thì Nhậm trình bày quan điểm thiền của mình bằng 24 thanh. Những quan điểm này (24 thanh) được coi là những nguyên lý đầu tiên, nguyên thủy, phát ra từ Đạo lớn, lưu hành, phát tán khắp nơi. Theo Ngô Thì Nhậm thì Thanh là giáo lý của con người, cũng tương ứng 24 khí của trời đất. Thanh Không là thanh đầu tiên của 24 thanh âm, được coi là bản thể của thế giới. Mọi thứ đi ra từ cái Không và cũng trở về với cái Không. Trong Ẩn thanh (Thanh ẩn), Hoà thượng Hải Âu đã giải thích cho quan điểm của Ngô Thì Nhậm như sau: “Xuân đến thì hoa nở, thu về thì hoa rụng, đó là sự sinh ra và mất đi của vật. Suy cho cùng, thì đều đi đến chỗ không có cái gì” (Xuân đáo hoa khai, thu đáo hoa lạc, vật chi sinh diệt dã. Cực cầu chi, tổng quy ư vô hà hữu chi hương) [5, tr.159]. Nhìn từ góc độ Phật học, Không là thể tính của vạn vật, bất sinh bất diệt, không từ đâu tới, cũng không đi về đâu, không thể diễn đạt được bằng ngôn ngữ. Sự vật trong thế giới hiện tượng đều tuân theo luật vô thường nên không phải là thật. Mọi sự vật dù lớn hay nhỏ đều do nhân duyên hòa hợp mà thành, nên nó không có thực thể, không có tự tính, không thể tồn tại tự bản thân chúng. Do đó “không có cái gì” không phải là trống không. Ngô Thì Nhậm đã kế thừa tính Không của Phật giáo cũng như của Thiền tông Việt Nam. Ngô Thì Nhậm không những đã tiếp thu tư tưởng tính Không của Thiền tông mà còn có bước phát triển mới. Với chủ trương “khu dĩ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngô Thị Mây Ước Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 145 - 149 147 Thích nhập Nho”, Ngô Thì Nhậm cho rằng, Không không chỉ là thể tính của vạn vật mà còn là Thái cực. Vạn vật của vũ trụ suy đến cùng đều sinh ra từ Thái cực. Ngô Thì Nhậm còn chịu ảnh hưởng quan niệm về “Đạo” của Lão Tử. Tiếp thu tư tưởng về Đạo rộng lớn, bao la mà cũng rất nhỏ bé, ẩn vi,... Ngô Thì Nhậm cho rằng: “Thái cực tức là Đạo, tinh thần và hình thể của Thái cực là những cái rộng lớn và ẩn vi của Đạo” (Thái cực giả đạo dã, tính tình hình thể giả, Đạo chi ẩn chất dã) [3, tr.834]. Đạo cũng là những cái thể hiện ngay trong bản thân mỗi sự vật, là nguồn gốc của vạn vật trong thế giới. Trong Lời tựa của Đại Chân Viên Giác Thanh viết: “Cái lớn lao của Đạo, xuất phát từ trời, rồi lưu hành vũ trụ, thể hiện ra ở vạn vật. Tuy cái thể thì như nhau nhưng cái dụng thì khác, cũng như cùng một gốc mà vạn cành riêng biệt. Đường đi của nó dường như khác nẻo, nhưng thâu tóm lại đến tận gốc, tới chỗ cực kỳ tinh vi thiết yếu, thì vẫn không vượt ra khỏi cái lý lẽ ấy” (Đạo chi đại thiên xuất ư thiên, lưu hành ư vũ trụ, kiến ư vạn vật. Đồng thể dị dụng, nhất thể vạn thù. Kỳ đồ triệt nhược tương kỳ, nhi thống tông hội nguyên, đáo tinh thiết cực chi xứ, tổng bất việt giá cả đạo lý) [5, tr.37]. Vì thế, Đạo rất gần gũi và chỉ có duy nhất Đạo. Ngô Thì Nhậm viết: “Đạo rộng hay kín chỉ có một, kể chi Phật hay Tiên, “nói hay lặng, hành hay tàng” không bị che lấp, đó là Đạo” (Đạo phí ẩn nhất như, vô luận vi Thích vi Tiên, ná ngữ mặc hành tàng, bất truất xứ thị Đạo) [4, tr.505]. Bên cạnh việc quan niệm coi Thái cực, Âm dương, Chân như, Đạo là nguồn gốc của vũ trụ, Ngô Thì Nhậm cũng bàn đến hoá công, trời. Ông cho rằng, bản thể của vũ trụ còn là hoá công, chính hoá công đã làm cho vũ trụ có hình hài tương đối hoàn chỉnh như hiện nay. Ông nói: “Sự sắp đặt phần nhiều do hoá công Trái đất xưa nay là cái bè hỗn độn” (Ai bài tối thị hoá công đa Đại khối do lai hỗn độn xà) [4, tr.57] Thế giới còn khởi nguồn từ trời, nhờ có trời mà vạn vật được sinh sôi, nảy nở và có trật tự: “Bốn biển vòng quanh khắp đất, lai láng mênh mông, nhưng khởi nguồn từ trời” (Tứ hải cắng địa, uông dương bành bái, nhi nguyên vu thiên) [3, tr.771]. Trời quy định vạn vật, thế sự và cả việc hưng vong của xã hội trong mỗi giai đoạn lịch sử: “Thế sự đổi thay do lòng trời sắp đặt, chứ sức người thì làm sao có thể làm nổi” (Sự thế suy vi thử nãi thiên tâm vị hối quá, phi nhân lực phi năng sở năng cập dã) [3, tr.728]. Đồng thời, “việc hưng vong, dài ngắn hay kỳ hạn, thời vận, quả thực là do trời định cả, không phải do sức người có thể làm được” (Nhiên nhi phế hưng tu đoản, kỳ vận thực thiên sở thụ, phi phù nhân chi sở năng vi dã) [4, tr.632]. Như vậy, quan điểm về bản thể của Ngô Thì Nhậm vừa chịu ảnh hưởng của Lý học Tống Nho, vừa chịu ảnh hưởng của quan điểm bản thể Không của Thiền tông. Ngoài ra, Ngô Thì Nhậm còn thể hiện quan điểm dung hoà Tam giáo. Ngô Thì Nhậm đã lấy cái Không là khởi nguyên, là điểm xuất phát, Không còn là Thái cực, từ đó xuất hiện trời đất và trời đất vận hành sinh ra bốn mùa, tạo nên một quy luật khách quan vốn có của vũ trụ. Ông đề cao vai trò của Đạo, sự lưu hành của Đạo trong trời đất, nhờ có Đạo mà vạn vật mới vận hành và phát tán được. Ngô Thì Nhậm không chỉ là người đầu tiên hướng đến sự dung hoà Tam giáo mà còn tạo điểm khác biệt. Không giống với các bậc tiền bối dung thông Tam giáo trên cơ sở Phật giáo, sự dung thông Tam giáo của Ngô Thì Nhậm trên cơ sở Nho giáo. Vì vậy, những kiến giải độc đáo trên tinh thần hoà đồng Tam giáo của ông giúp cho Thiền Tông Việt Nam có bước phát triển mới. Ngô Thì Nhậm không chỉ giải thích nguyên nhân sự xuất hiện của thế giới mà còn hướng đến sự quan sát thế giới xung quanh để lý giải sự tồn tại của thế giới. Ở điểm này, Ngô Thì Nhậm cũng giống như nhiều nhà triết học phương Đông khác, đều có thế giới quan triết học tự nhiên và ít nhiều mang tính tự phát. Theo Ngô Thì Nhậm, sự tồn tại của thế giới là vô cùng vô tận, vô bờ vô bến và sự tồn tại của con người trong thế giới giống như một hạt nhân nhỏ bé. Ông viết: “Vũ trụ thái hoà, vô bờ vô bến” Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngô Thị Mây Ước Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 145 - 149 148 (Thái hoà vũ trụ vô cương giới) [3, tr.188]. Ở chỗ khác, Ngô Thì Nhậm lại viết: “Trời đất là vô cùng, [sinh mệnh người ta] như hạt gạo trong kho” (Càn khôn vô cùng mễ tại thương) [3, tr.185]. Trong thế giới vô cùng tận đó, mọi sự vật, hiện tượng luôn tồn tại trong trạng thái vừa thống nhất, vừa đa dạng. Điều này được thể hiện khá rõ trong bài Ký đình tự mục, khi Ngô Thì Nhậm mượn hình ảnh cái đình để chỉ sự phong phú, đa dạng của các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới được hợp nhất trong đình: “Trời nhờ đình để sinh muôn vật, đất dùng đình để nuôi muôn loài, người lấy đình để cùng nhau tụ họp, mà muôn loài muôn vật thì đều là khách. Cho nên, nơi người ta cùng nhau tụ họp gọi là đình Có thể nói, trời đất là một toà nhà, mặt trời mặt trăng là đèn đuốc, núi sông là chái thềm. Người và vật đều là đồ dùng trong toà nhà; cỏ cây là những vật mà đèn đuốc soi tới, phong cảnh là những vật trong chái thềm. Những thứ đó đâu phải chỉ có đình này có? Cũng đâu phải đợi ta nói tới” (Thiên dĩ đình dục vạn vật, địa dĩ đình súc vạn loại, nhân dĩ đình tương tụ, nhi vạn vật vạn loại vi chi tân. Cố ngô nhân ư tương tụ chi xứ hữu đình Thiên địa nhất ốc lư dã, nhật nguyệt nhất đăng chúc dã, sơn xuyên nhất thiềm lưu dã, dân vật nhất ốc lư chi cụ dã, thảo thụ nhất đăng chúc chi khí dã, phong cảnh nhất thiềm lưu chi cụ dã. Hà chỉ vu thử đình, diệc hà đãi hồ ngô chi vân vân) [3, tr.445-447]. Có thể thấy, quan niệm về thế giới của được Ngô Thì Nhậm rất gần với quan điểm biện chứng của triết học Mác: tính thống nhất chân chính của thế giới là ở tính vật chất của nó và sự tồn tại của sự vật luôn vận động không ngừng. Tuy nhiên, quan điểm của Ngô Thì Nhậm lại không nhất quán. Theo ông, các sự vật, hiện tượng lại bị chi phối bởi một cái cao nhất, cái khởi nguyên là Đạo. Ông nói: “Nhất là tinh nhất, không tạp, là hợp tất cả muôn việc trong thiên hạ lại làm một Đạo ở trong khoảng trời đất, tản ra thì có hàng vạn khía cạnh khác nhau, nhưng thâu tóm lại thì không có hai khía” (Nhất giả tinh nhất bất tạp, hợp thiên hạ vạn sự nhi bất chi Đạo tại thiên địa gian, tán chi tắc hữu vạn thù, thống chi tắc vô nhị trí) [5, tr.271-272]. Xuất phát từ sự quan sát các sự vật, hiện tượng xung quanh, đôi khi chúng ta thấy Ngô Thì Nhậm nhìn sự tồn tại của thế giới theo hệ thống của ba ngôi: Trời - Đất - Người. Trong bài Viết cho em thứ hai là Học Tốn, có đoạn viết: “Văn chương của Thái cực phát lộ ra ở phía trên là mặt trời, trăng sao, ở giữa là kinh truyện của Thánh hiền, ở dưới là núi non, sông bể” (Thái cực văn chương, thượng chứ vi nhật nguyệt tinh thần, trung phát vi thánh hiền kinh truyện, hạ biện vi xuyên nhạc hà hải) [3, tr.837]. Trong bài Phú ánh trăng ngỡ là ánh tuyết, ông viết: “Ta đi một mình lòng ta mới hiểu sao: bầu vũ trụ còn lẫn lộn chưa phân biệt rõ. Ở dưới đâu là sông là núi, ở trên đâu là trăng là sao? Ở khoảng giữa lấy dáng gì là vật, lấy hình gì là người? Lại làm gì có trên, có dưới, có khoảng giữa, khiến cho sự vật theo từng loại mà tụ, mà phân” (Hành độc hội ư dư tâm hề, vũ trụ hồng hoang chi vị phân, Hạ thuỳ vi xuyên nhạc hề, thượng thuỳ vi tinh thần, Trung dĩ hà trạng vi vật hề, dĩ hà hình vi nhân, Hựu hà vi hồ thượng trung hạ hề, sử các loại tụ nhi quần phân) [3, tr.396]. Cũng có lúc, Ngô Thì Nhậm lại hình dung sự tồn tại của thế giới theo “ lục hợp” tức là Trời - Đất - Người và bốn phương hoà hợp. Tư tưởng trên của ông không vượt ra khỏi triết học tự nhiên, nhưng không thấy có trong triết học Tống Nho mà có trong tư tưởng của Hàn Dũ đời Đường. Theo Hàn Dũ, vũ trụ, vạn vật gồm có ba lĩnh vực được chia thành ba cõi nhưng có quan hệ mật thiết với nhau, trời ở trên, đất ở dưới và người ở giữa: “Hình ra ở trên, nhật, nguyệt, tinh, thần, đều là trời; hình ra ở dưới, thảo, mộc, sơn, xuyên, đều là đất; sống ở khoảng giữa trời đất thì di dịch, cầm thú đều là người” [2, tr.485]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Ngô Thị Mây Ước Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 91(03): 145 - 149 149 Trên bình diện tư tưởng, những triết lý của Ngô Thì Nhậm về bản thể đã thể hiện rõ sự linh hoạt và sáng tạo trong cách kế thừa, chọn lọc những tinh hoa của nhân loại. Ông không bê nguyên hệ thống các phạm trù, khái niệm của Nho, Phật, Đạo mà chỉ sử dụng các phạm trù đó như một phương tiện để giải thích cho tư tưởng và hành động của mình. Sau khi vương triều Tây Sơn suy vi, Ngô Thì Nhậm vừa mất Người - Tri - Kỷ, vừa mất niềm tin tuyệt đối vào đạo Nho. Đây là giai đoạn ông đem toàn bộ tâm huyết của mình nghiên cứu về Phật giáo, đặc biệt là Thiền phái Trúc Lâm. Từ một nhà nho nhiệt tín, một nhà chính trị nhiệt tín, ông trở thành đệ tứ tổ của Thiền tông Việt Nam khi “Phong khí nhà Thiền có vẻ vắng lặng. Cái tuệ giác ở năm trăm năm về trước nhờ có Tân thanh của Ngô Thì Nhậm mới lại được phát huy” [6, tr.210]. Kế thừa phạm trù “Thái cực”, “Âm Dương”, “Trời” của Lý học Tống Nho, phạm trù “Không”, “Chân như” của Phật giáo và phạm trù “Đạo” của Lão Tử, Ngô Thì Nhậm đã xây dựng nên những quan điểm triết học mang khuynh hướng mới trên tinh thần “Tam giáo hòa đồng”, mặc dù, tính biện chứng còn thô sơ, chất phác. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Nguyễn Huệ Chi (1988), Thơ văn Lý - Trần, tập 2, quyển Thượng, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2] Doãn Chính (1997), Đại cương triết học Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [3] Lâm Giang (2003), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 1, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [4] Lâm Giang (2003), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [5] Lâm Giang (2003), Ngô Thì Nhậm toàn tập, tập 5, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [6] Nguyễn Hùng Hậu (1997), Lược khảo tư tưởng thiền Trúc Lâm Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [7] Trần Lê Sáng (2000), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. SUMMARY THE ONTOLOGY IN THE PHILOSOPHICAL THOUGHT OF NGO THI NHAM Ngo Thi May Uoc* College of Agriculture and Forestry - TNU NgoThi Nham was a prominent historical figure of Viet Nam in the eighteenth century. Like many other contemporary confucians, Ngo Thi Nham was interested in some of the political issues of the society, and he considered those his basic thought and treatment. Within the article, the author wants to specify the concept of Ngo Thi Nham about the ontology, an old problem in the history of philosophy, which was acknowledged as the “balance of three religions”. The thought was clearly about the concept of Ly and Tong confucian and Truc Lam Tam To. Ngo Thi Nham regarded the nature of the world as Tai Chi, Yin and Yang, Religion and Nothing. In addition, Ngo Thi Nham supposed that the existence of the world was infinite, timeless and unified in diversity. Although he did not pass beyond the objective idealist stance of “Ly hoc Tong Nho”, he had launched a new perspective on the three religions based on the Confucian stance. Key words: Ngo Thi Nham, thought Vietnam, XVIII century, ontology, philosophical. * Email: mayuoc83@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_33443_37263_792012101230912012_split_23_4797_2052329.pdf