Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cuả bên nhượng quyền.
Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể những nội dung cần cung cấp trong bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại. Việc miêu tả cụ thể các thông tin cầm cung cấp là cần thiết để tạo thuận lợi cho việc áp dung. Các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền phải đủ cụ thể, chi tiết để bên dự kiến nhận quyền có thể đánh giá hệ thống nhượng quyền. Mặt khác, các quy định này cũng phải đảm bảo không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của bên nhượng quyền, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của bên nhượng quyền.
Thứ hai, khi quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại, cần quan tâm hơn đến yếu tố quảng bá cho bên nhượng quyền. Mặt khác, phải cân đối giữa mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và mục tiêu bảo vệ bên nhận quyền thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Cần bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trước thời hạn và quy định rõ hơn sự ràng buộc giữa các bên sau khi hợp đồng chấm dứt. Cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trước thời hạn, đảm bảo bao quát được tất cả những trường hợp có thể xảy ra. Ví dụ, trường hợp bên nhượng quyền là cá nhân chết mà không có người thừa kế, bên nhượng quyền là tổ chức bị phá sản, giải thể Đây là những trường hợp có thể xảy ra mà pháp luật chưa đề cập tới. Đồng thời với việc bổ sung này, pháp luật cũng cần phải giải quyết hậu quả pháp lí sau khi hợp đồng chấm dứt sao cho có lợi nhất đối với cả các bên và nền kinh tế.
19 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 4167 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kỳ thương mại 2: Nhượng quyền thương mại, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.
NỘI DUNG.
I - Những vấn đề chung về nhượng quyền thương mại và pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại.
Những vấn đề chung về nhượng quyền thương mại.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.
II – Nội dung của pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Những vấn đề pháp lí cơ bản về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Quy định về hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại.
Quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại.
Quy định về đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại
Quy định về xử lí vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
III – Những vướng mắc và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Những vướng mắc của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại.
KẾT LUẬN.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Trên thế giới, hoạt động nhượng quyền thương mại đã xuất hiện rất sớm và đến nay đã phát triển rộng khắp trên phạm vi toàn cầu. Nhượng quyền thương mại đang được các tập đoàn kinh doanh lớn trên thế giới sử dụng với tính chất là một trong những phương thức kinh doanh chủ yếu và có hiệu quả đặc biệt là trong lĩnh vực phân phối và dịch vụ. Nhượng quyền thương mại đã tạo ra một bức tranh sống động của nền kinh tế thế giới.
Những năm gần đây, cùng với quá trình mở cửa hội nhập sâu rộng vào kinh tế khu vực và thế giới, nền kinh tế Việt Nam phát triển ngày càng sôi động và nhượng quyền thương mại cũng nằm trong xu thế đó. Sự ra đời của Luật thương mại ( LTM) 2005 và các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo ra hành lang pháp lí cơ bản cho hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển mạnh mẽ, tuy nhiên kinh nghiệm về nhượng quyền thương mại ở Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về lí luận và thực tiễn. Việc phát triển, hoàn thiện một khuôn khổ pháp lí tối ưu cho hoạt động thương mại này không chỉ là vấn đề lí luận mà còn có ý nghĩa thực tế vô cùng quan trọng. Để tìm hiểu những quy định của hoạt động nhượng quyền thương mại từ đó đóng góp thêm một số ý kiến để hoàn thiện pháp luật điều chỉnh công ty hợp danh, em xin chọn đề tài “”.
I - Những vấn đề chung về nhượng quyền thương mại và pháp luật điều chỉnh nhượng quyền thương mại.
Những vấn đề chung về nhượng quyền thương mại.
Nhượng quyền thương mại là một hoạt động thương mại đặc biệt trong nền kinh tế. Đó là hoạt động được xây dựng nên bởi ít nhất hai bên, bên nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền thương mại, trong đó bên nhượng quyền thương mại cho phép bên nhận quyền thương mại sử dụng một “ gói” các quyền thương mại của mình mà chủ yếu là các quyền liên quan đến đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ để tiến hành kinh doanh với một tư cách pháp lí độc lập. Đổi lại bên nhận quyền phải trả phí nhượng quyền cho bên nhượng quyền thương mại, bao gồm: phí nhượng quyền ban đầu và phí nhượng quyền định kì. Ngoài ra bên nhượng quyền thương mại có thể ràng buộc bên nhận quyền thương mại bởi các thỏa thuận nhằm duy trì tính hệ thống hoặc để kiểm soát hoạt động của bên nhận quyền thương mại trên cơ sở có hỗ trợ kĩ thuật và đào tạo nhân lực cúng như một số cơ sở vật chất cần thiết cho bên nhận quyền thương mại. Sự mất cân xứng về thông tin và khả năng xâm hại quyền sở hữu trí tuệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền thương mại làm cho lợi ích của các bên trong quan hệ NQTM có nhiều nguy cơ phát sinh tranh chấp, đòi hỏi phải được pháp luật điều chỉnh một cách đầy đủ và hiệu quả.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại.
Pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, pháp luật điều chỉnh NQTM chính là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và thực hiện hoạt động NQTM. Theo nghĩa hẹp, pháp luật điều chỉnh NQTM được hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh trực tiếp các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình các thương nhân tiến hành hoạt động NQTM.
Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM bao gồm một số vấn đề cơ bản sau: quy định về hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại; quy định về hợp đồng chuyển nhượng quyền thương mại; quy định về việc cung cấp thông tin hệ thống nhượng quyền thương mại; quy định về đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại; và quy định về xử lí vi phạm trong hoạt động NQTM. Những quy định này đã tạo một môi trường pháp lí cho hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên và sự ổn định kinh tế.
II – Nội dung của pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam.
Lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam, Thông tư số 1254/ 1999/ TT- BKHCNMT ngày 12/ 7/ 1999 đã đề cập đến “ Hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh – tiếng Anh gọi là franchise”. Nghị định 11/ 2005/ NĐ- CP ngày 2/ 2/ 2005 quy định chi tiết về việc chuyển giao công nghệ cũng đề cập đến hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh với tư cách là một nội dung của hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 khoản 6 Nghị định này, cấp phép đặc quyền kinh doanh là hoạt động trong đó “ bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại”. Điều 755 BLDS 2005 cũng quy định rằng cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong những đối tượng chuyển giao công nghệ. Đây chính là những sự ghi nhận đầu tiên về nhượng quyền thương mại trong pháp luật Việt Nam. Với sự ra đời của LTM 2005, nhượng quyền thương mại chính thức được công nhận và luật hóa trong tám điều, từ Điều 284 đến Điều 291. Ngày 31/ 3/ 2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/ 2006/ NĐ- CP quy định chi tiết LTM về hoạt động nhượng quyền thương mại. Đến ngày 25/ 5/ 2006, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 09/ 2006/ TT- BTM hướng dẫn đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại. Các văn bản này đã điều chỉnh một cách cơ bản các vấn đề về nhượng quyền thương mại. Ngoài ra, do tính chất đặc thù của mình, hoạt động nhượng quyền thương mại còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu tri tuệ, pháp luật về chuyển giao công nghệ, pháp luật cạnh tranh và các quy định pháp luật khác có liên quan.
Như vậy, khung pháp lí cơ bản cho hoạt động nhượng quyền thương mại đã được hình thành, mặc dù còn sơ sài nhưng đã tao cơ sở cho nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Những vấn đề pháp lí cơ bản về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam.
Quy định về hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại.
Pháp luật nhượng quyền thương mại Việt Nam không quy định trực tiếp việc phân loại các hình thức nhượng quyền thương mại. Mặc dù vậy vẫn có thể tìm thấy những quy định gián tiếp hướng tới việc phân loại hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại. Tại Điều 3 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP khi giải thích các từ ngữ có liên quan đã đề cập tới những tên gọi khác nhau dành cho các chủ thể của các hợp đồng nhượng quyền thương mại với các hình thức khác nhau. Cụ thể là “ bên nhượng quyền sơ cấp”, “ bên nhượng quyền thứ cấp”, “ bên nhận quyền sơ cấp”, “ bên nhận quyền thứ cấp”. Theo điều luật này, “ bên nhượng quyền thứ cấp” là thương nhân có quyền cấp lại quyền thương mại mà mình đã nhận từ bên nhượng quyền ban đầu cho bên nhận quyền thứ cấp; “ bên nhận quyền sơ cấp” là thương nhân nhận quyền thương mại từ bên nhượng quyền ban đầu; “ bên nhận quyền sơ cấp” là bên nhượng quyền thứ cấp trong quan hệ với bên nhận quyền thứ cấp; “ bên nhận quyền thứ cấp” là thương nhân nhận lại quyền thương mại từ bên nhượng quyền thứ cấp.
Bên cạnh đó, cũng tại Điều 3 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP có ghi nhận “ quyền thương mại chung”, “ hợp đồng phát triển quyền thương mại”, “ hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp”. Theo đó, “ hợp đồng phát triển quyền thương mại” là hợp đồng nhượng quyền thương mại mà bên nhượng quyền cho bên nhận quyền được phép thành lập nhiều hơn một cơ sở của mình để kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại trong phạm vi một khu vực địa lí nhất định. “Quyền thương mại chung” là quyền do bên nhượng quyền trao cho bên nhượng quyền thứ cấp được phép cấp lại quyền thương mại cho các bên nhận quyền thứ cấp. “ Hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp” là hợp đồng nhượng quyền thương mại kí giữa bên nhượng quyền thứ cấp và bên nhận quyền thứ cấp theo quyền thương mại chung.
Như vậy, theo quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại, bên cạnh hình thức nhượng quyền thương mại thông thường, trong đó bên nhượng quyền là chủ sở hữu trực tiếp của quyền thương mại, với tư cách là đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại và bên nhận quyền là bên trực tiếp kinh doanh dưới tên thương mại của bên nhượng quyền do sự cho phép trực tiếp của bên nhượng quyền thì vẫn còn có những hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại khác, đó là hình thức nhượng quyền thương mại gián tiếp, trong đó tồn tại hai mối quan hệ hợp đồng: thứ nhất, mối quan hệ hợp đồng phát triển quyền thương mại mà bên chủ thể của chúng một bên là chủ sở hữu của quyền thương mại và bên kia là người phát triển quyền thương mại, có quyền cấp lại quyền thương mại đó cho các bên khác; thứ hai, mối quan hệ hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp mà chủ thể của chúng một bên là người phát triển
( hay còn gọi là bên nhượng quyền thứ cấp) và bên kia là các bên nhận quyền riêng lẻ ( hay còn gọi là bên nhận quyền thứ cấp).
Quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Về chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Theo Điều 5, Điều 6, Điều 7 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP, chủ thể tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng quyền là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ nhất ( bên nhượng quyền sơ cấp) và bên nhượng lại quyền ( bên nhượng quyền thứ cấp). Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương mại để khai thác, kinh doanh, gồm cả bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp. Bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải đáp ứng những điều kiện nhất định để có thể tham gia quan hệ nhượng quyền thương mại. Bên nhượng quyền được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng đủ các điều kiện: Hệ thống kinh doanh dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất một năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại ít nhất một năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại; đã đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại với cơ quan có thẩm quyền; hàng hóa, dịch vụ kinh doanh thuộc đói tượng của nhượng quyền thương mại là hàng hóa, dịch vụ không thuộc danh mục hành hoa, dịch vụ cấm kinh doanh. Trường hợp hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh, danh mục hàng hóa, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi cơ quan quản lí ngành cấp giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Đối với bên nhận quyền, pháp luật cũng yêu cầu phải là thương nhân có đủ khả năng tiến hành các hoạt động kinh doanh sau khi nhận quyền kinh doanh của bên nhượng quyền.
Hình thức của hợp đồng nhượng quyền thương mại:
Theo quy định tại Điều 285 LTM, hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức có giá trị pháp lí tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Việc quy định như vậy đảm bảo tính minh bạch rõ ràng của hợp đồng nhượng quyền thương mại, tạo căn cứ vững chắc cho các bên thực hiện quyền va nghĩa vụ của mình theo hợp đồng và tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp.
Về nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên:
Theo quy định tại các Điều 286, 287, 288, 289 LTM 2005, các bên có những quyền và nghĩa vụ sau:
*) Bên nhượng quyền có ba quyền cơ bản: Thứ nhất, nhận tiền chuyển nhượng; thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống nhượng quyền thương mại; thứ ba, kiểm tra định kì hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm đảm bảo sự thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại và sự ổn định về chất lượng hàng hóa, dịch vụ.
Đồng thời bên nhượng quyền có nghĩa vụ: Thứ nhất, cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống nhượng quyền thương mại cho bên nhận quyền; thứ hai, đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giuos kĩ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống nhượng quyền thương mại; thứ ba, thiết kế và xắp sếpđịa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của bên nhận quyền; thứ tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng nhượng quyền thương mại; thứ năm, đối xử bình đẳng với các bên nhận quyền trong hệ thống nhượng quyền thương mại.
*) Bên nhận quyền có quyền: Thứ nhất, yêu cầu thương nhân nhượng quyền cung cấp đầy đủ trợ giúp kĩ thuật có liên quan đến hệ thống nhượng quyền thương mại; thứ hai, yêu cầu thương nhân nhượng quyền đối xử bình đẳng với các thương nhân nhận quyền khác trong hệ thống nhượng quyền thương mại. Bên nhận quyền cũng có nghĩa vụ: Thứ nhất, trả tiền nhượng quyền thương mại và các khoản thanh toán khác; thứ hai, đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền và bí quyết kinh doanh mà bên nhượng quyền chuyển giao; thứ ba, chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền; thứ tư, giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đa được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt; thứ năm, ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại; thứ sáu, điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống nhượng quyền thương mại; thứ bảy, không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại là tương đồng với quy định pháp luật của cả nước.
Chấm dứt hợp đồng trước thời hạn:
Khoản 2 Điều 13 và Điều 16 NĐ 35/ 2006/ NĐ- CP quy định những điều kiện để bên nhượng quyền và bên nhận quyền được đơn phương chấm dứthợp đồng trước thời hạn. Theo đó, các bên chỉ được phép chấm dứt khi có những lí do chính đáng, đồng thời cho phép bên nhận quyền được sửa chữa những sai phạm khi vi phạm nghĩa vụ không cơ bản trong hợp đồng. Các quy định này tương đối bao quát các trường hợp có thể xảy ra nhằm đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng cho các bên khi tham gia hợp đồng nhượng quyền thương mại.
Mặt khác, theo quy định tại khoản 4 Điều 289 LTM, sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn tiếp tục ngay cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Theo đó, bên nhận quyền phải giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền hương mại kết thúc hoặc chấm dứt. Đây là quy định cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng cho bên nhượng quyền, đem lại sự an toàn cho bên nhượng quyền khi tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại.
Quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại.
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP, ít nhất 15 ngày làm việc trước khi kí kết hợp đồng, bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng nhượng quyền thương mại mẫu và bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của mình cho bên dự kiến nhận quyền, nếu các bên không có thỏa thuận khác. Đây là thời gian phu hợp để bên dự kiến nhận quyền có thể xem xét và cân nhắc về việc có tham gia vào hệ thống nhượng quyền hay không. Việc quy định thời hạn 15 ngày trước khi kí kết hợp đồng là khá tương đồng với pháp luật nhiều nước trên thế giới( Ở Trung Quốc, thời hạn này là 20 ngày trước khi kí hợp đồng; theo pháp luật Mỹ là 14 ngày trước khi kí hợp đồng)
Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền còn được đặt ra sau khi hợp đồng đã được kí kết, trong suốt quá trình kinh doanh, nếu như bên nhượng quyền có những thay đổi quan trong trong hệ thống nhượng quyền thương mại có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức nhượng quyền thương mại của bên nhận quyền. Nội dung bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại rất quan trọng đối với bên dự kiến nhận quyền trong việc đi đến quyết định có tham gia vào hệ thống nhượng quyền thương mại không. Chính vì thế mà nội dung này được pháp luật quan tâm điều chỉnh và được quy định khá chi tiết trong thông tư 09/ 2006/ TT- BTM.
Điều 8 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP bổ sung thêm nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền thứ cấp cho bên dự kiến nhận quyền thứ cấp trong trường hợp quyền thương mại đã cấp là quyền thương mại chung.
Quy định về đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại
Đăng kí là một điều kiện bắt buộc đối với thương nhân để tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại. Thông qua việc đăng kí, Nhà nước có cơ sở để quản lí kiểm tra, giám sát hoạt động nhượng quyền thương mại, đánh giá thương nhân có đủ điều kiện kinh doanh nhượng quyền thương mại hay không, quyền thương mại dự định chuyển giao có hợp pháp hay không.
Các quy định về đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại tương đối đơn giản và minh bạch. Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP và Thông tư 09/ 2006/ TT- BTM, đã quy định cụ thể về hồ sơ đăng kí, thủ tục tiếp nhận hồ sơ, thời hạn trả lời của cơ quan tiến hành đăng kí; thủ tục tiến hành đăng kí vào sổ đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại; thủ tục đăng kí lại khi thương nhân chuyển địa chỉ trụ sở chính trong tỉnh khác; thủ tục thay đổi thông tin đăng kí trong hoạt động nhượng quyền thương mại; thủ tục xóa đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại. Nhìn chung, những quy định của pháp luật về thủ tục đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại là tương đối đơn giản và minh bạch theo hướng đơn giản hóa thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các thương nhân, nhưng vẫn đảm bảo sự quản lí của Nhà nước đối với hoạt động này.
Quy định về xử lí vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại.
Pháp luật Việt Nam đã quy định những hành vi bị coi là vi phạm hành chính trong hoạt động nhượng quyền thương mại và chế tài xử lí đối với chúng nhằm đảm bảo một môi trường lành mạnh cho hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển. Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP quy định các hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong hoạt động nhượng quyền thương mại của cả bên nhận quyền và bên nhượng quyền, bao gồm: kinh doanh nhượng quyền thương mại khi chưa đủ điều kiện quy định; nhượng quyền thương mại đối với những hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh; vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại; thông tin trong bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại có nội dung không trung thực, vi phạm quy định về đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại; vi phạm quy định về thông báo trong hoạt động nhượng quyền thương mại; không nộp thuế theo quy định của pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; không chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra, thanh tra; vi phạm các quy định khác của Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, chế tài áp dụng có thể bao gồm xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lí vi phạm hành chính, phải bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác.
III – Những vướng mắc và hoàn thiện quy định của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Những vướng mắc của pháp luật về hoạt động nhượng quyền thương mại.
Các quy định của luật về hoạt động nhượng quyền thương mại đã tạo khung pháp lí cơ bản cho sự hình thành và phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại. Tuy nhiên, do đây là một nội dung kinh doanh mới nhưng khi du nhập vào Việt Nam lại khá phát triển và được áp dụng nhiều, những quy định của luật vẫn chỉ mang tính định khung, chỉ quy định những vấn đề cơ bản. Vì thế trong quá trình áp dụng luật vào hoạt động nhượng quyền thương mại chưa thực sự phù hợp, vẫn còn nhiều bất cập và vướng mắc cấn quan tâm.
Thứ nhất, so với cách thức phân loại các hình thức của hoạt động nhượng quyền thương mại theo quy định của một số quốc gia trên thế giới cũng như quy ước của các thương nhân trong quá trình thực tiễn thực hiện hoạt động nhượng quyền thương mại , sự phân loại gián tiếp các hình thức hoạt động nhượng quyền thương mại của pháp luật Việt Nam vẫn còn chưa đủ để có thể giải quyết được những sự kiện pháp lí, hậu quả pháp lí có thể nảy sinh khi các thương nhân lựa chọn các hình thức nhượng quyền thương mại khác nhau để tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại. Sự tồn tại khái niệm “ quyền thương mại chung” và “ hợp đồng phát triển quyền thương mại” vẫn chưa được giải thích một cách đầy đủ và vẫn chưa có những đặc trưng giúp thương nhân phân tách giữa việc kí kết hợp đồng loại này với các hợp đồng nhượng quyền thương mại thông thường khác. Sự dừng lại của những quy định pháp luật về khái niệm và một vài quyền sơ sài thì không thể khẳng định là đủ với mối quan hệ có tính chất phức tạp như vậy.
Thứ hai, những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng nhượng quyền thương mại chỉ mang tính chất khung, chưa cụ thể, chưa lường trước và giải quyết được mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và cạnh tranh.
Pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất khung, định hướng cho các bên trong uan hệ nhượng quyền thương mại. Việc xác định cụ thể và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này như thế nào là tùy thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đống. Trên thực tế, cách hiểu về việc thực hiện như thế nào cho đúng nghĩa vụ của các bên rất dễ dẫn đến bất đồng và làm nảy sinh tranh chấp hoặc cũng có thể dẫn tới việc không đảm bảo quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
Hợp đồng nhượng quyền thương mại, ngoài những nội dung cơ bản của một hợp đồng dân sự hay thương mại( như quyền và nghĩa vụ của các bên, thời hạn hợp đồng…) thường có các nội dung: quy định về các khoản thanh toán hợp đồng nhượng quyền thương mại; nội dung quyền thương mại được chuyển nhượng, địa điểm kinh doanh, đào tạo;duy trì tính thống nhất của hệ thống nhượng quyền thương mại; bảo hiểm, bồi thường; nghĩa vụ nộp thuế; cạnh tranh; trọng tài…Để thể hiện các nội dung trên, các bên kí kết hợp đồng nhượng quyền thương mại có thể soạn thảo các điều khoản, vô tình hoặc cố ý tạo ra quan hệ thương mại độc quyền hoặc cạnh tranh không lành mạnh, từ đó có thể vi phạm luật cạnh tranh.
Thứ ba, các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phù hợp khi áp dụng cho “ hợp đồng nhượng quyền phát triển khu vực” và “ hợp đồng nhượng quyền thương mại hai cấp”.
Theo logic, những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được áp dụng cho cả hợp đồng nhượng quyền thương mại thông thường lẫn hợp đồng phát triển khu vực, hợp đồng nhượng quyền thương mại sơ cấp và thứ cấp. Tuy nhiên, những quyền và nghĩa vụ đó sẽ hợp lí trong trường hợp của hợp đồng nhượng quyền thương mại một cấp thông thường. Còn với tính chất phức tạp của các hợp đồng còn lại thì khi áp dụng những quy định này, có lẽ không phù hợp và không thể hiện được bản chất của chúng.
Thứ tư, các quy định về chấm dứt hợp đồng trước thời hạn chưa bao quát được hết các trường hợp có thể xảy ra. Điều 16 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP quy định: nếu bên nhận quyền bị giải thể hoặc phá sản, thì hợp đồng nhượng quyền thương mại sẽ được chấm dứt trước thời hạn. Tuy nhiên, trường hợp bên nhượng quyền bị giải thể, phá sản, hợp đồng sẽ được xử lí như thế nào thì pháp luật chưa đề cập tới. Nếu công việc kinh doanh của bên nhận quyền vẫn tốt đẹp, liệu bên nhận quyền có phải ngừng khai thác quyền thương mại được chuyển giao hay không và sự ràng buộc giữa hai bên sẽ như thế nào?
Thứ năm, quy định nội dung thông tin cần cung cấp về hệ thống nhượng quyền thương mại chưa đủ cụ thể để áp dụng. Thông tư 09/ 2006/ TT- BTM mới chỉ đưa ra những “tiêu đề” của những thông tin mà bên nhượng quyền cần phải cung cấp. Tuy nhiên, đối với mỗi loại thông tin cần phải có những nội dung gì thì chưa được làm rõ. Việc cần phải cung cấp những nội dung gì, mức độ cụ thể và chi tiết đến đâu rất quan trọng. Nếu thông tin cung cấp chỉ ở mức độ sơ lược sẽ koong đủ để bên dự kiến nhận quyền có thể đưa ra được những đánh giá cần thiết để quyết định tham gia vào hợp đồng. Việc chỉ quy định ở mức độ sơ sài những nội dung thông tin cần cung cấp như vậy sẽ có thể gây ra khó khăn cho các bên khi thực hiện. Hơn nữa, việc cung cấp thông tin về bên nhượng quyền rất quan trọng trong việc bên dự kiến nhậ quyền có quyết định tham gia hệ thống nhượng quyền không nhưng các thông tin yêu cầu cung cấp chủ yếu nhằm phục vụ mục đích thống kê, quản lí Nhà nước chứ chưa nhằm mục đích quảng cáo cho bên nhượng quyền.
Thứ sáu, quy định về thủ tục đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại còn một số điểm thiếu sót, có thể gây khó khăn cho việc áp dụng. Điều 18 Nghị định 35/ 2006/ NĐ- CP quy định cơ quan thực hiện đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại cho các trường hợp nhượng quyền thương mại trong nước, nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào Việt Nam ( kể ca hoạt động chuyển giao qua ranh giới khu chế xuất, khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam) và ngược lại. Thế nhưng, trường hợp nhượng quyền thương mại từ khu chế xuất, khu phi thuế quan… ra nước ngoài và ngược lại, phải đăng kí tại cơ quan nào thì chưa được pháp luật đề cập tới. Bên cạnh đó, hiện vẫn chưa có quy định chính thức về mức lệ phí phải nộp khi đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại. Những thiếu sót trên sẽ dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn tiến hành đăng kí, đồng thời gây vướng mắc trong quản lí Nhà nước về hoạt động này.
Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại.
Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại phải dựa trên những quan điểm và định hướng mang tính khoa học. Pháp luật nhượng quyền thương mại phải phù hợp với những đặc điểm cụ thể của hoạt động nhượng quyền thương mại, đồng thời phải có tính dự báo, định hướng cho hoạt động này phát triển. Mặt khác khi đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, cần phải quán triệt đường lối phat triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. Trên cơ sở những quan điểm đó, phải vạch ra được những định hướng chủ yếu của việc hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại. Việc hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại cần theo định hướng đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật, đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước. Từ những quan điểm và định hướng trên, ta có thể nêu ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại như sau:
Cần có những quy định pháp luật cụ thể hơn, chi tiết hơn để điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại. Nhượng quyền thương mại là một hoạt động có tính chất rất phức tạp và dễ phát sinh tranh chấp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam đây là một hoạt động còn khá mới mẻ, các doanh nghiệp còn thiếu nhiều kinh nghiệm nên việc tiến hành hoạt động này càng gặp nhiều khó khăn và dễ nảy sinh tranh chấp hơn. Thực tế cho thấy ở những nước mà hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển thì đi kèm theo đó là hệ thống pháp luật quy định đầy đủ, chi tiết về hoạt động này. Do đó, các quy định của pháp luật về nhượng quyền thương mại của Việt Nam không nên chỉ dừng lại ở mức độ các quy định khung. Cần phải tiếp tục bổ sung, quy định cụ thể và làm rõ hơn nữa một số vấn đề cần thiết để tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho các doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh nhượng quyền thương mại một cách thuận lợi và tránh những rủi ro không đáng có.
Cần làm rõ khái niệm “quyền thương mại chung” và khái niệm “hợp đồng phát triển quyền thương mại”, trong đó chỉ ra quyền và nghĩa vụ cụ thể của các bên nhượng quyền sơ cấp, nhượng quyền thứ cấp. nhận quyền sơ cấp và nhận quyền thứ cấp. Trong một loạt các mối quan hệ chồng chéo này, cần chỉ ra nghĩa vụ tách biệt hay liên đới của bên nhượng quyền sơ cấp đối với các bên nhận quyền thứ cấp. Điều này trở nên rất quan trọng khi mà tất cả các bên chủ thể trong hợp đồng nhượng quyền thương mại phát triển và hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp đều cùng lúc tiến hành kinh doanh thu lợi nhuận dưới một tên thương mại và trong cùng một hệ thống nhượng quyền thương mại. Sự ràng buộc trách nhiệm giữa các bên là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, sự ràng buộc đó tới giới hạn nào thì pháp luật vẫn chưa có những quy định cụ thể. Ban hành thêm các quy định liên quan đến trách nhiệm của các bên trong trường hợp đã phân tích trên đây sẽ giúp làm giảm thiểu những tranh chấp không đáng có trong quá trình tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại giữa các thương nhân.
Phải giải quyết được mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và cạnh tranh bằng một văn bản pháp luật riêng.
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại, hoạt động chuyển giao công nghệ, chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ và hoạt động cạnh tranh. Tuy nhiên, việc áp dụng phối hợp các văn bản này không phải lúc nào cũng thực hiện được trong thực tiễn.
Về nguyên tắc, Luật cạnh tranh có thể hỗ trợ điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại. Nhưng khi bắt đầu đi vào lĩnh vực nhượng quyền thương mại, do đây là một hoạt động phức tạp với nhiều đặc thù riêng việc áp dụng lại trở nên khó khăn. Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động nhượng quyền thương mại và trên cơ sở kinh nghiệm của pháp luật các nước, có thể thấy, pháp luật Việt Nam nên có những quy định pháp luật riêng để giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật nhượng quyền thương mại. Khi điều chỉnh những hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động nhượng quyền thương mại, có thể cân nhắc, xem xét một số điểm sau:
Thứ nhất, pháp luật cần phai xác định được các dạng hành vi làm bóp méo cạnh tranh khác nhau có thể xảy ra khi tiến hành hoạt động nhượng quyền thương mại.
Thứ hai, quy định cụ thể những hành vi bị cấm, những hành vi được phép thực hiện và giới hạn được phép của những hành vi đó. Khi xem xét việc ngăn cấm hay cho phép thực hiện các hành vi này, cần có sự cân nhắc giữa tác động bất lợi của chúng đối với sự cạnh tranh và những lợi ích mà chúng mang lại. đó là tác dụng cần thiết để thực hiện quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với hệ thống nhượng quyền thương mại, duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, từ đó góp phần phát triển kinh tế .
Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin cuả bên nhượng quyền.
Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể những nội dung cần cung cấp trong bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại. Việc miêu tả cụ thể các thông tin cầm cung cấp là cần thiết để tạo thuận lợi cho việc áp dung. Các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền phải đủ cụ thể, chi tiết để bên dự kiến nhận quyền có thể đánh giá hệ thống nhượng quyền. Mặt khác, các quy định này cũng phải đảm bảo không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của bên nhượng quyền, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của bên nhượng quyền.
Thứ hai, khi quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại, cần quan tâm hơn đến yếu tố quảng bá cho bên nhượng quyền. Mặt khác, phải cân đối giữa mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và mục tiêu bảo vệ bên nhận quyền thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Cần bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trước thời hạn và quy định rõ hơn sự ràng buộc giữa các bên sau khi hợp đồng chấm dứt. Cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trước thời hạn, đảm bảo bao quát được tất cả những trường hợp có thể xảy ra. Ví dụ, trường hợp bên nhượng quyền là cá nhân chết mà không có người thừa kế, bên nhượng quyền là tổ chức bị phá sản, giải thể…Đây là những trường hợp có thể xảy ra mà pháp luật chưa đề cập tới. Đồng thời với việc bổ sung này, pháp luật cũng cần phải giải quyết hậu quả pháp lí sau khi hợp đồng chấm dứt sao cho có lợi nhất đối với cả các bên và nền kinh tế.
Cần quy định về xử lí vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại cụ thể hơn để có thể áp dụng được trong thực tiễn. Trong pháp luật Canada, mức chế tài hình sự đối với người vi phạm trong hoạt động nhượng quyền thương mại là phạt tiền tối đa 2000 USD hoặc phạt tù tối đa 1 năm đối với cá nhân, phạt tiền tối đa 25000 USD đối với pháp nhân. Trong pháp luật về nhượng quyền thương mại của Việt Nam không có những quy định cụ thể, chi tiết theo kiểu nêu trên. Cần quy định rõ các chế tài trong các văn bản pháp luật. Nếu có riêng một văn bản pháp luật về nhượng quyền thương mại thì phải quy định rõ các chế tài dân sự, hành chính, hình sự. Cách thiết kế này tương tự như kĩ thuật lập pháp trong việc xây dựng luật sở hữu trí tuệ 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
C- KẾT LUẬN.
Nhượng quyền thương mại là một vấn đề hết sức mới mẻ cả về lí luận và thực tiễn. Nghiên cứu về nhượng quyền thương mại và đặc biệt là pháp luật về nhượng quyền thương mại là một nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, đòi hỏi quá trình nghiên cứu tập trung trí tuệ của nhiều nhà khoa học nhằm xây đựng được một hệ thống quan điểm, cơ sở khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật về nhuwongj quyền thương mại. Đây đồng thời cũng là một yêu cầu cấp bách nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động thương mại này trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
D-DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Trương đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật thương mại ( tập 2), Nguyễn Viết Tý (chủ biên), Nxb. CAND, Hà Nội, 2006.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Bt học kỳ thương mại 2- nhượng quyền thương mại.doc