Bài thảo luận Marketing

Phần A Lý Thuyết 1. Khái niệm và đặc điểm a, Khái niệm: Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục dích có thể là khác với mục đích nghiên cứu của chúng ta. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chưa xử lý (còn gọi là dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Như vậy, dữ liệu thứ cấp không phải do người nghiên cứu trực tiếp thu thập b, Đặc điểm: - Ưu điểm: tiết kiệm tiền bạc, thời gian. - Nhược điểm: + Số liệu thứ cấp này đã được thu thập cho các nghiên cứu với các mục đích khác và có thể hoàn toàn không hợp với vấn đề của chúng ta; khó phân loại dữ liệu; các biến số, đơn vị đo lường có thể khác nhau . + Dữ liệu thứ cấp thường đã qua xử lý nên khó đánh giá được mức độ chính xác, mức độ tin cậy của nguồn dữ liệu Vì vậy trách nhiệm của người nghiên cứu là phải đảm bảo tính chính xác của dữ liệu, phải kiểm tra xem các kết quả nghiên cứu của người khác là dựa vào dữ liệu thứ cấp hay sơ cấp. Vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra dữ liệu gốc. 2. Các loại dữ liệu thứ cấp Dữ liệu thứ cấp có đặc điểm là chỉ cung cấp các thông tin mô tả tình hình, chỉ rõ quy mô của hiện tượng chứ chưa thể hiện được bản chất hoặc các mối liên hệ bên trong của hiện tượng nghiên cứu. Vì dữ liệu thứ cấp, dù thu thập từ bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp, nó cũng là những thông tin đã được công bố nên thiếu tính cập nhật, đôi khi thiếu chính xác và không đầy đủ. Tuy nhiên, dữ liệu thứ cấp cũng đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu marketing do các lý do: - Các dữ liệu thứ cấp có thể giúp người quyết định đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề trong những trường hợp thực hiện những nghiên cứu mà các dữ liệu thứ cấp là phù hợp mà không cần thiết phải có các dữ liệu sơ cấp. Ví dụ như các nghiên cứu thăm dò hoặc nghiên cứu mô tả. - Ngay cả khi dữ liệu thứ cấp không giúp ích cho việc ra quyết định thì nó vẫn rất quan trọng vì nó giúp xác định và hình thành các giả thiết về các giải pháp cho vấn đề. Nó là cơ sở để hoạch định việc thu thập các dữ liệu sơ cấp; cũng như được sử dụng để xác định tổng thể chọn mẫu và thực hiện chọn mẫu để thu thập dữ liệu sơ cấp.

doc20 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 5099 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài thảo luận Marketing, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần A Lý Thuyết 1. Khái niệm và đặc điểm a, Khái niệm: Dữ liệu thứ cấp là dữ liệu do người khác thu thập, sử dụng cho các mục dích có thể là khác với mục đích nghiên cứu của chúng ta. Dữ liệu thứ cấp có thể là dữ liệu chưa xử lý (còn gọi là dữ liệu thô) hoặc dữ liệu đã xử lý. Như vậy, dữ liệu thứ cấp không phải do người nghiên cứu trực tiếp thu thập b, Đặc điểm: - Ưu điểm: tiết kiệm tiền bạc, thời gian. - Nhược điểm: + Số liệu thứ cấp này đã được thu thập cho các nghiên cứu với các mục đích khác và có thể hoàn toàn không hợp với vấn đề của chúng ta; khó phân loại dữ liệu; các biến số, đơn vị đo lường có thể khác nhau... + Dữ liệu thứ cấp thường đã qua xử lý nên khó đánh giá được mức độ chính xác, mức độ tin cậy của nguồn dữ liệu Vì vậy trách nhiệm của người nghiên cứu là phải đảm bảo tính chính xác của dữ liệu, phải kiểm tra xem các kết quả nghiên cứu của người khác là dựa vào dữ liệu thứ cấp hay sơ cấp. Vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra dữ liệu gốc. 2. Các loại dữ liệu thứ cấp Dữ liệu thứ cấp có đặc điểm là chỉ cung cấp các thông tin mô tả tình hình, chỉ rõ quy mô của hiện tượng chứ chưa thể hiện được bản chất hoặc các mối liên hệ bên trong của hiện tượng nghiên cứu. Vì dữ liệu thứ cấp, dù thu thập từ bên trong hoặc bên ngoài doanh nghiệp, nó cũng là những thông tin đã được công bố nên thiếu tính cập nhật, đôi khi thiếu chính xác và không đầy đủ. Tuy nhiên, dữ liệu thứ cấp cũng đóng một vai trò quan trọng trong nghiên cứu marketing do các lý do: - Các dữ liệu thứ cấp có thể giúp người quyết định đưa ra giải pháp để giải quyết vấn đề trong những trường hợp thực hiện những nghiên cứu mà các dữ liệu thứ cấp là phù hợp mà không cần thiết phải có các dữ liệu sơ cấp. Ví dụ như các nghiên cứu thăm dò hoặc nghiên cứu mô tả. - Ngay cả khi dữ liệu thứ cấp không giúp ích cho việc ra quyết định thì nó vẫn rất quan trọng vì nó giúp xác định và hình thành các giả thiết về các giải pháp cho vấn đề. Nó là cơ sở để hoạch định việc thu thập các dữ liệu sơ cấp; cũng như được sử dụng để xác định tổng thể chọn mẫu và thực hiện chọn mẫu để thu thập dữ liệu sơ cấp. Dữ liệu thứ cấp bên trong Khi tìm kiếm dữ liệu thứ cấp nên bắt đầu từ các nguồn bên trong tổ chức. Hầu hết các tổ chức đều có những nguồn thông tin rất phong phú, vì vậy có những dữ liệu có thể sử dụng ngay lập tức. Chẳng hạn như dữ liệu về doanh thu bán hàng và chi phí bán hàng và chi phí bán hàng hay các chi phí khác sẽ được cung cấp đầy đủ thông qua các bảng báo cáo thu thập của doanh nghiệp. Những thông tin khác có thể tìm kiếm lâu hơn nhưng thật sự không khó khăn khi thu thập loại dữ liệu này. Có hai thuận lợi chính khi sử dụng dữ liệu thứ cấp bên trong doanh nghiệp là thu thập được một cách dễ dàng và có thể không tốn kém chi phí. Để tạo ra cơ sở dữ liệu thứ cấp bên trong, doanh nghiệp cần tổ tức cơ sở dữ liệu marketing (DataMarketing). Đó là việc sử dụng máy tính để nắm bắt và theo dõi các các hồ sơ khách hàng và chi tiết mua hàng. Thông tin thứ cấp này phục vụ như một nền tảng cho các chương trình nghiên cứu marketing hoặc như là nguồn thông tin nội bộ liên quan đến hành vi khách hàng trong nhiều doanh nghiệp. Dữ liệu thứ cấp bên ngoài Những nguồn dữ liệu thứ cấp bên ngoài là các tài liệu đã xuất bản có được từ các nghiệp đoàn, chính phủ, chính quyền địa phương, các tổ chức phi chính phủ (NGO) , các hiệp hội thương mại, các tổ chức chuyên môn, các ấn phẩm thương mại, các tổ chức nghiên cứu Marketing chuyên nghiệp ....sự phát triển của mạng thông tin toàn cầu đã tạo nên một nguồn dữ liệu vô cùng phong phú và đa dạng, đó là các dữ liệu thu thập từ internet. Trong thực tế, có rất nhiều dữ liệu thứ cấp có thể sử dụng được và có thể tìm kiếm từ nhiều nguồn khác nhau. Vì vậy, điều quan trọng là phải phân loại nguồn dữ liệu để có một phương thức tìm kiếm thích hợp. 3. Các tiêu chuẩn đánh giá dữ liệu thứ cấp Tính cụ thể Dữ liệu thứ cấp phải bảo đảm tính cụ thể, có nghĩa là nó phải rõ ràng, phù hợp với mục tiêu nghiên cứu, có thể hỗ trợ cho việc phân tích nhận diện vấn đề hay mô tả vấn đề nghiên cứu. Tính cụ thể còn đòi hỏi sự rõ ràng về nguồn thu tập dữ liệu cũng như hiệu quả của dữ liệu (so sánh lợi ích của dữ liệu với chi phí thu thập) Tính chính xác của dữ liệu Người nghiên cứu phải xác định dữ liệu có đủ chính xác phục vụ cho việc nghiên cứu hay không. Dữ liệu thứ cấp có thể có sai số (hay không chính xác), điều này phụ thuộc vào nguồn cung cấp dữ liệu. Vì vậy, uy tín của nhà cung cấp và độ tin cập của nguồn dữ liệu những tiêu chuẩn cần xem xét khi thu thập dữ liệu thứ cấp. Tính thời sự Nghiên cứu marketing đòi hỏi dữ liệu phải có tính thời sự (dữ liệu mới) vì giá trị của dữ liệu sẽ bị giảm qua thời gian. đó cũng là lý do vì sao các doanh nghiệp nghiên cứu marketing luôn cập nhập thông tin định kỳ, tạo ra nguồn thông tin có giá trị cao. Mục đích của dữ liệu được thu thập: Dữ liệu thu thập nhằm đáp ứng một số mục tiêu nghiên cứu đã xác định và giải đáp câu hỏi “Dữ liệu cần thu thập để làm gì?” Dữ liệu được thu thập phục vụ cho mục đích nghiên cứu cụ thể, vì các dữ liệu có thể phù hợp với mục tiêu nghiên cứu này nhưng lại có thể không phù hợp với trường hợp khác. 4. Phương pháp thu thập dữ liệu thứ cấp a. Phương pháp nghiên cứu định tính Phỏng vấn nhóm (Focus Groups) Là một cuộc phỏng vấn được tiến hành bởi một người điều khiển đã được tập huấn theo hướng không chính thức những rất linh hoạt với một nhóm người được phỏng vấn. Người điều khiển có thể hướng dẫn thảo luận nhóm. Mục đích của kỹ thuật này nhằm đạt được những hiểu biết sâu sắc vấn đề nghiên cứ bằng cách lắng nghe một nhóm người được chọn ra từ một thị trường mục tiêu phù hợp với những vấn đề mà người nghiên cứu đang quan tâm. Giá trị của phương pháp này ở chỗ những kết luận ngoài dự kiến thường đạt được từ nhừng ý kiến thảo luận tự do của nhóm. Thảo luận nhóm là một phương pháp nghiên cứu định tính quan trọng nhất và đang được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu marketing. *Đặc điểm Phương pháp phỏng vấn nhóm được tiến hành bằng cách tập hợp một nhóm 10 -12 người, nhóm ít hơn 8 người thì khó có thể tạo thành sự đa dạng của nhóm để tạo ra sự thành công trong thảo luận. Ngược lại, nhóm hơn 12 người là quá đông và không thể có một cuộc thảo luận sâu, ý kiến sẽ rất phân tán. Hơn nữa, các thành viên trong nhóm cần phải xem xét để lựa chọn ra theo một tiêu chuẩn nào đó tốt nhất là họ cần có kinh nghiệm về vấn đề đang được thảo luận. Thời gian thảo luận có thể kéo dài từ 1-3 giờ, thông thường trong khoản 1,5 – 2 giờ là tốt nhất và nên sử dụng máy ghi âm và video để ghi lại nội dung thảo luận. Người điều khiển có vai trò rất quan trọng trong sự thành công của kỹ thuật phỏng vấn nhóm tập trung vì đòi hỏi tối thiểu đối với người điếu khiển là phải có kỹ năng dẫn dắt chương trình, đưa được các vấn đề nào cần được thảo luận sau. Ngoài ra, người điều khiển còn đóng vai trò trung tâm trong phân tích và tổng hợp dữ liệu. Một số khả năng cần có của một người điều khiển là sự tử tế, thân thiện, thoải mái, hiểu biết hoàn hảo, linh hoạt (flexibility) và nhạy cảm đối với vấn đề thảo luận *Thủ tục chuẩn bị và thảo luận nhóm Xác định mục tiêu của vấn đề nghiên cứu. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu định tính Đặt câu hỏi thảo luận nhóm Phát triển đề cương của người điều khiển Tiến hành phỏng vấn nhóm Phân tích dữ liệu Kết luận và đề xuất Những dạng khác của nhóm thảo luận. Nhóm thảo luận hai chiều: Điều này cho phép một nhóm lăng nghe hoặc học hỏi một nhóm khác có liên hệ Nhóm thảo luận song đôi: là nhóm phỏng vấn được tiến hành bởi hai người điều khiển. Một người chịu trách nhiệm về tiến trình của buổi thảo luận (hình thức) còn người kia thì có trách nhiệm đảm bảo chắc chắn rằng có vấn đề cụ thể đang được thảo luận (nội dung) Nhóm thảo luận tay đôi: đây cũng là nhóm phỏng vấn có hai người điều khiển vơi vị trí ngược nhau về các vấn đề thảo luận. Điều này cho phép người nghiên cứu khai thác cả hai mặt của vấn đề cần thảo luận. Nhóm kết hợp người điều khiển và người trả lời: nhóm thảo luận cho phép người điều khiển nhờ người tham gia nhóm đóng vai trò là người điều khiển tạm thời để nâng cao sự linh hoạt của nhóm. Nhóm khách hàng tham gia: Khách hàng được mời thảo luận thành lập nhóm thảo luận, vai trò chủ yếu của họ là làm rõ các vấn đề thảo luận để tăng hiệu quả của phương pháp. Nhóm thảo luận nhỏ: những nhóm nhỏ này bao gồm người điều khiển cùng với từ 4-5 người tham gia phỏng vấn. Nhóm thảo luận bằng điện thoại: dùng điện thoại để thảo luận các vấn đề quan tâm giữa người nghiên cứu và nhóm. *Thuận lợi và bất lợi của nhóm thảo luận Nhóm thảo luận có nhiều thuận lợi hơn các phương pháp thu thập dữ liệu khác vì có thể thu thập dữ liệu đa dạng, có thể tập trung điều khiển để kích họ trả lời, tạo tâm lý an toàn và tự nhiên cho những người tham gia thảo luận, các dữ liệu nhờ đó thể thu thập một cách khách quan và mang tính khoa học. Tuy nhiên thảo luận nhóm cũng có một số bất lợi Ứng dụng sai: phỏng vấn nhóm có thể ứng dụng sai hay bị lạm dụng bằng việc xem xét kết quả như là một kết luận hơn là một sự thăm dò. Đánh giá sai: kết quả của thảo luận nhóm rất có thể bị đánh giá sai so với kỹ thuật phỏng vấn khác vì thành kiến của khách hàng cũng như người nghiên cứu. Điều khiển: thảo luận nhóm rất khó điều khiển do việc chọn ra những người điều khiển có tất cả kỹ năng mong muốn thì rất khó, và chất lượng của người phỏng vấn nhóm phụ thuộc rất lớn vào người điều khiển. Lộn xộn: bản chất của các câu trả lời hoàn toàn không theo một cấu trúc chính thức, do đó việc mã hóa, phân tích và tổng hợp dữ liệu rất khó khăn, xu hướng của dữ liệu khá lộn xộn. Không đại diện: Kết quả của thảo luận nhóm thì không đại diện cho tổng thể chung mà chỉ cho một mẫu nhóm được phỏng vấn. Các trường hợp có thể ứng dụng để thảo luận nhóm Định nghĩa về vấn đề một cách rõ ràng Thiết lập các phương án hành động Phát triển sự tiếp cận vấn đề. Đạt được các thông tin hữu ích trong thiết kế bảng câu hỏi Tạo ra các giả thiết và kiểm định Phỏng vấn chuyên sâu (Depth Interview) Phỏng vấn chuyên sâu là kỹ thuật phỏng vấn cá nhận trực tiếp và không chính thức. Trong đó phương pháp phỏng vấn này người trả lời được hỏi về các khía cạnh niềm tin, thái độ và cảm nghĩ về chủ đề nghiên cứu dưới sự điều khiển của người phỏng vấn có kỹ năng cao. * Đặc điểm Cũng giống như phỏng vấn nhóm tập trung, phỏng vấn cá nhân cùng là một kỷ thuật trực tiếp và không cầu kỳ để thu thập thông tin, nhưng khác ở chỗ phỏng vấn cá nhân chỉ có hai người đối diện: người phỏng vấn và người được phỏng vấn (one to one). Thời gian phỏng vấn có thể từ 30 phút đến 1 giờ. Kỹ thuật phỏng vấn cá nhân Những kỹ thuật phỏng vấn cá nhân được sử dụng rộng rãi hiện nay là kỹ thuật bắt thang, đặt câu hỏi cho các vấn đề và phân tích biểu tượng. * Thuận lợi và bất lợi của phỏng vấn cá nhân Phỏng vấn cá nhân không thể hiểu biết sâu sắc bản chất bên trong của vấn đề nghiên cứu so với phỏng vấn nhóm nhưng biết chính xác câu trả lời riêng của từng người được phỏng vấn. Phỏng vấn cá nhận còn thực hiện trong bầu không khí trao đổi thông tin hoàn toàn tự do và hoàn toàn không có bất kỳ một áp lực mang tính xã hội như phỏng vấn nhóm. Tuy nhiên, phỏng vấn cá nhân cũng có nhiều nhược điểm, chẳng hạn như để tìm người phỏng vấn có kỹ năng thì rất khó khăn và tốn kém. Dữ liệu thu thập được khó phân tích và tổng hợp hơn phỏng vấn nhóm, thậm chí còn rất phức tạp, và chi phí phỏng vấn cao nên thường có cở mẫu nhỏ, điều này thể hiện tính đại diện thấp. * Ứng dụng phỏng vấn cá nhân Cũng như phỏng vấn nhóm, mục đích chính của phỏng vấn cá nhân là nghiên cứu thăm dò để nắm được mọi hiểu biết sâu hơn bên trong vấn đề. Hơn nữa đây cũng là phương pháp sử dụng có hiệu quả trong các tình huống có vấn đề đặc biệt, chẳng hạn như thăm dò được các chi tiết các nhân từ người phỏng vấn, thảo luận các chủ đề về niềm tin, cảm xúc cá nhân, hiểu rõ các hành vi ứng xử phức tạp. * Một số kỹ thuật có thể sử dụng - Kỹ thuật liên tưởng Là kỹ thuật trong đó người được phỏng vấn trình bày ý kiến với sự kích thích và được hỏi bằng bảng liệt kê các từ để trả lời từng từ một mà từ đó rất gợi nhớ. - Kỹ thuật hòan chỉnh Là kỹ thuật đòi hỏi người được phỏng vấn hoàn chỉnh các tình huống chưa kết thức các vấn đề quan tâm. Nói chung, kỹ thuật hoàn chỉnh được sử dụng trong nghiên cứu là hoàn thành câu dở dang hay câu chuyện. - Kỹ thuật dựng hình Là kỹ thuật đòi hỏi người được phỏng vấn tình bày câu trả lời theo hình thức của một câu chuyện, một mẫu đàm thoại hay mô tả. Kỹ thuật này bao gồm hai hình thức: diễn giải qua tranh ảnh và đặt lời chú giải cho phim hoạt hình. - Kỹ thuật diễn cảm Người phỏng vấn trong kỹ thuật này trình bày câu trả lời dưới hình thức kể hay quan sát và trả lời những câu hỏi có liên quan đến cảm nghĩ và thái độ của người khác đối với vấn đề nghiên cứu. Họ không chỉ trình bày cảm nghĩ riêng của họ mà còn nhận xét cảm nghĩ của người khác thông qua việc đóng vai trò người thứ ba. Thu thập dữ liệu bằng phương pháp thử nghiệm Như đã trình bày trong trong các phần trước đây, để thu thập dữ liệu ngoài việc nghiên cứu các tài liệu (để thu thập dữ liệu thứ cấp), hoặc quan sát, phỏng vấn (để thu thập dữ liệu sơ cấp), còn có thể được thực hiện thông qua việc thử nghiệm. Trong nghiên cứu marketing, các thuộc thử nghiệm đóng vai trò rất lớn, ngoài việc kiểm tra hoặc khẳng định một giải pháp hiệu chỉnh đưa ra, chúng còn cung cấp một nguồn dữ liệu khá lớn có thể sử dụng trong nhiều đề tài nghiên cứu về lĩnh vực marketing. Khung cảnh (môi trường thử nghiệm): thử nghiệm có thể được thực hiện trong hai khung cảnh là trong phòng thí nghiệm hay trên hiện trường. Hai khung cảnh này khác nhau ở mức độ có thể kiểm tra được một số biến số nào đó của người nghiên cứu và mức độ thực tế của khung cảnh nghiên cứu. * Thử nghiệm labo (laboratory expriments): Trong thử nghiệm này, người nghiên cứu đưa ra các tác động cho các đối tượng trong khung cảnh đã được xếp đặt cho mục tiêu của các cuộc thử nghiệm. Khung cảnh xếp đặt theo ý muốn như vậy giúp cho người nghiên cứu giảm thiểu đến mức thấp nhất ảnh hưởng không thích hợp của một số biến ngoại lai nhờ kiểm soát và điều chỉnh được sự biến đổi của một số biến số nào đó. Trong các labo như vậy, có đủ các trang thiết bị cần thiết như là gương một chiều, màn ảnh, hệ thống kiểm tra độ thắp sáng và nhiệt độ cũng như các yếu tố khác có thể ảnh hưởng đến việc thử nghiệm. Thử nghiệm labo được tiến hành không khó khăn lắm nhưng ít khi được thực hiện trong marketing do các biến số thử nghiệm labo không phải lúc nào cũng giống như thực tế trên hiên trường và trong quá trình này, người nghiên cứu đã khống chế các tác động bên ngoài, do đó việc áp dụng các kết quả thử nghiện này rất hạn chế. * Thử nghiệm hiện trường: Đây là loại thử nghiệm được tiến hành ở môi trường thực tế. lợi ích lớn nhất của cuộc thử nghiệm hiện trường là tính thật của khung cảnh. những biến số được đưa vào thí nghiệm như: sản phẩm, quảng cáo, giá cả ... sẽ giống như hoàn cảnh mua bán bình thường thử nghiệm hiện trường thường rất tốn kém và phức tạp hơn so với thử nghiệm labo, nhưng đây lại là phương pháp thông dụng trong marketing vì tính thực tiễn của kết quả thử nghiệm cao nên có tác dụng rất lơn trong việc quyết định một giải pháp (ví dụ: thử nghiệm sản phẩm mới trước khi thương mại hóa, thử nghiệm một thông điệp quản cáo, một loại nhãn hiệu...) * Những sai lầm thường mắc phải trong các cuộc thử nghiệm: Các nguyên nhân chủ yếu có thể gây ra sai lệch trong các cuộc thử nghiệm: - Lịch sử: yếu tố lịch sử có thể là một biến cố xảy ra trong lúc đang tiến hành thử nghiệm, nhưng không phải là yếu tố do cuộc thử nghiệm mà có. - Lỗi thời: là biến số không rõ rệt. Lỗi thời là thay đổi dần phản ứng của người tiêu dùng qua thời gian, hoặc sự thay đổi về nhận thức do tích lũy kiến thức và kinh nghiệm qua thời gian thử nghiệm. Ví dụ: sự thay đổi thái độ mua bán, thay đổi cách sinh hoạt.... - Bỏ ngang: đó là trường hợp một hay nhiều đơn vị bỏ cuộc thử nghiệm làm cho kết quả thử nghiệm không tính được vì không biết đơn vị cuộc có cùng một thái đội ứng xử và cho kết quả giống như các đơn vị còn laị không? - Hiệu ứng thử nghiệm: trong quá trình thử nghiệm, một đối tượng ý thức mình đang chịu thử nghiệm sẽ xúc động, trả lời lệch lạc, hoặc có thái độ không thật... Công cụ đo lường: sự sai lệch do sử dụng công cụ đo lường trong cuộc thử nghiệm Chọn mẫu lệch: là sai lầm xảy ra khi đơn vị thử nghiệm đã được lựa chọn không đại diện cho tổng thể muốn điều tra. Phần B Thực tế Nguồn dữ liệu thứ cấp ở Việt Nam hiện nay I. Tình hình báo chí tại Việt Nam hiện nay. Tính đến tháng 12/2007 cả nước có 702 tờ báo và tạp chí với 830 ấn phẩm. 68 đài phát thanh, truyền hình (trong đó 3 Đài truyền hình Trung ương là VTV, VTC, VCTV; 01 đài phát thanh Quốc gia là Đài tiếng nói Việt Nam, 64 đài phát thanh truyền hình cấp tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương, trên 600 đài phát thanh cấp huyện và hàng chục phường, xã thị trấn, nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện trường học; 01 Hãng thông tấn Nhà nước là Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN); 6 báo mạng điện tử, 100 tờ báo in đưa lên mạng Internet bằng các thứ tiếng, hàng ngàn trang điện tử (Website, Weblog). Trong các loại hình thì nổi lên là báo mạng điện tử (online) vì mạng Internet vào Việt Nam mới từ tháng 5/1997 nhưng qua 10 năm đã có gần 20% người Việt Nam truy cập, sử dụng công cụ này. Tỷ lệ này được coi là cao ở khu vực và thế giới nói chung. II. Đánh giá khả năng của tổ chức cung cấp nguồn thông tin ( tờ báo, tạp chí, tập san) Cho dù rằng mục đích của cuộc nghiên cứu trước đó không hoàn toàn xa lạ song một điều nữa mà các nhà nghiên cứu marketing cần biết khả năng của tổ chức thu thập thông tin. Trên thực tế, các tổ chức khác nhau có khả năng khác nhau, có những nguồn khai thác và chất lượng quản lí khác nhau. Để kiểm tra năng lực của các tổ chức đó, nhà nghiên cứu có thể thăm dò nhũng người có kinh nghiệm trong ngành, kiểm tra chính các báo của họ với thăm dò các khách hàng trong quá khứ của họ về mức độ hài lòng với những gì khách hàng đã nhận được. Thăm dò các ý kiến của chuyên gia. Tình trạng thông tin không trung thực, áp đặt vô lối, suy diễn chủ quan, viết ẩu, viết sai, bịa đặt có xu hướng gia tăng. Việc cải chính thông tin sai trên báo chỉ chưa nghiêm túc và đúng luật báo chí. Số nhà báo, người làm công tác trong lĩnh vực báo chí truyền thông yếu kém đạo đức, vi phạm pháp luật, lợi dụng nghề nghiệp để vụ lợi có xu hướng tăng đáng lo ngại Đội ngũ phóng viên, biên tập viên hiện nay nhìn chung còn yếu và thiếu tính chuyên nghiệp trình độ tin học ngoại ngữ, hiểu biết thông lệ và luật pháp quốc tế còn yếu; kỹ thuật thu - phát thông tin chưa tốt; lực lượng phóng viên, biên tập viên tuy được đào tạo nhưng giao lưu quốc tệ rất hạn chế. Những yếu kém này làm giảm chất lượng của những bài báo đăng tải. Kiểm tra những khách hàng đã sử dụng. Để đánh giá khách quan về ý kiến của khách hàng khi sử dụng các tờ báo tạp chí được xuất bản tại Việt Nam chúng ta sử dụng phiếu điều tra khảo sat sau. Quy mô mẩu: 100 người Khu vực : Quận Cầu Giấy – Hà Nội. PHIẾU ĐIỀU TRA KHẢO SÁT Tên Nhóm: Nhóm 12 Nhiệm Vụ: ( Ý kiến của người sử dụng khi sử dụng các ấn phẩm của các tờ báo cung cấp thông tin nghiên cứu marketing tạ Việt Nam hiện nay, như các ấn phẩm của Sài Gòn Tiếp Thị, Thời Báo Kinh Tế Việt Nam ….) I Thông Tin Chung Họ và Tên :………………………………………………Giới Tính: Nam/Nữ……… Địa Chỉ :…………………………………………………………………………… Điện Thoại :…………………………………………………………………………… Email :…………………………………………………………………………… II Thông Tin Cụ Thể: Các thông tin được đăng tải trên các tờ báo, tập san hiện nay có cung cấp đáp ứng được nhu cầu của bạn ? A: Không, thông tin ko chính xác, không rỏ nguồn gốc. B: Có, vì được cập nhập hàng ngày. C: không tin tưởng nên không sử dụng. Bạn mong muốn các tờ báo, tạp chí thay đổi như thế nào ? A: Thay đổi toàn bộ B: Cần có nhiều bài viết đánh giá có chất lượng. C: Cập nhập thông tin nhanh hơn nữa D: Cần nhiều các cuộc điều tra, khảo sát tăng chất lượng bài. Bạn đánh giá như thế nào về các báo cáo, bình luận được đăng tải trên các tờ báo, tập san? A : Không chính xác, ý kiến chủ quan của người viết B : Tốt, các bài viết khách quan C : Chất lượng bài viết thấp vì trình độ của người viết. D : Bình thường. Theo bạn chuyên môn của nhưng người làm báo như thế nào ? A: Vốn kiến thức còn kém, nhận định không bao quát. B: Chỉ dừng lại ở việc đăng tải thông tin, chưa có đánh giá nhận xét. C: Tốt, bài viết hay và hữu ích. Từ kết quả điều tra những người sử dụng chúng tôi có bảng tổng kết như sau: Đáp án A Đáp án B Đáp án C Đáp án D Câu 1 25 70 5 Câu 2 3 20 30 47 Câu 3 1 19 29 51 Câu 4 22 70 8 Từ bảng tổng kết trên chúng ta có những nhận xét sau đây, - Các tờ báo tạp chí tại Việt Nam hiện nay như thời báo kinh tế, marketing việt nam, Sài gòn tiếp thị phần nào đã tạo nên được uy tín riêng của mình và được nhiều độc giả tìm đọc, tính cập nhập thông tin nhanh, tính chính xác cao. NHưng vẫn còn tồn tại những điểm yếu nguồn nhân lực làm báo chưa thật sự lớn mạnh, các bài viết chưa được đăng tải chưa thật sự chính xác, các nguồn thông tin đăng tải chủ yếu là sử dụng các nguồn thông tin đã có sẳn, chưa có nhiều chương trình tựu điều tra khảo sat, thu thập thông tin tại việt nam chính vì vậy các tờ báo với nhau chưa mang tính đặc thù vì thường đăng tải bài của nhau, chưa có tờ báo nào thật sự nổi trội. III. Mục đích và ưu điểm Mục đích Thông qua tạp chí , báo . chúng ta có thể thu thập thông tin về mọi mặt đời sống xã hội như văn hóa, kinh tế , chính trị , thể thao . Mỗi mặt của cuộc sống luôn có mối tương quan và liên kết với nhau , vì vậy chúng ta biết cách tìm hiểu sâu về vấn đề cần nghiên cứu thì phải xét đến mối quan hệ giữa các mặt của đời sống - báo , tạp chí mang tính chất như tiếng nói của công dân , mang tính định hướng xã hội . Sự suy xét từ báo chí có thể chưa hẳn đã đúng nhưng sự nhìn từ phía đại đa số người trong xã hội là thông tin quan trọng trong nghiên cứu để nắm bắt xu hướng chung của xã hội . 2. Ưu điểm -Dễ tìm kiếm và tìm kiếm nhanh :báo , tạp chí luôn được cập nhập thông tin về mọi mặt của đời sống xã hội từng ngày từng giờ .vì vậy nó luôn tồn tại sẵn có và dễ dàng tìm hiểu mà không tốn quá nhiều thời gian -Chí phí tiêu tốn dành cho việc thu nhập dữ liệu từ báo , tạp chí … rất thấp. Vì báo, tạp chí tồn tại dưới hình thức báo mạng nên không khó khăn cho việc tìm kiếm dù khối lượng thông tin có nhiều - Dữ liệu từ báo .tạp chí luôn có đặc tính sẵn sàng , vì mọi thông tin trong báo chí luôn được sàng lọc kí càng qua người việt nên việc sử dụng là dễ dàng IV. Tính cập nhật. - Thưa các bạn, hiện nay trên thị trường báo nước ta tồn tại báo mạng và báo truyền thống. Vài năm trở lại đây, sự bùng nổ của công nghệ thông tin cùng với quyền tự do ngôn luận của công dân phát triển cao, đã đòi hỏi ra đời thông tin xã hội cũng như kinh tế thời hội nhập một loại hình báo chí mới đó là báo trên internet. Báo mạng tin tức cập nhật liên tục và cực kỳ nóng bỏng. Hầu như các web trên đều do ban tuyên giáo trung ương kiểm duyệt nên độ chính xác cực cao và rất mang tính thời sựn như những trang web : dantri.com.vn hay vnexpress.com và vietnam.net. Song bên cạnh những trang web chính thống của nhà nước sử dụng và cho lưu hành còn những trang web đưa thông tin sai sự thật, không mang tính thời sự, gây bức xúc trong dư luận, tác động tiêu cực đến bộ phận người dân, thanh thiếu niên hiện nay gây nên mất trật tự an sinh xã hội, tình hình chính trị không ổn định. Một số trang web giải trí giúp giới trẻ tiếp cận với chiều hướng của phát triển song còn mang tính thị trường quảng bá một số lĩnh vực giải trí, các người nổi tiếng không phù hợp với phong tục người Á Đông như những trang web : zing.vn, 24h.com và báo mạng giúp cập nhật những tin tức thời sự, xã hội. Vì thế giúp những ai bận không có thời gian theo dõi thời sự thì có thể cập nhật vào những trang web chính thống để có thể biết được tốc độ phát triển của xã hội cũng như tình hình kinh tế của thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. - Báo truyền thống là loại báo in trên giấy và có từ lâu, được dùng phổ biến trong bộ phận người dân. Báo truyền thống cũng đăng tải tin tức thời sự, kinh tế xã hội nhưng sau khi sự việc hay tình hình xã hội xảy ra rồi và không được cập nhật liên tục hàng ngày . Những tin đó không còn nóng bỏng, không phù hợp với sở thích của giới trẻ và một bộ phận người dân hiện nay. Nhưng nhiều tòa báo và tác giả làm đã xây dựng được uy tín cũng như thương hiệu trong lòng công chúng. Báo truyền thống có độ chính xác cực cao gần như tuyệt đối như báo nhân dân, bao lao động, báo tuổi trẻ, báo thanh niên. Còn một số báo lá cải đưa thông tin sai lệch sự thật nhằm kích động dân chúng đi sai lệch đường lối của Đảng và Nhà nước. Báo truyền thống tính cập nhật kém không mang lại hiệu quả thương mại cho nền kinh tế hiên đại nên đang dần bị chuyển sang báo mạng để hiệu quả tốt hơn. - Tóm lại báo mạng tính cập nhật liên tục và tiện lợi trong cuộc sống hơn, đang thịnh hành trong giới trẻ hiên nay, nhưng đi kem với nó là chiều hướng đi xuống của người dân nếu truy cập vào các web không chính thống. Báo truyền thống kém tính cập nhật hơn nhưng chinh xác và tồn tại trong bộ phận người dân xưa , có uy tín trên thị trường. V. Tính hiện thực, khách quan trong báo chí : - Trên thực tế thời gian qua, nhiều thông tin trên báo chí do thiếu cân nhắc về độ chính xác và thời điểm đã có lúc gây sốc cho bạn đọc và người dân. Đó là tình trạng đưa tin, dẫn nguồn thông tin chưa đầy đủ, thiếu khách quan, thậm chí có nhà báo trong khi đưa thông tin đã phân tích, suy diễn làm lệch bản chất sự thật. Có nhà báo khi viết đặt dấu hỏi, mơ hồ gây tâm lý khó tiếp nhận đối với người đọc, rút tít báo kiểu như "Ông tổng giám đốc tham nhũng?", "Sẽ tăng giá đồng loạt?…", khi bị bạn đọc phản ứng thì giải trình thiếu trách nhiệm rằng: "tác giả đã để câu hỏi, không khẳng định(!?); có nhà báo đưa tin tăng giá mặt hàng này, nhưng lại dự đoán tăng giá các mặt hàng khác thiếu căn cứ, "cầm đèn chạy trước ôtô" gây tâm lý hoang mang trong người dân, thậm chí góp phần kích động những ai "yếu bóng vía" đổ xô đi mua hàng tích trữ… - Ví dụ như: trong khi đưa tin tăng giá xăng dầu, lại dự đoán tăng giá một loạt các hoạt động khác như giá xi măng, sắt thép, giá cước vận tải taxi, xe khách…, trong khi thực tế chưa diễn ra. Việc làm ấy có thể do nghiệp vụ, hiểu biết hạn chế của nhà báo, nhất là những kiến thức chuyên ngành về kinh tế vĩ mô, về thị trường tiền tệ vốn diễn biến rất phức tạp trong cuộc sống. Cũng có thể hạn chế ấy một phần là do sự thiếu nhạy cảm của các nhà báo với tư cách là người "loan tin", vì thế đã vô tình bỏ qua ý thức trách nhiệm là cần góp phần định hướng dư luận và ổn định xã hội - Ở Việt Nam, trong quy ước đạo đức nghề nghiệp cũng xác định rất rõ những điều nhà báo nên và không nên làm trong tác nghiệp. Ví như trước một nạn dịch đang xảy ra ở một địa phương, thái độ nhà báo đưa tin sẽ như thế nào để không gây hoang mang đối với toàn quốc. Ví như những số liệu có tính chất nhạy cảm về dự trữ lương thực, cà phê của ta trong tình hình các bạn hàng nước ngoài đang tìm cách ép giá thì có nên đưa chính xác số liệu hay không, đòi hỏi nhà báo cân nhắc kỹ thiệt hại. Ví như xảy ra tiêu cực của một ngân hàng, nếu đưa tin không đầy đủ, dễ tạo nên "làn sóng" rút tiền tại ngân hàng ấy, gây nên sự đổ vỡ liên hoàn thì "lợi bất cập hại". Hiện thực, khách quan là thể hiện tính chân thực của sự vật... ngoài yếu tố chủ quan của con người. Ở góc độ xã hội nó phản ánh bộ mặt thực của xã hội, là yếu tố rất quan trọng để nhận biết xã hội đang phát triển ở mức độ nào - Phản ánh đúng hiện thực, khách quan sẽ góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Nếu phản ánh không đúng, chẳng những không góp phần cải tạo xã hội phát triển, mà còn làm chậm sự phát triển của xã hội. Bất cứ vai trò vị trí của đối tượng nào trong xã hội, đều phải coi trọng hiện thực, khách quan. Đối với báo chchistinhs hiện thực, khách quangiữ một vai trò rất quang trọng. - Lê nin đã từng nói: Vai trò, chức năng của báo chí là tuyên truyền tập thể, tổ chức tập thể, cổ động tập thể. Như vậy trong tuyên truyền, tổ chức, cổ động của báo chí không chỉ đưa thông tin đến mọi người, mọi cấp, mọi ngành những chủ trương, đường lối, chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, mà nhiệm vụ của báo chí còn góp phần giáo dục, cổ vũ động viên; phản hồi ý kiến của nhân dân đến với Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị - xã hội... trên cơ sở hiện thực, khách quan. - Trong những năm qua, nhất là trong gần 25 năm đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, báo chí nước ta đã có những đổi mới to lớn, hòa nhập với phát triển của nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN, thật sự là công cụ sắc bén của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, góp phần quan trọng tuyên truyền đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước đến với các tầng lớp nhân dân; động viên, khích lệ nhân dân hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, báo chí đã phát huy được vai trò, chức năng của mình trong góp phần đấu tranh chống lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động quốc tế chống phá Đảng ta, nhân dân ta; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực..., đưa nhiều vụ tham nhũng “xã hội đen” ra ánh sáng, lập lại trật tự, kỷ cương xã hội, góp phần bảo vệ Đảng, Nhà nước và phẩm giá của con người lương thiện..., được Đảng, Nhà nước và nhân dân khen ngợi, ủng hộ. - Tuy nhiên, báo chí nước ta trong thời gian qua cũng còn những yếu kém, khuyết điểm. Nghị quyết Trung ương 5 khóa X đánh giá: Về vai trò, trách nhiệm của cơ quan chủ quản báo chí còn hạn chế, có nơi mờ nhạt, thụ động; phẩm chất, trách nhiệm, ý thức chính trị, năng lực chuyên môn của một số cán bộ lãnh đạo với những nhiệm vụ chính trị mà Đảng bộ và nhân dân giao phó. - Với sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Đảng bộ, sự ủng hộ của các cấp chính quyền và nhân dân, có thể nói những năm qua Báo chí Hà Giang đã luôn cho thấy cơ quan báo chí chưa bảo đảm yêu cầu, một số người yếu kém, chưa được xử lý, thay thế kịp thời; đội ngũ phóng viên thiếu chọn lọc, đào tạo thiếu toàn diện; một bộ phận tư cách đạo đức kém, thậm chí hư hỏng... - Cốt lõi của những yếu kém, khuyết điểm trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân ở một số tờ báo chưa tôn trọng tính hiện thực, khách quan, đưa tin còn chủ quan, quy nạp, hời hợt kiểu “cưỡi ngựa xem hoa”, thổi phồng hoặc bôi đen... - Không ai phủ nhận chức năng của báo chí là thông tin. Đã là thông tin thì phải nhanh, kịp thời và đúng. Nhiều tờ báo từ Trung ương xuống địa phương (báo in) và báo điện tử, tôi đã được đọc, thấy có một nhận xét chung là: bám sát sự kiện, sự việc, vấn đề... nói đủ, nói đúng, nói trúng. Nhưng cũng không ít có tờ báo quá coi trọng tính thời sự, mà không trọng tính hiện thực, khách quan, khi có sự việc đã vội vã đưa tin ngay; muốn tin của mình đến độc giả sớm nhất, ấn tượng nhất... thiếu kiểm tra nguồn tư liệu, thiếu thực tế... cho nên thông tin có thể sai một đôi chỗ, có tin sai một phần hoặc sai cả về định hướng, làm cho dư luận hoang mang, không biết tin như thế nào? Một số bài báo trên một số tờ báo ngành trung ương và báo địa phương, thời gian gần đây có phóng viên viết ra, đọc mới thấy tác giả như vừa ở trên trời rơi xuống, viết đại khái, chung chung, sai tên địa danh, sai tên nhân vật. Có những bài báo nói phóng đại, thổi phồng... tạo dựng bối cảnh, sự việc như thực, như được chứng kiến, nhưng thực chất phóng viên chỉ nghe người khác nói lại hoặc chép từ báo cáo, văn bản ra... (xin miễn được nêu tên cụ thể). Có một điều đáng nói, đúng hơn là chê trách ở một số tờ báo địa phương, đề tài tại địa phương, hoạt động tại địa phương, con người cũng ở điạ phương, nhưng phóng viên lại viết không đúng hiện thực, khách quan, bởi cái bệnh quan liêu của nhà báo. - Cuộc sống lao động, sản xuất, học tập, công tác, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ đất nước, hàng ngày, hàng giờ đang diễn ra. Các mô hình tiên tiến, nhân tố mới, gương người tốt việc tốt có ở mọi chỗ, mọi lúc. Đó là những đề tài tốt để báo chí phản ánh. Bên cạnh những tấm gương tốt đó, chúng ta đã và đang phải chiến đấu với mặt trái của xã hội trong nền kinh tế thị trường, đó là nạn: tham nhũng, tiêu cực, tha hóa về đạo đức, lối sống... Báo chí phản ánh hiện thực, khách quan không chỉ nêu cái hay cái tốt mà cái xấu, cái dở cũng phải được nêu lấy đó làm bài học. Ví như ở một số tờ báo địa phương mà tôi có dịp trò chuyện với các đồng chí lãnh đạo báo, cho thấy việc tuyên truyền phản ánh hiện thực, khách quan về chống tiêu cực ở địa phương vài năm gần đây đã có hiệu quả rõ rệt. Trước đây, chuyện các báo địa phương đưa tin các vụ việc tiêu cực ở địa phương mình là rất hiếm, bởi có nhiều nguyên nhân... Nhưng nay, Trung ương Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ đã có những đổi mới về phương thức lãnh đạo, đánh giá đúng đắn vị trí, vai trò của báo chí góp phần quan trọng trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Báo chí từ trung ương xuống địa phương đã phát huy được sự sáng tạo, bám sát đường lối, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, của địa phương, thông tin tuyên truyền bảo đảm đúng pháp luật, đã được các đồng chí lãnh đạo ủng hộ, tạo điều kiện cho báo chí phát triển, làm tốt chức năng công cụ của Đảng, Nhà nước phục vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước. Một số các đồng chí lãnh đạo chủ chốt của các tỉnh, khi chúng tôi được trao đổi đều tỏ ý rất đồng tình với việc báo chí địa phương đấu tranh chống tiêu cực, và cho đó là “tham mưu” trung thành cho tỉnh để trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở địa phương có hiệu quả. - Từ thực tế cho thấy những năm qua, các tờ báo có uy tín, được đông đảo công chúng đón xem, hoan nghênh, hầu hết là có những bài báo viết bám sát hơi thở của cuộc sống nhân dân lao động, bám sát đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phản ánh thông tin cả hai chiều bảo đảm tính hiện thực, khách quan, có định hướng rõ nét, hướng cho tư tưởng, tình cảm người đọc, người xem tìm đến cái chân, thiện, mỹ. Vì vậy, người viết báo điều đầu tiên là phải tôn trọng nguyên tắc hiện thực, khách quan, “hành nghề trung thực, tôn trọng sự thật” như quy định về đạo đức nghề nghiệp của người làm báo Việt Nam. Có như vậy nhà báo mới sáng tạo nên những tác phẩm báo chí tốt như một rừng hoa muôn màu, muôn sắc, mà trong đó mỗi bông hoa vẫn lung linh... Sự liên quan của các nguồn dữ liệu - Trên thực tế, đôi khi cùng một loại dữ liệu có nhiều tổ chức khác nhau cùng cung cấp. Đây là một cơ hội thuận lợi để có thể so sánh và đánh giá giá trị của chúng. Tuy nhiên điều hay xảy ra là hiếm khi các dữ liệu này lại thống nhất với nhau. Bởi vậy đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải hiểu rõ được sự khác biệt được gây nên bởi những lý do nào từ đó mà quyết định loại dữ liệu cần thiết có giá trị cho mình. Ví dụ, khi đưa tin ”Lật tẩy sự loạn giá xe tay ga Nozza và Vision” ta thấy có các luồng ý kiến ít chiều nhưng có sự khác nhau từ một số báo: Báo dantri.com-báo điện tử của TW hội khuyến học Việt Nam cho rằng :” việc 2 mẫu xe này loạn giá chỉ có thể đến từ nguyên nhân do khâu bán hàng, do các đại lý cố tình làm giá, thổi giá, đánh vào tâm lý nôn nóng của người mua”. Vậy có nghĩ là, theo dantri.com, việc tăng giá 2 mẫu xe trên chỉ ở khâu bán hàng chứ không liên quan gì đến nhà sản xuất. Và mục đích của hành động tăng giá nhằm đánh vào tâm lý người mua đối với 2 mẫu xe mới ra và đang hot này. Ý kiến trên mang 1 chút phê phán nhẹ nhàng đới với đại lý bán lẻ. Báo tienphong.vn viết “khi thị trường xe tay ga còn đang ế ẩm, các đại lý chính hãng tranh thủ kiếm lời trên mẫu xe mới vừa ra mắt khi nhu cầu mẫu xe này đang cao, nguồn hàng từ nhà máy chưa về nhiều? Phải chăng nhà sản xuất đang 'bắt tay' với đại lý để tạo cơn sốt ảo với các mẫu xe mới của mình, nhằm tạo tiền đề ấn tượng và sức mua lâu dài hơn? Có lẽ những câu hỏi này cần được chính các đại lý, nhà sản xuất trả lời. Chỉ có điều, nếu người tiêu dùng không chấp thuận sự loạn giá, có lẽ, họ có muốn loạn cũng chẳng được”. Vậy theo tienphong.vn, nguyên nhân đến từ cả nhà sản xuất và đại lý bán lẻ. Khi cả 2 cùng bắt tay nhau vì lợi ích chung của 2 bên và đồng thời mang đến 1 cơn sốt ảo cho 2 mẫu xe ga mới này. Báo news.go.vn đưa ra nhận định: ”Nguyên nhân giá xe Honda Vision và Yamaha Nozza bị đẩy lên cao là do mẫu mã và mức giá xe đưa ra ban đầu nhận được phản ứng tích cực từ khách hàng. Sức mua tập trung vào hai loại xe này đã vô tình giúp đại lý đẩy giá xe đi xa thực tế. Bên cạnh đó, việc không áp dụng giá bán quy định mà chỉ đưa ra giá đề xuất, để các đại lý tự định giá của các nhà sản xuất xe gắn máy khiến thị trường này luôn trong tình trạng loạn giá. News.go.vn đồng ý với dantri.com nguyên nhân là ở các đại lý bán lẻ dựa vào phản ứng tích cực của khách hàng và cũng đồng tình với hành động này của đại lý bán lẻ chứ không phê phán chút nào khi đưa ra nhận định: “Sức mua tập trung vào hai loại xe này đã vô tình giúp đại lý đẩy giá xe đi xa thực tế”. VII. Việc thu thập dữ liệu và cách thức cung cấp thông tin Thu thập dữ liệu: Đối với những người làm báo, thông tin là yếu tố cực kỳ quan trọng. Song, sự sống còn lại nằm ở chỗ thông tin luôn phải kịp thời và chính xác. Không thể quá kỳ vọng rằng, trong vài tháng tới, việc phối hợp cung cấp thông tin của các bộ, ngành trên sẽ đi vào nếp ngay được.   Phải công nhận với nhau rằng, cơ chế xin - cho đang còn ảnh hưởng nặng nề trong xã hội VN, trong đó có xin - cho thông tin từ các cơ quan công quyền. Tình trạng xin - cho thông tin tạo ra trạng thái truyền thông cực đoan trong xã hội. Đôi khi các chính sách của Đảng, Nhà nước, các quyết sách của Chính phủ ngay trong lúc nước sôi lửa bỏng, đã không đến được một cách đầy đủ với người dân.   Nhiều trường hợp cung cấp thông tin theo kiểu dấm dúi, ban ơn, thiếu sự minh bạch khiến phóng viên nếu không cân nhắc hết được tầm quan trọng, đặc biệt đối với các loại thông tin nhạy cảm, sẽ dẫn đến việc đưa tin ảnh hưởng tới lợi ích quốc gia.    Một số thông tin không chính xác, lệch lạc thiếu thẩm định trên một số phương tiện thông tin đại chúng vừa qua một phần do ta chưa có một cơ chế cung cấp thông tin chặt chẽ nhưng kịp thời, minh bạch, chính xác đáp ứng nhu cầu cần biết của người dân. Người dân hoang mang khi nghe những thông tin xấu về thị trường, lỗi chính do các cơ quan chức năng trong lĩnh vực này đã không kịp thời giải thích cho dư luận thông qua báo chí. Nhiều vấn đề chính quyền làm được nhưng vẫn bị hiểu khác, chính là vì chưa có phương pháp tuyên truyền hợp lý cho dân biết.   Ở nhiều nước phát triển, thông qua Internet, người dân được tiếp cận nhiều thông tin từ phía chính quyền. Điều này cũng được xem như một trong những quyền cơ bản của người dân trong một xã hội dân sự phát triển.    2. Cách thức cung cấp thông tin   - Các Bộ tổ chức cung cấp thông tin định kỳ cho báo chí bằng văn bản hoặc cử người phát ngôn, đại diện cung cấp thông tin cho báo chí trực tiếp tại các cuộc giao ban báo chí hàng tuần do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì.   Các Bộ cũng có thể tổ chức họp báo hoặc ra thông cáo báo chí để cung cấp thông tin thường xuyên cho báo chí.   Khi có những sự kiện, vấn đề quan trọng mà xã hội quan tâm hoặc báo chí đề cập liên quan đến lĩnh vực của Bộ nào thì Bộ đó có trách nhiệm cử người phát ngôn hoặc cử đại diện cung cấp thông tin cho báo chí tại cuộc họp giao ban báo chí hàng tuần do Bộ Thông tin và Truyền thông chủ trì và tại cuộc họp báo thường kỳ của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao.   Đối với những vấn đề, sự kiện lớn, đột xuất mà dư luận xã hội quan tâm hoặc gây tác động lớn trong xã hội, Bộ quản lý chuyên ngành phải kịp thời tổ chức họp báo đột xuất, với sự tham gia của các cơ quan liên quan để cung cấp, định hướng thông tin kịp thời cho báo chí. Kết Luận: Nguồn dữ liệu thứ cấp rất dễ dàng để thu thập được. Chúng ta có thể chỉ mất vài giờ thậm chí chỉ mất vài phút để có được thông tin mà chúng ta cần nhưng đồng nghĩa với việc đó là sự sai lệch, không chính xác của thông tin. Chính vì vậy mà trách nhiệm của người nghiên cứu là phải đảm bảo tính chính xác của dữ liệu, phải kiểm tra xem các kết quả nghiên cứu của người khác là dựa vào dữ liệu thứ cấp hay sơ cấp. Vì vậy điều quan trọng là phải kiểm tra dữ liệu gốc. Đó cũng là một vấn đề đặt ra đối với các doanh nghiệp, tổ chức cung cấp nguồn dữ liệu này Chính phủ và các tổ chức có chức năng sẽ phải có những hành động, biện pháp để nguồn tin của Việt Nam ngày càng trở lên có giá hơn, độ chính xác cao hơn tránh để lại những hậu quả khôn lường cho người sử dụng thông tin .

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBài thảo luận Marketing.doc