CÂU 4: Năm tài khóa (năm tài chính) như thế nào đối với Việt Nam và quốc tế, mục
tiêu của năm tài khóa đề ra như thế nào?
Năm tài chính là khoảng thời gian có độ dài tương đương một năm (tức là 12 tháng hoặc
52 đến 53 tuần) dùng cho công tác kế hoạch ngân sách của tổ chức hoặc quốc gia. Năm
tài chính còn được gọi là Tài khóa. Ở Việt Nam, năm tài chính được gọi là Năm ngân
sách. Ở Mỹ, năm tài chính còn được gọi là Năm thuế. FY là các chữ viết tắt của cụm
từ Fiscal Year hoặc Financial Year trong tiếng Anh, nghĩa là năm tài chính.
58 trang |
Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 3402 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài tập Môn: tài chính tiền tệ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o nhà phát hành sử dụng. Điều này đem lại lợi ích cho cả nhà
đầu tư lẫn nhà phát hành. Nhà đầu tư có cơ hội sử dụng vốn của mình nhằm
mục đích sinh lợi còn nhà phát hành giải quyết được nhu cầu thiếu hụt vốn của
mình.
- Phân tán rủi ro đầu tư tài sản hữu hình cho các nhà đầu tư tài sản tài chính.
Thực hiện chức năng này tài sản tài chính góp phần giúp cho nhà phát hành
hay nhà sản xuất kinh doanh chia sẻ được một phần rủi ro trong kinh doanh của
mình cho nhà đầu tư. Tuy nhiên nhà đầu tư chỉ có thể chấp nhận chia sẻ một
phần rủi ro với nhà sản xuất kinh doanh khi nào họ kỳ vọng thu được lợi nhuận
thỏa đáng cho khoản đầu tư của họ. Nếu rủi ro của khoản đầu tư càng cao thì
họ đòi hỏi lợi nhuận bù đắp rủi ro càng lớn.
Các tính chất của tài sản tài chính
- Tính tiền tệ: Một số tài sản tài chính có thể sử dụng làm trung gian trao đổi và
thanh toán các giao dịch tiền tệ.
- Tính có thể phân chia giá trị: Tài sản tài chính có thể có mệnh giá theo từng
mức độ lớn nhỏ khác nhau cho tiện lợi trong giao dịch.
- Tính có thể chuyển đổi thành tiền: Tài sản tài chính có thể thu hồi và chuyển
đổi thành tiền như trước lúc đầu tư.
- Tính có thời hạn: Mỗi tài sản tài chính có thời hạn đáo hạn nhất định.
- Tính thanh khoản: tài sản tài chính có thể thanh lý để thu hồi tài sản.
- Tính có thể chuyển đổi: tài sản tài chính có thể chuyển đổi từ dạng này sang
dạng khác.
- Tính đối hoái: tài sản tài chính có thể biểu hiện giá trị của nó bằng nhiều loại
tiền tệ khác nhau.
- Tính sinh lợi: tài sản tài chính được hưởng lợi tức trên số vốn đầu tư.
- Tính phức hợp: tài sản tài chính có thể là một phức hợp của nhiều tài sản tài
chính đơn giản.
- Tính chịu thuế: tài sản tài chính do có tính sinh lợi nên nó cũng là đối tượng
thu thuế lợi tức.
CÂU 3: Vai trò của thị trường tài chính và phân loai? Có bao nhiêu tổ chức tài
chính?
Vai trò của thị trường tài chính:
- Là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán để quyết định giá cả tài sản tài
chính.
- Cung cấp cho nhà đầu tư khả năng giải quyết vấn đề thanh khoản trong trường
hợp nhà đầu tư muốn bán lại tài sản tài chính.
- Là nơi gặp gỡ giữa người mua và người bán và nhờ vậy tiết kiệm được chi phí
thông tin, nghiên cứu và tìm hiểu thị trường để mua bán các loại tài sản tài
chính.
Phân loại:
- Thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
- Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
- Thị trường có tổ chức và thị trường không có tổ chức.
Các tổ chức tài chính:
- Tổ chức nhận ký thác.
o Ngân hàng thương mại.
o Tổ chức tiết kiệm.
o Hiệp hội tín dụng.
- Tổ chức không nhận ký thác.
o Công ty tài chính.
o Quỹ đầu tư hỗ tương.
o Công ty chứng khoán.
o Công ty bảo hiểm.
o Quỹ hưu bổng.
CÂU 4: Giao dịch hàng hóa trên thị trường tài chính gồm các loại hàng hóa nào?
Có rất nhiều loại chứng khoán hay công cụ tài chính được giao dịch trên thị trường tài
chính, bao gồm các công cụ trên thị trường vốn và các công cụ trên thị trường tiền tệ.
Trên thị trường vốn:
- Trái phiếu: là chứng nhận nợ dài hạn do công ty hoặc chính phủ phát hành để
huy động vốn tài trợ cho hoạt động của mình.
- Chứng khoán cầm cố bất động sản: là loại chứng nhận nợ dài hạn được tạo ra
nhằm tài trợ cho việc mua bất động sản.
- Cổ phiếu: là chứng nhận đầu tư và sở hữu một phần trong công ty cổ phần.
Trên thị trường tiền tệ:
- Tín phiếu Kho bạc: chứng khoán có thời hạn không quá 1 năm do Kho bạc
phát hành để huy động vốn bù đắp thiếu hụt cho ngân sách.
- Chứng chỉ gửi tiền: do các tổ chức nhận ký thác phát hành có nêu rõ số tiền
gửi, thời hạn và lãi suất.
- Tín phiếu công ty: chứng khoán ngắn hạn do các công ty rất uy tín phát hành
để huy động vốn ngắn hạn.
- Thuận nhận của ngân hàng: thỏa thuận theo đó ngân hàng chấp nhận sẽ thanh
toán số tiền ghi trên hối phiếu khi hối phiếu được xuất trình.
- Quỹ liên bang: ký thác của các tổ chức nhận ký thác gửi tại Ngân hàng Dự Trữ
Liên Bang.
- Thỏa thuận mua lại: thỏa thuận theo đó ngân hàng (hoặc công ty) bán chứng
khoán Chính phủ mà học sở hữu kèm theo cam kết sau này sẽ mua lại chứng
khoán đó.
- Ký thác dollar ngoại biên: ký thác dollar tại các ngân hàng nằm ngoài lãnh thổ
Hoa Kỳ.
Ngoài các công cụ tài chính của thị trường tiền tệ và thị trường vốn, thị trường tài chính
còn giao dịch các công cụ tài chính hay chứng khoán phái sinh. Chứng khoán phái sinh là
loại chứng khoán mà giá trị của nó được phái sinh từ giá trị của tài sản cơ sở. Tài sản cơ
sở có thể là hàng hóa, cổ phiếu, chỉ số chứng khoán hoặc tiền tệ. Chứng khoán phái sinh
phổ biến bao gồm các loại hợp động kỳ hạn, hợp đồng giao sau, hợp đồng hoán đổi, và
hợp đồng quyền chọn.
CÂU 5: Thị trường hiệu quả và không hiệu quả giống và khác nhau như thế nào?
Điểm giống nhau:
- Hàng hóa giao dịch: cổ phiếu, trái phiếu, tín phiếu,
- Thành phần tham gia giao dịch: hộ gia đình , doanh nghiệp, các tổ chức tài
chính trung gian và Chính phủ.
Điểm khác:
- Thị trường không hiệu quả:
o Thị trường quá mỏng và không hoàn hảo.
o Thị trường dễ bị điều khiển và khống chế bởi những thế lực nắm giữ
khối lượng giao dịch lớn
o Thiếu sự công bằng
- Thị trường hiệu quả:
o Giá cả phản ánh thông tin.
o Không thể chiếm ưu thế về thông tin.
o Công bằng.
o Thị trường minh bạch.
CHƯƠNG 5: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THƯỜNG MẠI
CÂU 1: Nêu khái quát về ngân hàng thương mại và chức năng của nó?
Mỗi quốc gia đều có định nghĩa về ngân hàng thương mại của mình.
Ở Việt Nam, Pháp lệnh Ngân hàng do Hội đồng Nhà nước thông qua ngày 23 – 05 – 1990
đã xác định và ghi rõ: “Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh
toán”
Luật Các Tổ chức tín dụng do Quốc hội khóa X thông qua ngày 12 – 12 – 1997, định
nghĩa: “ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ
hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan”.
Chức năng của ngân hàng thương mại:
Chức năng trung gian tài chính, bao gồm trung gian tín dụng và trung gian thanh
toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế.
Chức năng tạo tiền, tức là chức năng sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền
tệ cho nền kinh tế.
Chức năng “sản xuất” bao gồm việc huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra
“sản phẩm” và dịch vụ ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế.
CÂU 2: Loại hình ngân hàng thương mại gồm các loại hình nào?
Dựa vào hình thức sở hữu:
Ngân hàng thương mại Nhà nước.
Ngân hàng thương mại cổ phần.
Ngân hàng liên doanh.
Chi nhán ngân hàng nhà nước.
Dựa vào chiến lược kinh doanh:
Ngân hàng bán buôn là loại ngân hàng chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối
tượng khách hàng công ty chứ không giao dịch với khách hàng cá nhân.
Ngân hàng bán lẻ là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng
khách hàng cá nhân.
Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ là loại ngân hàng giao dịch và cung ứng dịch
vụ cho cả khách hàng công ty lẫn khách hàng cá nhân.
Dựa vào quan hệ tổ chức:
Ngân hàng hội sở.
Ngân hàng chi nhánh.
CÂU 3: Tổ chức của ngân hàng thương mại và hoạt động chủ yếu của nó?
Tùy theo hình thức sở hữu mà ngân hàng thương mại có cơ cấu tổ chức khác nhau.
Cơ cấu tổ chức ngân hàng thương mại quốc doanh: các ngân hàng này thường có
tổ chức hệ thống thống nhất từ Hội sở trung ương đến chi nhánh các tỉnh, thành và
quận, huyện.
Cơ cấu tổ chức ngân hàng thương mại cổ phần:
- Hội sở với đầy đủ các phòng như Phòng giao dịch, Phòng tín dụng, Phòng
thanh toán quốc tế, Phòng kinh doanh ngoại tệ, Phòng ngân quỹ, Phòng hành
chính – tổ chức, Phong quan hệ quốc tế, Phòng công nghệ thông tin.
- Chi nhánh, bao gồm chi nhánh cấp một và cấp hai, ở các địa phương.
- Phòng giao dịch hoặc điểm giao dịch trực thuộc chi nhánh, thường mở ở những
nơi đông dân cư và có nhu cầu giao dịch với ngân hàng như siêu thị, trường
học, khu công nghiệp.
Các hoạt động chủ yếu:
Hoạt động huy động vốn.
Hoạt động tín dụng.
Hoạt động dịch vụ thanh toán.
Hoạt động ngân quỹ.
Các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh
doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ
và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý, dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác liên
quan đến hoạt động ngân hàng.
CÂU 4: So sánh điểm giống nhau và khác nhau giữa nghiệp vụ nội bảng và ngoại
bảng?
Điểm giống nhau:
- Là các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại.
- Là các hoạt động được ngân hàng thương mại thực hiện.
- Dựa vào bảng cân đối tài sản để phân loại.
Điểm khác nhau:
- Nghiệp vụ ngoại bảng: là các nghiệp vụ không được phản ánh trên bảng cân
đối tài sản của ngân hàng thương mại, chủ yếu là các hoạt động dịch vụ và bảo
lãnh ngân hàng.
- Nghiệp vụ nội bảng: là những nghiệp vụ được phản ánh trên bảng cân đối tài
sản.
CHƯƠNG 6: NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG VÀ NGHIỆP VỤ PHÁT HÀNH TIỀN.
CÂU 1: Chức năng và nhiệm vụ của ngân hàng trung ương?
Chức năng của ngân hàng trung ương:
- Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ.
Đây là chức năng cơ bản và quan trọng nhất của NHTW. Thực hiện chức năng
này có ảnh hưởng đến tình hình lưu thông tiền tệ của quốc gia, do đó có thể ảnh
hưởng đến mọi mặt hoạt động của đời sống kinh tế– xã hội.
Việc phát hành tiền được tập trung tuyệt đối vào NHTW theo chế độ NN nắm
độc quyền phát hành tiền. Trong luật NHNN có ghi rõ: “NHNN là cơ quan duy
nhất phát hành tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa VN bao gồm tiền giấy
và tiền kim loại”. Ngoài việc phát hành tiền để đảm bảo cho sự vận động của
hàng hoá thì NHTW còn có thể phát hành tiền để cho ngân sách vay, tham gia
bình ổn thị trường hối đoái, .Do việc phát hành tiền có ảnh hưởng rộng lớn
đến lưu thông tiền tệ của đất nước, nên đòi hỏi công việc phát hành phải tuân
theo những nguyên tắc nhất định. Đồng thời việc phát hành tiền phải đi đôi với
việc điều tiết lưu thông tiền tệ, nhằm đảm bảo cung ứng một khối lượng tiền
phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế (khối lượng tiền vừa đảm bảo cung ứng đủ
phương tiện lưu thông vừa không gây ra lạm phát).
- NHTW là ngân hàng của ngân hàng.
Chức năng này được thể hiện ở chỗ đối tượng giao dịch chủ yếu của NHTW là
các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác trong nền kinh tế. Cụ
thể: NHTW nhận tiền gởi và bảo quản tiền tệ cho các ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng: các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng sẽ
không sử dụng hết nguồn vốn của mình để cho vay mà sẽ giữ lại một khoản
nhất định để đảm bảo khả năng thanh toán. Khoản tiền này được gởi cho
NHTW bảo quản. NHTW cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại và các tổ
chức tín dụng. Hoạt động này của NHTW nhằm đảm bảo cung ứng cho nền
kinh tế có đủ phương tiện thanh toán trên cơ sở thực hiện các chính sách tiền tệ.
Trong trường hợp này, NHTW đóng vai trò là người chủ nợ và là người cho vay
cuối cùng, do đó nghiệp vụ cấp tín dụng của NHTW cho các ngân hàng thương
mại có ý nghĩa quyết định đối với hoạt động tín dụng của cả nền kinh tế. Với
việc nhận tiền gởi và cấp tín dụng cho các ngân hàng thương mại, NHTW đã
trở thành trung tâm tín dụng của cả nền kinh tế, trung tâm thanh toán giữa các
ngân hàng thương mại. Với tư cách đó, NHTW đứng ra tổ chức thanh toán bù
trừ hay thanh toán tứng lần giữa các ngân hàng thương mại. Nhờ hoạt động
thanh toán này của NHTW mà quá trình chu chuyển thanh toán của nền kinh tế
mới phát triển thuận lợi.
- NHTW là ngân hàng của Nhà nước
Chức năng này được thể hiện thông qua một số điểm:
o Thuộc sở hữu của NN.
o Ban hành các văn bản pháp qui về tín dụng, tiền tệ, ngoại hối, ngân hàng và
thực hiện kiểm tra công tác thi hành các văn bản này.
o Mở tài khoản và giao dịch với kho bạc NN.
o Làm đại lý cho kho bạc NN.
o Tổ chức thanh toán giữa kho bạc và các ngân hàng.
o Cung cấp tín dụng và tạm ứng cho ngân sách NN trong những trường hợp
cần thiết.
Tóm lại, với tư cách là NH của NN, NHTW đảm nhiệm những công việc thuộc chức
năng quản lý của NN, và thay mặt chính phủ làm đại diện tại các tổ chức tài chính tiền
tệ quốc tế.
Nhiệm vụ của ngân hàng trung ương.
NHTW có nhiệm vụ rất quan trọng đối với tiến trình phát triển của nền kinh tế– xã
hội. Nhiệm của NHTW Việt Nam được thể hiện thông qua việc thực hiện các chức
năng của mình ở những mặt sau:
- Xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế– xã hội.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, xây dựng chiến lược
phát triển hệ thống ngân hàng.
- Xây dựng các dự án luật, pháp lệnh về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, ban hành
các văn bản luật liên quan đến hoạt động tiền tệ và ngân hàng.
- Cấp, thu hồi giấy phép thành lập, giấy phép hoạt động ngân hàng của, các tổ
chức tín dụng; quyết định giải thể, hợp, tách các tổchức tín dụng.
- Thực hiện thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động ngân hàng.
- Thực hiện việc vay, trả nợ nước ngoài của các doanh nghiệp theo qui định của
CP.
- Chủ trì lập, theo dõi việc thực hiện bảng cán cân thanh toán quốc tế, quản lý
hoạt động ngoại hối, kinh doanh vàng.
- Tham gia ký kết các điều ước quốc tế về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, đại
diện cho CP tại các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế khi được uỷ quyền.
- Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng các nghiệp vụ ngân hàng; tổ chức nghiên cứu khoa
học và công nghệ ngân hàng.
- Thực hiện nghiệp vụ phát hành, thu hồi và tiêu huỷ tiền; tổ chức in, đúc và bảo
quản việc chuyển tiền.
- Tổ chức cấp tín dụng và phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
- Kiểm soát vàquản lý ngoại hối Nhà nước, kiểm soát ngoại hối của các tổchức
tín dụng.
- Tổ chức hệ thống thanh toán liên ngân hàng
- Làm đại lý và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng cho kho bạc NN.
CÂU 2: Qũy dự trữ trung ương là gì? Tại sao dự trữ các quỹ đó nhằm mục đích gì?
Quỹ dự trữ tài chính là quỹ tài chính của Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, độc lập
tương đối với quỹ ngân sách nhà nước.
Quỹ dự trữ tài chính được hình thành từ các nguồn sau:
Đối với Quỹ dự trữ tài chính của trung ương, gồm:
- Một phần số tăng thu ngân sách trung ương so với dự toán; mức cụ thể do Thủ
tướng Chính phủ quyết định sau khi có ý kiến của Uỷ ban Thường vụ Quốc
hội.
- Năm mươi phần trăm (50%) kết dư ngân sách trung ương.
- Bố trí một khoản trong dự toán chi hàng năm của ngân sách trung ương; mức
cụ thể do Chính phủ trình Quốc hội quyết định;
- Các nguồn tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Nguồn hình thành Quỹ dự trữ tài chính của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
gồm:
- Một phần số tăng thu so với dự toán của ngân sách cấp tỉnh; mức cụ thể do uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh quyết định sau khi có ý kiến của Thường trực Hội đồng
nhân dân cùng cấp;
- Năm mươi phần trăm (50%) kết dư ngân sách cấp tỉnh.
- Bố trí một khoản trong dự toán chi hàng năm của ngân sách cấp tỉnh; mức cụ
thể do Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân quyết định;
- Các nguồn tài chính khác theo quy định của pháp luật.
Việc trích lập quỹ dự phòng tài chính được thực hiện dần từng năm; mức khống chế tối
đa là 25% dự toán chi ngân sách hàng năm của cấp tương ứng.
Mục đích dự trữ các quỹ tài chính:
Quỹ dự trữ tài chính được sử dụng để tạm ứng cho các nhu cầu chi của ngân sách khi
nguồn thu chưa tập trung kịp, trừ một số trường hợp đặc biệt, Thủ tướng Chính phủ (đối
với ngân sách trung ương) , Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (đối với ngân sách địa phương)
quyết định sử dụng quỹ dự trữ tài chính cấp mình để xử lý cân đối ngân sách, khi:
Thu ngân sách hoặc vay để bù đắp bội chi không đạt mức dự toán được Quốc hội, Hội
đồng nhân dân quyết định, sau khi đã sắp xếp lại ngân sách và sử dụng hết dự phòng
mà chưa đủ nguồn để đáp ứng nhiệm vụ chi.
Thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, hoả hoạn, tai nạn
trên diện rộng với mức độ nghiêm trọng, nhiệm vụ quan trọng về quốc phòng, an ninh
và nhiệm vụ cấp bách khác phát sinh ngoài dự toán mà sau khi đã sắp xếp lại ngân
sách và dử dụng hết dự phòng ngân sách mà chưa đủ nguồn để đáp ứng nhiệm vụ chi.
Tổng mức chi từ Quỹ dự trữ tài chính (không kể tạm ứng) cả năm không vượt quá
30% số dư của quỹ tại thời điểm bắt đầu năm ngân sách.
CHƯƠNG 7: CÁC HỌC THUYẾT TIỀN TỆ.
CÂU 1: Ngân sách nhà nước là gì? Ngân sách thiếu hụt ảnh hưởng đến kinh tế, xã
hội như thế nào?
Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là phạm trù
lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước"
được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về
ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân
sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga
quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một
giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc
hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: “Ngân sách Nhà nước là toàn bộ
các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng
và nhiệm vụ của nhà nước”.
Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát
triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà
nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế
hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách
nhà nước.
Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách
trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các
cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành
chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân.
Thâm hụt ngân sách nhà nước, hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước, là tình trạng
khi tổng chi tiêu của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu "không mang tính hoàn
trả" của ngân sách nhà nước.
Để phản ánh mức độ thâm hụt ngân sách người ta thường sử dụng chỉ tiêu tỉ lệ thâm
hụt so với GDP hoặc so với tổng số thu trong ngân sách nhà nước.
Thâm hụt ngân sách nhà nước có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến nền kinh
tế một nước tùy theo tỉ lệ thâm hụt và thời gian thâm hụt. Nói chung nếu tình trạng thâm
hụt ngân sách nhà nước với tỷ lệ cao và trong thời gian dài sẽ gây ra lạm phát, ảnh hưởng
tiêu cực.
CÂU 2: Khi ngân sách nhà nước thiếu hụt, thu không bù chi thì nhà nước sử dụng
công cụ nào để bù đắp những khoản hao hụt đó?
Đặc điểm thu ngân sách nhà nước
Thu ngân sách nhà nước là tiền đề cần thiết để duy trì quyền lực chính trị và thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước. Mọi khoản thu của nhà nước đều
được thể chế hóa bởi các chính sách, chế độ và pháp luật của nhà nước;
Thu ngân sách nhà nước phải căn cứ vào tình hình hiện thực của nền kinh tế; biểu
hiển ở các chỉ tiêu tổng sản phẩm quốc nội GDP, giá cả, thu nhập, lãi suất, v.v...
Thu ngân sách nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc hoàn trả không trực tiếp
là chủ yếu.
Các khoản thu từ các hoạt động kinh tế của nhà nước
Các khoản thu này bao gồm:
Thu nhập từ vốn góp của nhà nước vào các cơ sở kinh tế có vốn góp thuộc sở hữu
nhà nước;
Tiền thu hồi vốn tại các cơ sở của nhà nước;
Thu hồi tiền cho vay của nhà nước.
Thu từ hoạt động sự nghiệp
Các khoản thu có lãi và chênh lệch từ các hoạt động của các cơ sở sự nghiệp có thu của
nhà nước.
Thu từ bán hoặc cho thuê tài nguyên, tài sản thuộc sở hữu nhà nước
Khoản thu này mang tính chất thu hồi vốn và có một phần mang tính chất phân phối lại,
vừa có tính chất phân phối lại, vừa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản quốc
gia vừa tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Các nguồn thu từ bán hoặc cho thuê tài
sản, tài nguyên, thiên nhiên; thu về bán tài sản thuộc sở hữu nhà nước.
Thu từ phạt, tịch thu, tịch biên tài sản
Các khoản thu này cũng là một phần thu quan trọng của thu ngân sách nhà nước và được
pháp luật quy định...
Khi ngân sách thâm hụt: Giải pháp khắc phục:
Tăng thu, giảm chi ngân sách nhà nước; Các giải pháp tăng thu ngân sách nhà
nước
- Một là, trong khi khai thác, cho thuê, nhượng bán tài sản, tài nguyên quốc
gia tăng thu cho ngân sách, nhà nước cần phải dành kinh phí thỏa đáng cho
để nuôi dưỡng, tái tạo và phát triển các tài sản, tài nguyên ấy, không làm
cạn kiệt và phá hủy tài sản, tài nguyên vì mục đích trước mắt.
- Hai là, chính sách thuế phải vừa huy động được nguồn thu cho ngân sách
nhà nước, vừa khuyến khích tích tụ vốn cho doanh nghiệp và dân cư.
- Ba là, chính sách vay dân để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước phải
được đặt trên cơ sở thu nhập và mức sống của dân.
- Bốn là, dùng ngân sách nhà nước đầu tư trực tiếp vào một số doanh nghiệp
quan trọng trong những lĩnh vực then chốt, nhằm tạo ra nguồn tài chính
mới.
- Năm là, nhà nước cần có chính sách tiết kiệm, khuyến khích mọi người tiết
kiệm tiêu dùng, tinh giản bộ máy, cải cách hành chính để tích lũy vốn chi
cho đầu tư.
Vay nợ trong nước và nước ngoài để bù đắp sự thâm hụt;
- Vay nợ trong nước
Vay nợ trong nước được Chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành
công trái, trái phiếu. Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ
của nhà nước, là một loại chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát
hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội và các ngân hàng.
- Vay nợ nước ngoài
Chính phủ có thể tài trợ thâm hụt ngân sách bằng các nguồn vốn nước
ngoài thông qua việc nhận viện trước nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài
từ các chính phủ nước ngoài, các định chế tài chính thế giới như Ngân hàng
Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển Châu Á
(ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế...
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ, các tổ chức
liên chính phủ, các tổ chức quốc tế cung cấp cho chính phủ của một nước
nhằm thực hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện
nay chủ yếu là nguồn vốn phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dưới các hình thức: phát hành trái phiếu
bằng ngoaị tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng...
Phát hành tiền giấy để bù chi
Khi ngân sách nhà nước thâm hụt,Chính phủ có thể tài trợ số thâm hụt của mình
bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở,đặc biệt là trong trường hợp nền kinh
tế đất nước suy thoái.Khi sản lượng thực tế thấp hơn mức sản lượng tiềm năng thì
việc tài trợ số thâm hụt của chính phủ bằng cách phát hành thêm lượng tiền cơ sở
sẽ góp phần thực hiện những mục đích của chính sách ổn định hoá kinh tế thông
qua việc đưa nền kinh tế tiến đến gần mức sản lượng tiềm năng mà không gây lạm
phát.
Ngược lại,khi nhu cầu của nền kinh tế quá mạnh (sản lượng thực tế cao hơn mức
sản lượng tiềm năng ) thì chính phủ không nên tài trợ số thâm hụt của mình bằng
cách tăng nhanh lượng tiền cơ sở ,vì như vậy sẽ càng kích tổng cầu lên cao và đẩy
sản lượng thực tế vượt xa mức sản lượng tiềm năng,hậu quả là làm tăng lạm phát .
Dự trữ ngoại hối
Sử dụng nguồn dự trữ ngoại tệ của quốc gia (bao gồm ngoại tệ mạnh và vàng) để
bù đắp thâm hụt NSNN. Đây là một trong những giải pháp tương đối chu toàn vừa
đảm bảo ổn định tỷ giá vừa đảm bảo không gây ra lạm phát. Tuy nhiên đối với
Việt Nam điều này không khả thi cho lắm do dự trữ ngoại tệ quốc gia đang ở mức
thấp và tình trạng mất kiểm soát đối với thị trường ngoại tệ chợ đen còn nghiêm
trọng. Thông tin nhà nước giảm dự trữ ngoại tệ sẽ khiến cho tình trạng đầu cơ găm
giữ ngoại tệ trở nên phổ biến và điều này sẽ khiến cho những cố gắng ổn đỉnh tỷ
giá hối đoái thêm khó khăn.
CÂU 3: Ngân sách nhà nước thu từ nguồn thuế. Vậy thuế có bao nhiêu loại chưng
thu? Từ các nguồn thu ngân sách đó ai sẽ được hưởng lợi?
Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc cho nhà nước do luật pháp qui định đối với
các pháp nhân và thể nhân thuộc đối tượng chịu thuế nhằm đáp ứng nhu cầu chi
tiêu của nhà nước. Thuế là hình thức phân phối lại bộ phận nguồn tài chính của xã
hội, không mang tính hoàn trả trực tiếp cho người nộp. Do đó, tại thời điểm nộp
thuế, người nộp thuế không được hưởng bất kỳ một lợi ích nào mà xem như đó là
trách nhiệm và nghĩa vụ đối với nhà nước. Như vậy, thuế mang tính cưỡng chế và
được thiết lập theo nguyên tắc luật định.
Bằng quyền lực chính trị của mình, nhà nước đã ban hành các loại thuế để tạo lập
nguồn thu cho Ngân sách nhà nước, các khoản thu này được bố trí sử dụng theo dự
toán ngân sách nhà nước đã được phê duyệt cho tiêu dùng công cộng và đầu tư
phát triển nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụcủa nhà nước. Như vậy, thuế phản
ảnh các quá trình phân phối lại thu nhập trong xã hội, thể hiện các mối quan hệ tài
chính giữa nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.
Phân loại thuế.
- Phân loại thuế theo tính chất: Với cách phân loại này thuế được chia thành
hai nhóm lớn:
o Nhóm thuế trực thu: là những loại thuế mà nhà nước thu trực tiếp vào
các pháp nhân hay thể nhân khi có tài sản hoặc thu nhập được qui
định nộp thuế. Đây là loại thuế mà người nộp thuế chính là người
chịu thuế và họ không có khả thu hồi lại tiền thuế bằng cách chuyển
gánh nặng thuếs ang một người khác. Ví dụ như: thuế thu nhập cá
nhân, thuế nhà đất
o Nhóm thuế gián thu:là những loại thuế đánh vào giá trị hàng hoá khi
nó lưu chuyển trên thị trường, là loại thuế mà người trực tiếp nộp
thuế không phải là người chịu thuế, nó được cấu thành trong giá cả
hàng hoá dịch vụ và người tiêu dùng là người chịu thuế. Người nộp
thuế gián thu chẳng qua là nộp hộngười tiêu dùng. Ví dụ như: V.A.T,
thuế tiêu thụ đặc biệt
Cách phân loại thuế theo tính chất cho thấy được vai trò của từng loại thuế
trong phân phối và điều tiết thu nhập của các chủ thể trong xã hội, phản ảnh
mối tương quan giữa thuế trực thu và thuế gián thu trong tổng thu nhập về
thuế của ngân sách nhà nước và có ý nghĩa trong việc hệ thống hóa một
cách khoa học các sắc thuế phục vụ cho việc nghiên cứu và thiết kế các
chính sách thuế.
- Phân loại thuế theo đối tượng đánh thuế: theo cách phân lọai này hệ thống
thuế được chia thành:
o Thuế đánh vào các hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ: thuế giá trị
gia tăng (V.A.T).
o Thuế đánh vào sản phẩm. Ví dụ: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất
nhập khẩu.
o Thuế đánh vào thu nhập. Ví dụ: thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu
nhập cá nhân.
o Thuế đánh vào tài sản. Ví dụ: thuế nhà đất, thuế trước bạ.
o Thuế đánh vào các tài sản thuộc sở hữu nhà nước. Ví dụ: thuế tài
nguyên.
Việc phân loại thuế theo đối tượng như trên vừa phát huy tác dụng riêng của
từng loại thuế, vừa hỗ trợ cho nhau để bảo đảm thực hiện chức năng toàn
diện của cả hệ thống thuế.
Vai trò của thuế
Thuế không chỉ đơn thuần là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước mà
thuế còn gắn liền với các vấn đề về sự tăng trưởng kinh tế, về sự công bằng trong
phân phối và sự ổn định xã hội. Trong phạm vi nghiên cứu các vấn đề của tài chính
và ngân sách nhà nước, chúng ta sẽ xem xét thuế với các vai trò cơ bản của nó là:
tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước, kích thích tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh
thu nhập.
- Tạo nguồn thu cho ngân sách nhà nước: Là vai trò đầu tiên của thuế. Mỗi
một loại thuế mà nhà nước ban hành đều nhằm vào mục đích là tạo nguồn
thu cho ngân sách nhà nước. Trong nền kinh tế thị trường vai trò này của
thuế càng nổi bật bởi thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước. Vai
trò tạo nguồn thu của thuế xuất phát từ yêu cầu và quyền lực của nhà nước
đối với xã hội. Nhà nước với quyền lực chính trịcó thể ban hành các loại
thuế với các mức thuế suất tuỳ ý. Tuy nhiên, khi xét về mục đích lâu dài khi
định ra các loại thuế, thuế suất, đối tượng chịu thuế chính phủ không chỉ
đơn thuần thỏa mãn nhu cầu tăng thu của ngân sách nhà nước, mà phải thỏa
mãn đồng thời yêu cầu tăng trưởng kinh tế và điều chỉnh thu nhập. Việc đáp
ứng cả ba yêu cầu đó đòi hỏi chính phủ phải tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng
khi ban hành các loại thuế, bởi vì nguồn thu của thuế bắt nguồn từ thu nhập
quốc dân, khả năng động viên của thuế phụ thuộc chủ yếu vào phát triển của
sản xuất, hiệu quả của sản xuất. Như vậy, tạo nguồn thu cho ngân sách nhà
nước là vai trò cơbản của thuế. Tuy nhiên để phát huy tốt vai trò này cần
phải đặt thuế trong mối quan hệvới tăng trưởng kinh tế và thực hiện công
bằng xã hội, bởi vì chính sự tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã
hội là cơ sở tồn tại và phát triển của thuế.
- Vai trò kích thích tăng trưởng kinh tế: là vai trò không kém phần quan trọng
bởi vì chính sách thuế ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, giá cả, quan hệ
cung cầu, cơ cấu đầu tư và đến sự phát triển hoặc suy thoái của một nền
kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường nhà nước sử dụng công cụ thuế để điều
tiết sản xuất và thị trường nhằm xác lập một cơ cấu kinh tế hợp lý; có những
ngành kinh tế tác động đến sự tăng trưởng kinh tế (kinh tế công cộng)
nhưng lại không được các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế quan tâm
vì lợi nhuận không cao, cần có sự đầu tư của nhà nước. Điều này đòi hỏi
phải huy động thuế một tỷ lệ tương đối cao đối với một số ngành có điều
kiện thuận lợi trong những thời kỳ nhất định và một tỷ lệ thuế tương đối
thấp đối với những ngành kém thuận lợi nhằm tạo cơ sở hạ tầng cho nền
kinh tế. Đồng thời, việc phân biệt thuế suất đối với từng loại sản phẩm,
ngành hàng tự nó đã góp phần điều chỉnh giá cả, quan hệ cung cầu và hướng
dẫn các nhà đầu tư bỏ vốn vào đầu tư những sản phẩm, ngành hàng theo
đúng định hướng của nhà nước và việc ưu đãi thuế đối với một số mặt hàng,
ngành nghề cũng góp phần kích thích tăng trưởng kinh tế.
Nhìn chung trongquá trình cải cách hệ thống thuế của nước ta nhà nước đã
chú trọng xác lập đúng đắn mối quan hệ giữa các loại thuế, xác định hợp lý
các đối tượng chịu thuế, thuế suất và chế độ miễn giảm cho nên hệ thống
thuế hiện hành đã phát huy tác dụng trong việc khuyến khích đầu tư, phát
triển những ngành sản xuất kinh doanh có lợi cho nền kinh tế, hướng dẫn
sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài,
bảo vệ và phát triển sản xuất hàng hóa trong nước và tạo điều kiện cho hàng
hóa trong nước xâm nhập, cạnh tranh được với thị trường thế giới.
- Vai trò điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội: Trong nền kinh tế thị
trường, nếu không có sự can thiệp của nhà nước, để thị trường tự điều chỉnh
thì sự phân phối của cải và thu nhập sẽ mang tính tập trung rất cao tạo ra hai
cực đối lập nhau: một thiểu số người sẽ giàu có lên nhanh chóng, còn cuộc
sống của đại bộ phận dân chúng ở mức thu nhập thấp. Thực tế, sự phát triển
của một đất nước là kết quả nỗ lực của cả một công đồng, sẽ không công
bằng nếu không chia xẻ thành qủa phát triển kinh tế cho mọi người. Bởi vậy
cần có sự can thiệp của nhà nước vào qúa trình phân phối thu nhập, sự can
thiệp này đặc biệt hiệu qủa bằng cách sử dụng công cụ thuế.
- Với các sắc thuế như: Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế thu
nhập theo hướng thuế đánh cao vào những hàng hóa dịch vụ cao cấp,
người có thu nhập cao nhằm điều tiết bớt thu nhập của các doanh nghiệp, cá
nhân có thu nhập cao. Đồng thời thuế đánh thấp vào những hàng hóa dịch
vục ần thiết cho đại bộ phận dân chúng. (Ví dụ: thuế tiêu thụ đặc biệt thuế
suất 75% đối với rượu từ40 độ trở lên, thuế suất 15% đối với rượu thuốc.
Bia chai, bia hộp, bia tươi thuế suất 75% trong khi bia hơi thuế suất là
30% ). Như vậy, việc qui định về đối tượng chịu thuế, thuế suất từng
ngành hàng như trên bên ngoài như là một sự cưỡng chế nhưng bên trong
nhằm điều chỉnh những quan hệ xã hội nhất định. Mặt khác, những nhà
doanh nghiệp cũng không thể suốt đời phục vụ cho mục đích tăng trưởng
kinh tế nếu thu nhập của họ bị chia xẻ một cách vô lý. Đây là mâu thuẩn cơ
bản trong nền kinh tế thị trường mà chính sách thuế của chính phủ phải giải
quyết. Thực ra, vẫn có một mối quan hệ phụ thuộc để tồn tại giữa nhà kinh
doanh và người lao động. Tức là, có một giới hạn phân phối lại mà ở đó độ
nhạy cảm về tăng trưởng bị hạn chế, các nhà kinh doanh sẳn sàng đóng góp
một phần thu nhập cho xã hội mà không làm suy giảm sựtăng trưởng của
họ. Chính sách thuế phải xác định được khung giới hạn đó thông qua phản
ứng của doanh nghiệp đối với thuế suất từng loại thuế và có sự điều chỉnh
cho phù hợp.
CHƯƠNG 8: LẠM PHÁT.
CÂU 1: Nguyên nhân của lạm phát và hậu quả của nó để lại như thế nào?
Nguyên nhân và bản chất của lạm phát được hiểu theo nhiều cách khác nhau, nhưng
chung qui lại lạm phát xuất hiện do những nguyên nhân sau:
- Sự mất cân đối của nền kinh tế quốc dân, sản xuất thấp kém, thâm hụt ngân
sách quốc gia. Đây được coi là nguyên nhân của mọi nguyên nhân. Nói cách
khác, sự khủng hoảng của nền kinh tế và tài chính của một quốc gia là
nguyên nhân cơ bản và sâu xa đưa đến lạm phát.
- Lượng tiền cung cấp vào lưu thông quá mức cần thiết cũng là nguyên nhân
trực tiếp của lạm phát.
- Một nguyên nhân không kém phần quan trọng là hệ thống chính trị bị khủng
hoảng do những tác động bên trong hoặc bên ngoài, làm cho lòng tin của dân
chúng vào chế độ tiền tệ NN bị ảnh hưởng, từ đó làm uy tín và sức mua của
đồng tiền bị giảm sút.
- Nguyên nhân chủ quan khác đó là do NN chủ động sử dụng lạm phát như là
một công cụ để thực thi chính sách kinh tế của mình. Từ những phân tích
trên có thể nói rằng lạm phát vừa là một phạmtrù kinh tế
- Khách quan, vừa là một công cụ kinh tế được NN sử dụng để phát triển kinh
tế. Vì việc phân phối sản phẩm và thu nhập đều được thực hiện thông qua
tiền tệ nên lạm phát là biện pháp để phân phối lại sản phẩm và thu nhập
trong nền kinh tế. Như vậy lạm phát mang bản chất kinh tế– xã hội sâu sắc
chứ không phải là một hiện tượng tự nhiên của nền kinh tế
Hậu quả của lạm phát.
- Trừ lạm phát một chữ số thì hầu hết các loại lạm phát khác đều gây ảnh
hưởng không tốt đến quá trình phát triển của nền kinh tế xã hội. Cụ thể: Đối
với hoạt động sản xuất kinh doanh: do lạm phát, giá cả hàng hoá, nguyên
liệu tăng làmcho việc sản xuất kinh doanh và kết quả cuối cùng ngày càng
giảm sút và không chính xác, dẫn đến sự phát triển không đồng đều, mất cân
đối giữa các ngành (ngành có chu kỳ sản xuất kinh doanh dài ngày càng bị
thua lỗ nặng nề, trong khi ngành có chu kỳ sản xuất kinh doanh ngắn thì có
thể trụ được nhưng vẫn gặp không ít khó khăn. Lĩnh vực lưu thông buôn
bán: giá cả hàng hoá tăng dẫn đến tình trạng tích đầu cơ tích trữ hàng hoá,
gây hỗn loạn quan hệ cung cầu, tạo sự mất cân đối giả tạo làm cho lĩnh vực
lưu thông cũng bị rối loạn. Tuy nhiên, với mức lạm phát cao cũng là một
điều kiện để thực hiện khuyến khích xuất khẩu. Lĩnh vực tiền tệ tín dụng:
Lạm phát làm cho sức mua của đồng tiền giảm, tốc độ lưu thông của thị
trường tăng lên càng làm cho sức mua của đồng tiền giảm xuống nhanh
chóng. Hoạt động của hệ thống ngân hàng rơi vào tình trạng khủng hoảng do
lượng tiền gởi vào ngân hàng giảm mạnh làm cho nhiều ngân hàng bị phá
sản do mất khả năng thanh toán, thua lỗ trong kinh doanh. Tình hình đó làm
cho hệ thống tiền tệ bị rối loạn và không kiểm soát nổi.
- Lĩnh vực tài chính NN: tuy lúc đầu lạm phát mang lại thu nhập chi ngân sách
NN qua cơ chế phân phối lại thu nhập và kể cả qua cơ chế phát hành. Nhưng
ảnh hưởng nặng nề và lâu dài của lạm phát lại làm giảm nguồn thu của ngân
sách, chủ yếu là thuế do sản xuất bị sút kém, nhiều doanh nghiệp, công ty bị
phá sản, giải thể, . Trật tự an toàn xã hội bị phá hoại nặng nề.
Tóm lại, hậu quả của lạm phát rất nặng nề và nghiêm trọng. Lạm phát gây hậu quả
đến toàn bộ đời sống kinh tế– xã hội của một nước. Lạm phát làm cho quá trình
phân hoá giàu nghèo nghiêm trọng hơn. Lạm phát làm cho nhóm này kiếm được lợi
lộc nhưng lại làm cho nhóm khác thiệt hại nặng nề, nhất là đối với người lao động.
CÂU 2: Khi lạm phát vượt quá ngưỡng “00” thì ta gọi lạm phát đó là gì? Và các công
cụ phòng chống nó?
Các biện pháp kiềm chế lạm phát.
Trong trường hợp có lạm phát xảy ra, Nhà nước thường áp dụng các giải pháp sau:
- Thắt chặt khối cung tiền tệ Khi khối cung tiền tệ trong lưu thông tăng lên sẽ
làm tăng tổng cầu và giá cả hàng hóa sẽ tăng lên. Trong trường hợp nền kinh
tế có dấu hiệu lạm phát NHTW sẽ thực hiện chính sách thắt chặt khối cung
tiền tệ bằng các công cụ của mình như tăng lãi suất chiết khấu, tái chiết
khấu, tăng tỷ lệ dự trữ pháp định, không phát hành thêm tiền vào lưu thông.
- Kiềm giữ giá cả bằng các biện pháp:
o Nhập khẩu lượng hàng mà nền kinh tế thiếu.
o Xuất kho dự trữ ra bán.
o Thực hiện chính sách kiểm soát giá.
- Ấn định mức lãi suất cao.
Khi lãi suất tiền gửi được ấn định ở mức cao sẽ thu hút bớt tiền trong lưu
thông về, tuy nhiện sử dụng biện pháp này cần sự hỗ trợ của NHTW và
NSNN
- Giảm chi tiêu ngân sách: Chi tiêu ngân sách là 1 bộ phận quan trọng của tổng
cầu, giảm chi ngân sách những khoản chưa thật sự cần thiết sẽ làm giảm sức
ép đối với tổng cầu và giá cả sẽ hạ xuống.
- Hạn chế tăng tiền lương.
Tiền lương là 1 bộ phân quan trọng trong chi phi sản xuất, tăng tiền lượng sẽ
làm tăng tổng chi phí sản xuất dẫn đến làm giá cả tăng lên, đồng thời tăng
tiền lương cũng làm tăng thu nhập cho dân chúng gây sức ép làm tăng tổng
cầu.
- Lạm phát chống lạm phát Nhà nước gia tăng đầu tư mở rộng sản xuất, kết
quả của đầu tư sẽ làm tăng cung tạo điều kiện cân bằng quan hệ cung cầu.
- Thực hiện chiến lược thị trường cạnh tranh hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo sẽ tránh được độc quyền đẩy giá lên, mặt khác cạnh
tranh sẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất góp phần làm
cho giá cả hàng hóa hạ xuống.
- Mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát Lạm phát và thất nghiệp là 2 yếu tố
đối nghịch nhau, người ta có thể mua lấy 1 tỷ lệ thất nghiệp và lạm phát vừa
phải để đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bình thường và đời sống xã hội ổn
định.
CÂU 3: Nêu các chỉ số về lạm phát để đo lường mức độ như thế nào?
Do biểu hiện đặc trưng của lạm phát là giá cả hàng hoá tăng liên tục nên người ta thương
căn cứ vào chỉ số giá cả hàng hoá tăng để làm căn cứ phân thành 3 loại lạm phát:
- Lạm phát vừa phải (lạmphát một con số): biểu hiện chỉ số giá cả tăng chậm trong
khoảng 10% trở lại. Do đó, đồng tiền mất giá không nhiều, không ảnh hưởng đến sản xuất
kinh doanh. Ở hầu hết các nước trên thế giới áp dụng và xem đó là chất xúc tác cho nền
kinh tế phát triển.
- Lạm phát phi mã: giá cả hàng hoá bắt đầu tăng vởi tỷ lệ 2 hoặc 3 con số. Khi lạm phát
này xuất hiện thì bắt đầu gây ảnh hưởng đến đời sống kinh tế– xã hội.
- Siêu lạm phát: xảy ra khi tốc độ tăng giá vượt xa lạm phát phi mã. Nếu trong điều kiện
của lạm phát phi mã vẫn có một số trường hợp nền kinh tế vẫn phát triển tốt như Brazil,
thì một khi siêu lạm phát xảy ra thì chắt chắc nó sẽ gây ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế
của quốc gia.
Đo lường lạm phát
Để đánh giá mức độ lạm phát người ta căn cứ vào tỷ lệ lạm phát được xác định theo công
thức:
Tỷ lệ lạm phát năm t =
Mức giá năm t − Mức giá năm (t − 1)
Mức giá năm (t − 1)
Mức giá được đo bằng giá cả trung bình của các loại hàng hoá và dịch vụ. Trên thực tế,
người ta đo mức giá bằng tỷ số giá. Chỉ số giá: Chỉ số giá là 1 chỉ tiêu phản ảnh sự thay
đổi giá cả hàng hoá, dịch vụ của 1 năm nào đó so với năm gốc. Tuỳ theo nhu cầu phân
tích, chỉ số dùng để tính tỉ lệ lạm phát là chỉ số giá toàn bộ hàng hoá, dịch vụ trong nền
kinh tế hoặc là tính theo giá của một nhóm hàng hoá tiêu biểu.
Các chỉ số đo lường lạm phát:
Chỉ số giá tiêu dùng: (CPI: Consumer price index): Được tính theo giá bán lẻ của 1
giỏ hàng hoá và dịch vụ trên thị trường, các giỏ hàng hoá chính là lượng thực, thực
phẩm, quần áo, nhà cửa, chất đốt, thuốc men. Giỏ hàng hoá được chọn với cơ cấu
và số lượng cố định.Để làm được điều đó phải tiến hành như sau:
1. Cố định giỏ hàng hóa: thông qua điều tra, người ta sẽ xác định lượng hàng hoá,
dịch vụ tiêu biểu mà một người tiêu dùng điển hình mua.
2. Xác định giá cả: thống kê giá cả của mỗi mặt hàng trong giỏ hàng hoá tại mỗi
thời điểm.
3. Tính chi phí (bằng tiền) để mua giỏ hàng hoá bằng cách dùng số lượng nhân với
giá cả của từng loại hàng hoá rồi cộng lại.
4. Lựa chọn thời kỳ gốc để làm cơ sở so sánh rồi tính chỉ số giá tiêu dùng bằng
công thức sau:
CPIt = 100 x
Chi phí để mua giỏ hàng hoá thời kỳ t
Chi phí để mua giỏ hàng hoá kỳ cơ sở
Thời kỳ gốc sẽ được thay đổi trong vòng 5 đến 7 năm tùy ở từng nước.
CPI được dùng để tính chỉ số lạm phát theo thời kỳ. Chẳng hạn,
tính chỉ số lạm phát CPI năm 2011 so với năm 2010 theo công thức
sau:
Chỉ số lạm phát
2011 = 100 x
CPI năm 2011 - CPI năm 2010
CPI năm 2010
Trên thực tế người ta có thể xác định quyền số trong tính toán chỉ số giá tiêu dùng
bằng cách điều tra để tính toán tỷ trọng chi tiêu của từng nhóm hàng hoá, dịch vụ
so với tổng giá trị chi tiêu. Sau đó quyền số này được dùng để tính chỉ số giá tiêu
dùng cho các thời kỳ sau. CPI thường được tính hàng tháng và hàng năm. CPI còn
được tính toán cho từng nhóm hàng hóa hoặc một số nhóm hàng hóa tùy theo mục
đích sử dụng. Ngoài CPI người ta cũng tính toán chỉ số giá bán buôn là mức giá
của giỏ hàng hóa do các doanh nghiệp mua vào, khác với CPI là giá do người tiêu
dùng mua vào (giá bán lẻ). Lưu ý chỉ số giá tiêu dùng năm gốc luôn bằng 1
Chỉ số giảm phát GDP (tiếng Anh: GDP deflator), còn gọi là Chỉ số điều chỉnh
GDP thường được ký hiệu là DGDP, là chỉ số tính theo phần trăm phản ánh mức giá
chung của tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong nước. Chỉ số điều chỉnh
GDP cho biết một đơn vị GDP điển hình của kỳ nghiên cứu có mức giá bằng bao
nhiêu phần trăm so với mức giá của năm cơ sở. (Số liệu thống kê của Việt nam
công bố đang tính GDP theo giá của năm 1994).
Người ta tính chỉ số giảm phát GDP theo công thức sau:
Chỉ số giảm phát GDP = 100 x
GDP danh nghĩa
GDP thực tế
Chỉ số giảm phát GDP là một phương pháp để tính tỷ lệ lạm phát (phương pháp
kia là dùng CPI). Chẳng hạn, tỷ lệ lạm phát năm 2011 theo chỉ số giảm phát GDP
được tính theo công thức:
Tỷ lệ lạm phát 2011 = 100 x
Chỉ số giảm phát GDP 2011 - Chỉ số giảm phát GDP 2010
Chỉ số giảm phát GDP 2010
CHƯƠNG 9: CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
CÂU 1: Chính sách tiền tệ của một quốc gia là gì? Nêu các mục tiêu kiểm soát điều
hòa khối tiền tệ bằng ngoại hối hoặc quốc nội?
Quy định của pháp luật về chính sách tiền tệ quốc gia
Chính sách tiền tệ quốc gia là một bộ phận của chính sách kinh tế - tài chính của Nhà
nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và nâng cao đời sống của nhân dân.
Nhà nước thống nhất quản lý mọi hoạt động ngân hàng; có chính sách để động viên các
nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức
mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế; bảo đảm vai trò chủ đạo và chủ lực của các
tổ chức tín dụng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng; giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa, chủ quyền quốc gia; mở rộng hợp tác và hội nhập quốc tế; đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước.
Các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ổn định tiền tệ, ổn định giá cả, ổn định tỷ giá hối đoái:
Thực chất của mục tiêu này là kiểm soát lạm phát để bảo vệ giá đối nội và đối
ngoại của đồng tiền quốc gia. Đây là mục tiêu hàng đầu của chính sách tiền tệ.
Ổn định và thúc đẩy phát triển kinh tế:
Đây là mục tiêu cơ bản và tất yếu của chính sách tiền tệ. Muốn ổn định và thúc đẩy
phát triển kinh tế cần phải khuyến khích mở rộng đầu tư bằng cách khai thác các
nguồn vốn tiềm năng trong nước và nước ngoài.
Tạo công ăn việc làm cho người lao động, ổn định trật tự xã hội:
Ở nước ta, trong 3 nhân tố thuộc yếu tố cung là lao động, nguồn vốn và tiến bộ kỹ
thuật thì yếu tố lao động có tiềm năng lớn nhất. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển kinh
tế với thì chính sách tiền tệ phải khai thác tối đa lực lượng lao động cho xã hội, còn
tiền tệ và tín dụng là chất xúc tác quan trọng.
Tuy nhiên cần lưu ý rằng sử dụng chính sáchtiền tệ để tạo công ăn việc làm, giảm thất
nghiệp thì rất có thể đi đến tình trạng lạm phát cao. Vấn đề quan trọng ở chỗ là làm thế
nào để vừa kiềm chế và kiểm soát được lạm phát vừa tạo được công ăn việc làm.
Người ta cho rằng, nếu duy trì lạm phát ở một tỷ lệ vừa phải thì hình như đó lại là liều
thuốc kích thích tăng trưởng kinh tế.
CÂU 2: Khi đồng tiền quốc nội không còn giá trị theo bạn ta nên vận dụng các công
cụ và biện pháp nào để giữ vũng đồng tiền đó?
Giá trị quốc nội của đồng tiền chính là sức mua đối nội của nó được đánh giá thông qua
giá cả hàng hóa trong nước.
Do đó, muốn bảo vệ đồng tiền, chính sách tiền tệ phải nhằm vào mục tiêu ổn định vật giá
nói chung. Sự gia tăng hay sụt giảm quá mức của vật giá đều có tác hại đến sự ổn định giá
trị quốc nội của đồng tiền và là sự biểu hiện của thăng trầm kinh tế.
Các công cụ và biện pháp để giữ vững đồng tiền:
Vận dụng các công cụ của chính sách tiền tệ đối với ngân hàng trung gian và thị
trường tiền tệ.
- Thay đổi dự trữ bắt buộc đối với ngân hàng trung gian.
- Thay đổi điề kiện và lãi suất chiết khấu, tái chiết khấu.
- Vận dụng chính sách thị trường mở.
- Kiểm soát tín dụng chọn lọc.
Vận dụng các công cụ của chính sách tiền tệ đối với khu vực tiền tệ đối ngoại.
- Dự trữ ngoại hối.
- Can thiệp và thị trường ngoại hối hay thị trường hối đoái.
- Sử dụng tỷ giá hối đoái như đòn bẩy thực hiện chính sách tiền tệ.
CÂU 3: Chiết khấu và tái chiết khấu trong những trường hợp nào để giữ vững lượng
lưu thông tiền tệ? Dự trữ bắt buộc là gì đối với các ngân hàng và tác động như thế
nào đến nền kinh tế?
Ngân hàng Trung ương có thể đặt ra những điều kiện rộng rãi hay nghiêm ngặt đối
với ngân hàng trung gian trong khi thực hiện chiết khấu hay tái chiết khấu nhằm
khuyến khích hay hạn chế tín dụng đối với ngân hàng trung gian.
Ngân hàng Trung ương có thể hạ thấp hay nâng cao mức lãi xuất chiết khấu, tái
chiết khấu để khuyến khích hay hạn chế ngân hàng trung gian vay mượn ở ngân
hàng Trung ương.
Dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của ngân hàng trung
ương về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân hàng thương mại bắt buộc phải tuân
thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc bằng
tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt
tiền mặt các ngân hàng thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ ngân hàng trung
ương để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đây là một trong những công cụ của ngân hàng
trung ương nhằm thực hiện chính sách tiền tệ bằng cách làm thay đổi số nhân tiền tệ.
Tác động của dự trữ bắt buộc:
Số nhân tiền tệ quyết định độ lớn của mức cung tiền mà số nhân lại có quan hệ nghịch
biến với tỷ lệ dự trữ. Do vậy, việc thay đổi dự trữ bắt buộc cảu Ngân hàng Trung ương sẽ
làm thay đổi số nhân tiền tệ, và do đó làm thay đổi lượng cung tiền trong nền kinh tế. Cụ
thể là nếu Ngân hang Trung ương điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, sẽ làm giảm số
nhân tiền tệ và do đó làm giảm lượng cung tiền. Ngược lại, Ngân hàng Trung ương cũng
có thể làm tăng lượng cung tiền trong nền kinh tế bằng cách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
CÂU 4: Năm tài khóa (năm tài chính) như thế nào đối với Việt Nam và quốc tế, mục
tiêu của năm tài khóa đề ra như thế nào?
Năm tài chính là khoảng thời gian có độ dài tương đương một năm (tức là 12 tháng hoặc
52 đến 53 tuần) dùng cho công tác kế hoạch ngân sách của tổ chức hoặc quốc gia. Năm
tài chính còn được gọi là Tài khóa. Ở Việt Nam, năm tài chính được gọi là Năm ngân
sách. Ở Mỹ, năm tài chính còn được gọi là Năm thuế. FY là các chữ viết tắt của cụm
từ Fiscal Year hoặc Financial Year trong tiếng Anh, nghĩa là năm tài chính.
Năm tài chính có độ dài tương đương với năm lịch, vì theo truyền thống, cứ ít nhất
khoảng một năm các tổ chức phải lập báo cáo tài chính hoặc khai báo thuế một lần. Năm
tài chính có thể trùng hoặc lệch với năm dương lịch, tùy theo từng quốc gia. Sở dĩ có thể
lệch là vì để tránh cho công việc tổng kết tài chính đầy phức tạp và bận rộn trùng với thời
điểm kinh doanh bận rộn dịp cuối năm dương lịch cũng như thời điểm kỳ nghỉ cuối năm
của nhân viên. Thậm chí, khoảng thời gian của năm tài chính đối với các công ty có thể
không thống nhất. Có công ty chọn năm tài chính kéo dài 52 tuần. Lại có công ty chọn
năm tài chính kéo dài 53 tuần. Tuy nhiên, hầu hết các tổ chức đều chia năm tài chính
thành từng quý giống như năm lịch.
Năm tài chính ở các quốc gia:
Anh, Ấn Độ, Canada, Hong Kong, Nhật Bản: Năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng
4 của một năm và kết thúc vào cuối ngày 31 tháng 3 năm kế tiếp.
Bỉ, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Nga, Pháp, Thái Lan, Thụy Sĩ, Trung Quốc, Việt Nam:
năm tài chính trùng với năm dương lịch.
Mỹ: Năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 10 của một năm và kết thúc vào cuối
ngày 30 tháng 9 năm kế tiếp.
Úc: Năm tài chính bắt đầu từ ngày 1 tháng 7 của một năm và kết thúc vào cuối
ngày 30 tháng 6 năm kế tiếp.
Ở Việt nam Chính phủ quy định năm tài chính là năm dương lịch bắt đầu từ ngày 01/01
và kết thúc ngày 31/12 hàng năm hoặc năm 12 tháng khác với năm dương lịch mà Bộ tài
chính cho phép doanh nghiệp được áp dụng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- on_tap_mon_tai_chinh_tien_te_4141.pdf