Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, cần bổ sung điều kiện để trở thành người giám hộ cho các thành viên trong gia đình cần phải có điều kiện : người đó phải có tư cách đạo đức tốt, không phá tán tài sản.
Thứ hai, cần bổ sung trường hợp ngoại lệ để người giám hộ không phải là vợ hoặc chồng (trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ giám hộ hoặc không có đủ điều kiện giám hộ) có quyền được yêu cầu bên kia (bên vợ hoặc chồng) phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, yêu cầu sát nhập tài sản chung vơ, chồng để bảo vệ quyền lợi cho một bên vợ hoặc chồng mà người đó giám hộ trong những tình huống nhất định.
17 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 4443 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập học kỳ môn Luật hôn nhân và gia đình, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC.........................................................................................................................1
A. ĐẶT VẤN ĐỀ..............................................................................................................2
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ...............................................................................................2
I.Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hôn nhân gia đình trong
xu thế toàn cầu hóa......................................................................................................2
II. Biện pháp hoàn thiện pháp luật hôn nhân gia đình trong xu thế
toàn cầu hóa.................................................................................................................3
1, Về chế định kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật...................................................3
2, Về quan hệ giữa vợ và chồng....................................................................................5
3. Về vấn đề cấp dưỡng.................................................................................................7
4. Vấn đề xác định cha, mẹ, con....................................................................................9
5.Vấn đề nuôi con nuôi................................................................................................12
6. Vấn đề ly hôn..........................................................................................................13
7. Vấn đề quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài....................................................14
8. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình......................................................15
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ................................................................................................16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................17
A.ĐẶT VẤN ĐỀ
Pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam sinh ra với nhiệm vụ góp phần xây dựng, hoàn thiện và bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ, xây dựng chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các thành viên trong gia đình, kế thừa và phát huy truyền thống đạo đức tốt đẹp của gia đình Việt Nam nhằm xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền vững. Trong mỗi từng giai đoạn thì lại đặt ra cho pháp luật hôn nhân và gia đình một nhiệm vụ. Những năm qua pháp luật hôn nhân và gia đình tuy đã hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình nhưng các quan hệ xã hội ngày càng biến đổi nên yêu cầu pháp luật hôn nhân gia đình cũng phải có những thay đổi sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Trong phạm vi đề bài ta sẽ cùng đi tìm hiểu vấn đề : “ Hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình trong xu thế toàn cầu hóa”.
B.GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I.Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật hôn nhân gia đình trong xu thế toàn cầu hóa.
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia, các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hoá, kinh tế, v.v. trên quy mô toàn cầu. Toàn cầu hóa đã tạo ra sự phát triển kinh tế, sự giao lưu của các nền văn hóa làm cho xã hội ngày càng phát triển. Nhưng đồng thời đi vào hội nhập và toàn cầu hóa, xã hội Việt Nam cũng đang chịu những tác động tiêu cực.Gia đình, tế bào cơ sở của xã hội, tất yếu có những biến động khi xã hội đang thay đổi, có những đổi mới trong quan hệ giữa các thành viên gia đình, giữa cá nhân và gia đình. Mặt trái của toàn cầu hóa đã và sẽ tiếp tục tác động mạnh tới các giá trị đạo đức, lối sống tốt đẹp của gia đình và văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Trong hôn nhân đã xuất hiện chủ nghĩa thực dụng, tỷ lệ ly hôn tăng, hình thành quan niệm dễ dãi trong quan hệ nam, nữ; làm cho mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình trở nên lỏng lẻo...
Hơn nữa, trải qua nhiều năm pháp luật hôn nhân gia đình đã có nhiều điểm tỏ ra không sát với thực tế nên yêu cầu hoàn thiện những thiếu sót là nhiệm vụ đặt ra. Việc đưa ra yêu cầu hoàn thiện pháp luật hôn nhân và gia đình sẽ đáp ứng được nhu cầu của người dân và tạo ra các cơ sở pháp lý để Tòa án có thể có căn cứ giải quyết.
II. Biện pháp hoàn thiện pháp luật hôn nhân gia đình trong xu thế toàn cầu hóa
1, Về chế định kết hôn và hủy kết hôn trái pháp luật.
Sau khi Luật hôn nhân và gia đình có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn, giải thích ra đời đã có nhiều ý kiến khác nhau về độ tuổi kết hôn của luật mới. Ý kiến thứ nhất cho rằng: theo quy định của Bộ luật dân sự( Điều 18) nữ chưa đủ 18 tuổi thì chưa thành niên. Đây là hai vấn đề khác nhau nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với nhau. Người vợ 17 tuổi 1 ngày theo Luật hôn nhân và gia đình quy định mới có các quyền và nghĩa vụ về tài sản như quyền có tài sản riêng, quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, nhưng theo Bộ Luật dân sự thì người vợ này vẫn chưa thành niên khi thực hiện các quyền tài sản của mình. Khi họ xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được sự đồng ý của cha, mẹ là người đại diện theo pháp luật(Điều 20). Như vậy, pháp luật chỉ mới đề cập đến năng lực pháp luật của người vợ 17 tuổi 1 ngày mà chưa đề cập đến năng lực pháp luật dân sự của người đó. Mặt khác quy định trên lại mâu thuẫn với Bộ luật hình sự năm 1999 về tội tảo hôn. Vì vậy cho rằng việc văn bản hướng dẫn độ tuổi như vậy là giảm đi một năm so với quy định trước, không đúng tinh thần của Nhà nước ta, và các luật, bộ luật đã quy định mâu thuẫn nhau dẫn đến khó trong việc xác định như thế nào là đúng.
Thời gian qua, khi giải quyết các vụ án hình sự đã có một thực tế xảy ra là nhiều người vi phạm điều cấm của luật hôn nhân gia đình như phạm tội giao cấu với với cháu, cô, dì, chú, bác ruột…(có họ trong phạm vi ba đời) và đã bị Tòa án xử lý tội loạn luân. Tuy nhiên, Bộ luật hình sự không coi đó là tội phạm thế nên theo luật họ có thể có quyền khởi kiện và yêu cầu cơ quan tiến hành tố tụng bồi thường về vật chất và tinh thần cho họ. Vấn đề này chứng tỏ sự không “ăn khớp” giữa Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 với Bộ luật hình sự năm 1999( sửa đổi bổ sung năm 2009).
Đối với quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính vẫn còn nhiều điểm vướng mắc là pháp luật không quy định việc xác định giới tính của một người theo cơ sở sinh học hay cơ sở pháp lý, trên thực tế có người ngay từ lúc sinh ra đã bị xác định nhầm giới tính nhưng trong các văn bản pháp luật về vấn đề cải chính giấy hộ tịch liên quan đến việc chuyển đổi nam thành nữ hoặc nữ thành nam hoàn toàn chưa được đề cập, thực tế nhiều cơ quan hộ tịch từ chối cải chính giới tính cho những người bị nhẫm lẫn. Một vướng mắc nữa là nhờ thành tựu y học hiện đại có nhiều người đã phẫu thuật chuyển đổi giới tính Nhà nước sẽ công nhận hay không công nhận giới tính mới của họ. Nếu công nhận thì việc xác định vấn đề liên quan đến hộ tịch sẽ xử lý ra sao?
Vấn đề kết hôn giữa con riêng của chồng và con riêng của vợ, giữa những người con nuôi hoặc giữa con đẻ với con nuôi trong một gia đình chưa từng được dự liệu trong các đạo luật hôn nhân và gia đình của chúng ta nhưng là một thực tế cần quan tâm. Các chủ thể trên là anh chị em trong gia đình, nhưng giữa họ lại không có quan hệ huyết thống và không có quan hệ họ hàng, vậy nếu phát sinh việc kết hôn với nhau thì giải quyết ra sao ? Khi hai người kết hôn thuộc diện các đương sự trên yêu cầu chính quyền cho đăng ký kết hôn thì cán bộ hộ tịch không tìm ra quy định pháp luật để giải quyết.
Giải pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, cần có chế tài để cho các điều cấm được thực thi chứ không thể chỉ coi một số hành vi vi phạm đạo đức xã hội bị cấm kết hôn như giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi….chỉ đơn thuần là phòng ngừa vi phạm, nên không quy định xử lý về mặt hình sự. Hành vi kết hôn giữa những người trong phạm vi ba đời phải được coi là tội loạn luân, còn hành vi chung sống như vợ chồng giữa những người là cha, mẹ nuôi với con nuôi, mẹ vợ với con rể…nên quy định tương tự như đối với hành vi vi phạm chế độ một vợ một chồng, nhẹ thì xử hành chính, nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử lý hành chính mà còn tái phạm thì cần truy cứu trách nhiệm hình sự.
Thứ hai, cần phải quy định “ăn khớp” giữa các quy định của các ngành luật khác như Bộ luật hình sự, Bộ luật dân sự.
Thứ ba, về quy định của pháp luật trong trường hợp kết hôn trái pháp luật do vi bị cưỡng ép, lừa dối không chỉ cho người bị cưỡng ép, lừa dối có quyền yêu cầu tòa án hủy việc kết hôn này mà nên cho cả người cưỡng ép lừa dối có yêu cầu hủy.
Thứ tư, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay có rất nhiều ý kiến muốn pháp luật hôn nhân gia đình nên cho phép người đồng giới kết hôn vì trên thế giới đã có rất nhiều nước quy định vấn đề này và nhiều người cho rằng quy định như thế vô hình chung pháp luật hôn nhân gia đình đã tạo ra sự phân biệt. Nhưng thiết nghĩ việc quy định này có lẽ còn chưa nên quy định trong luật bởi lẽ trong nếp nghĩ của người dân đó vẫn là một việc vi phạm đạo đức, chuẩn mực.
Thứ năm, pháp luật phải quy định rõ ràng trường hợp có hay không cho phép con đẻ với con nuôi được kết hôn, con riêng của vợ với con riêng của chồng được kết hôn và ngược lại. Như vậy sẽ tạo cơ sở để tòa án có hướng giải quyết đúng đắn.
2, Về quan hệ giữa vợ và chồng
Luật hôn nhân gia đình năm 2000 đặt ra vấn đề : “ Vợ chồng phải chịu trách nhiệm liên đới đối với giao dịch dân sự hợp pháp do một trong hai người thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình”.Đây là một quy định rất quan trọng và cần thiết nhằm ràng buộc trách nhiệm của vợ chồng đối với nhau và đối với cuộc sống gia đình. Điều này khắc phục tình trạng xảy ra trên thực tế là sự thờ ơ vô trách nhiệm của vợ chồng đối với công việc gia đình. Nhưng vẫn còn một số trường hợp một trong hai bên vợ hoặc chồng đã lợi dụng quy định của pháp luật để trốn tránh trách nhiệm hoặc gây thiệt hại làm ảnh hưởng đến quyền lợi về tài sản của vợ chồng. Vì vậy, hướng dẫn khái niệm “ nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình” là rất cần thiết.
Vấn đề xác định tài sản nào là chung tài sản nào là riêng vợ- chồng. trường hợp lấy tài sản chung sửa chữa cho tài sản riêng ví dụ như ngôi nhà là tài sản riêng của vợ nhưng lại lấy tài sản chung để sửa chữa thì sẽ xác định thế nào? nên coi nó là tài sản chung hay riêng? Vấn đề đặt ra nữa là, rất có thể người có nghĩa vụ tài sản không có hoặc không đủ tài sản riêng để thanh toán các khoản nợ và vợ chồng đã không có thỏa thuận hoặc yêu cầu Tòa án chia tài sản chung để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản. Trong trường hợp này, nếu không thừa nhận quyền yêu cầu của người có quyền (chủ nợ) về chia tài sản chung của vợ chồng để lấy phần tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán nợ, thì quyền lợi của họ được đảm bảo như thế nào? Qui định trong thời kỳ hôn nhân, nếu có lý do chính đáng vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung bằng văn bản mà không qui định trách nhiệm của họ đối với gia đình sau khi chia tài sản chung là một qui định quá “mở”. Giả sử, ngay sau khi kết hôn với lý do kinh doanh riêng, vợ chồng có thoả thuận toàn bộ tài sản chung được chia, tài sản của ai làm ra thuộc về người đó, thì khi đó lợi ích gia đình được đặt ở vị trí nào? Nếu thoả thuận này được thực hiện thì quan hệ hôn nhân chỉ còn tồn tại về mặt nhân thân, còn quan hệ tài sản giữa vợ chồng đã được dân sự hóa, bản chất của hôn nhân XHCN vì thế không được thực hiện.
Luật HN&GĐ năm 2000 và Nghị định số 70 qui định các trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân mà không có lý do chính đáng thì bị Toà án tuyên bố là vô hiệu. Tuy nhiên, Luật HN&GĐ lại không qui định ai là người có thể yêu cầu Toà án hủy bỏ thoả thuận chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân trong trường hợp thoả thuận này vi phạm các điều kiện được qui định tại Điều 29 Luật HN&GĐ hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống gia đình, đến việc trông nom, nuôi dưõng, chăm sóc, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất , Cần phải bổ sung thêm nguyên tắc “ chia đôi” tài sản chung của vợ chồng chết trước theo Điều 31 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để có quan điểm chung, thống nhất khi áp dụng.
Thứ hai, Luật HN&GĐ nên quy định hậu quả pháp lý của việc Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với thoả thuận chia tài sản chung.
Thứ ba, pháp luật nên quy định rõ hơn về việc một người nếu như chưa được Tòa án hủy tuyên bố chết thì không được coi là còn sống. Vì thế người đó không được pháp luật bảo vệ, không có bất cứ một quyền nào do pháp luật quy định mặc dù trên thực tế họ vẫn sống.
Thứ tư, cần phải quy định rõ ràng các tài sản sau là chung hay riêng: trang sức được chồng tặng cho vợ, tiền một bên do nhặt được hoặc do trúng thưởng, quà biếu,...
Thứ năm, pháp luật cần qui định rõ: Và để phát huy được mục đích, ý nghĩa của chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân cần bổ sung vào khoản 1 Điều 6 Nghị định số 70 một nội dung bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng là: Tài sản bảo đảm cho các nhu cầu chung của gia đình.
Ngoài ra cũng cần quy định cụ thể: Trong trường hợp vợ chồng không thoả thuận được việc bảo đảm các nhu cầu chung của gia đình, thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Toà án quyết định mức đóng góp của các bên trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của các bên hoặc quyết định không chia toàn bộ tài sản chung, phần tài sản chung không chia được sử dụng cho nhu cầu của gia đình. Để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các con, pháp luật cần qui định rõ: Trong trường hợp sau khi chia tài sản chung, vợ chồng có tranh chấp về chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động, không có thu nhập và không có tài sản để tự nuôi mình, thì Toà án quyết định theo yêu cầu của vợ, chồng hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Việc giải quyết tranh chấp liên quan đến con áp dụng tương tự qui định về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ và con khi ly hôn.
3. Về vấn đề cấp dưỡng
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định người được cấp dưỡng phải là người chưa thành niên hoặc người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống mình. Vấn đề ở đây là trên thực tế chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể xác định như thế nào là không có khả năng lao động? trường hợp nào được coi là không có khả năng lao động. Hiện nay có nhiều vấn đề khác nhau: Có ý kiến cho rằng người tàn tật là người không có khả năng lao động. Nhưng thử giả thiết họ chỉ bị mất đi một bộ phận cơ thể như cánh tay hoặc chân, họ vẫn có thể lao động, Như vậy ý kiến đó chưa hợp lý. Nếu cho rằng người không có khả năng lao động là người ốm đau cũng chưa hẳn đúng.
Căn cứ xem người được yêu cầu cấp dưỡng có khả năng để cấp dưỡng không. Luật quy định việc cấp dưỡng nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng điều này rất đúng nhưng cấp dưỡng theo Luật hôn nhân gia đình năm 2000 chỉ đặt ra khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải có thu nhập và tài sản đủ nuôi sống mình, con dư thì lúc đó mới xác định họ có khả năng cấp dưỡng hay không. Thử đặt giả thiết cha mẹ ly hôn, người mẹ nuôi con người cha có nghĩa vụ phải cấp dưỡng cho đứa con đến khi nó thành niên, nhưng người cha lại không đủ khả năng cấp dưỡng, nên không đặt ra vấn đề cấp dưỡng. Người mẹ trong trường hợp này phải hoàn toàn nuôi con. Nếu xét trường hợp người mẹ cũng không đủ khả năng để nuôi đứa trẻ thì đứa trẻ sẽ ra sao. Lúc này nguyên tắc bảo vệ quyền lợi cho người được cấp dưỡng không thể thực hiện được.
Về vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng: Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng có thể phát sinh khi hôn nhân đang tồn tại hoặc khi vợ chồng ly hôn. Thực tế, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi : vợ- chồng sống xa nhau do điều kiện công tác, ..; trong trường hợp sống xa nhau mà một bên vợ hoặc chồng lâm vào tình trạng túng thiếu khó khăn do bị tai nạn, mất năng lực hành vi dân sự, mất sức lao động...Sự túng thiếu khó khăn ấy phải có lý do chính đáng thì mới có cơ sở buộc người kia phải cấp dưỡng; tài sản chung của vợ chồng không có hoặc có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống bình thường của người túng thiếu, khó khăn. Trong khi đó người với hoặc người chồng có tài sản riêng. Ví dụ, sau khi chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo Điều 29 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, toàn bộ tài sản chung được chia hết, hai vợ chồng ở riêng. người vợ bị bệnh hiểm nghèo phải sử dụng hết số tiền được chia tài sản chung nhưng vẫn không đủ, do phải điều trị lâu dài. Trường hợp này người chồng cũng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, Pháp luật phải quy định về việc quyền yêu cầu cấp dưỡng, thời gian cấp dưỡng, thời điểm cấp dưỡng, việc thay đổi mức cấp dưỡng....khi ly hôn. Quy định cụ thể như vậy sẽ tạo cơ sở pháp lý trong việc giải quyết quyền yêu cầu cấp dưỡng giữa vợ và chồng trên thực tế một cách hợp lý. Việc cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi hôn nhân đang tồn tại tuy ít xảy ra. Song trong trường hợp đặc biệt như đã phân tích, việc cấp dưỡng cho một bên vợ, chồng ở xa, gặp khó khăn lại rất cần thiết. Pháp luật nên công nhận nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng vẫn có thể phát sinh khi họ đang tồn tại hôn nhân.
Thứ hai, Về các trường hợp được cấp dưỡng, Luật hôn nhân gia đình năm 2000 nên xác định được trật tự ưu tiên cấp dưỡng trong trường hợp mà một người lại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhiều người là theo thỏa thuận hoặc người cấp dưỡng có thể chọn một người để cấp dưỡng.
Thứ ba, trong xu thế toàn cầu hóa cần phải xác định thế nào là “không có tài sản để tự nuôi mình”? Vấn đề này cần phải có sự giải thích, hướng dẫn của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đảm bảo tính thống nhất về lý luận và thực tiễn xét xử. Nên theo thực tế thì phải căn cứ vào ba yếu tố để xác định : tình trạng sức khỏe trên thực tế, khả năng nhận thức và yếu tố thời gian. Đồng thời phải căn cứ vào việc người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng có sống chung với nhau không. Khi người cấp dưỡng và người được cấp dưỡng đã trực tiếp thực hiện những hành vi chăm sóc nuôi dưỡng người được cấp dưỡng bằng tài sản của mình, do đó việc cấp dưỡng không đặt ra. Trong trường hợp này không thể đặt ra vấn đề cấp dưỡng được. Vì vậy cần xác định rõ thế nào là “ không sống chung”.
4. Vấn đề xác định cha, mẹ, con:
* Xác định cha, mẹ cho con trong giá thú: Điều 63 Luật hôn nhân gia đình đã quy định về vấn đề này nhưng đây chỉ là nguyên tắc suy đoán pháp lý. Trong trường hợp nếu người chồng nghi ngờ, không “ thừa nhận” đứa trẻ là con của mình do nghi ngờ sự chung thủy của người vợ và họ đã yêu cầu xác định lại quan hệ cha con. Trong trường hợp này, người yêu cầu phải có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh không có mối quan hệ cha con. Nếu người mẹ, không thừa nhận đứa trẻ là con của mình thì người mẹ cũng phải cung cấp chứng cứ để chứng minh. Vì trên thực tế có nhiều trường hợp do vô ý hoặc cố ý dẫn đến việc nhiều đứa trẻ bị lẫn lộn hoặc bị đánh tráo… Tuy nhiên, hiện nay trong các văn bản pháp luật có liên quan không có một hướng dẫn cụ thể nào về vấn đề này. Thực tế việc chứng minh này rất khó khăn vì chủ yếu để xác định đúng thì họ phải đi giám định gen để chứng minh đứa trẻ không phải là con mình. Điều đó cũng làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các chủ thể vì họ không thể chứng minh được. Như vậy có thể nói ở một khía cạnh nào đó người vợ hoặc chồng phải mặc nhiên thừa nhận quan hệ cha, mẹ với đứa trẻ không phải là con mình.
Theo tinh thần Điều 63 Luật hôn nhân gia đình năm 2000, thực tế cho thấy rằng, trường hợp quan hệ hôn nhân chấm dứt trước pháp luật ( từ ngày người chồng chết hoặc phán quyết ly hôn của Tòa án có hiệu lực pháp luật), người vợ không đợi sau hạn 300 ngày đã kết hôn với người khác; nếu sau này người vợ mang thai thì theo nguyên tắc suy đoán pháp lý thì đứa trẻ sẽ được xác định là con của người chồng thứ hai. Nhưng đặt ra vấn đề sau khi ly hôn ,người vợ kết hôn với người khác vẫn sinh đứa trẻ trong vòng 300 ngày thì xác định đứa trẻ là con của người chồng thứ nhất hay người chồng thứ hai? Hiện nay chưa hề có văn bản nào quy định nào về điều này.
*xác định cha, mẹ cho con ngoài giá thú: Vấn đề này thực tiễn rất phức tạp. Vì giữa cha, mẹ của người con không có hôn nhân hợp pháp, tức là không có thời kỳ hôn nhân thì không thể suy đoán theo nguyên tắc quy định tại khoản 1 Điều 63 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000. Trong trường hợp mẹ không có chồng mà sinh con ngoài giá thú, khi có yêu cầu tòa án xác định một người nào đó là cha của con mình, đương sự phải đưa ra những chứng cứ nào? Có trường hợp người mẹ đã ăn nằm với nhiều người đàn ông khác nhau trong thời kỳ có khả năng thụ thai đứa con, khi có yêu cầu của tòa án xác định một trong số những người đàn ông đó là cha của đứa trẻ, tòa án dựa trên cơ sở nào để giải quyết? Có trường hợp người mẹ sinh con ngoài giá thú, vì những lý do, điều kiện nào đó mà không nuôi đứa con, đã bỏ con, người khác đã nhận nuôi đứa trẻ đó, sau nhiều năm tháng, người mẹ đó có yêu cầu nhận lại con của mình thì họ dựa vào đâu để chứng minh quan hệ mẹ- con ? Một số trường hợp người con bị “ bỏ rơi”, sau này khi trưởng thành, có yêu cầu xác định một người nào đó là cha, là mẹ của mình thì họ dựa vào cơ sở nào để chứng minh quan hệ cha- con, mẹ- con?
về vấn đề xác định cha, mẹ, con theo phương pháp khoa học:
Theo quy định đứa trẻ sinh ra trong 300 ngày kể từ ngày quyết định ly hôn của Tòa án có hiệu lực hoặc người chồng chết thì được xác định là con chung của hai vợ chồng. Tuy nhiên trong trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học thì thời gian có thể dài hơn vì nó phụ thuộc vào kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đối với người vợ. Như vậy, nếu một cặp vợ chồng quyết định sinh con theo phương pháp khoa học mà trong thời gian thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mà người chồng chết thì việc xác định cha cho con sẽ gặp vướng mắc.
Biện pháp hoàn thiện:
- Trước hết, Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng như các văn bản quy định, hướng dẫn áp dụng Luật( Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày 3/10/2001 của Chính phủ: Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao), chủ yếu hướng dẫn về việc xác định cha, mẹ cho con trong giá thú và cho con ngoài giá thú; Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng chỉ quy định về quyền yêu cầu toà án xác định cha, mẹ, con. Nhưng điều quan trọng là căn cứ pháp lý để xác định quan hệ cha, mẹ, con như thế nào thì lại chưa được pháp luật dự liệu. Do đó cần phải bổ sung những cơ sở và căn cứ pháp lý cho việc xác định cha, mẹ, con khi có yêu cầu.
- Cần phải quy định một cách rõ ràng các loại giấy tờ, chứng cứ trong văn bản áp dụng pháp luật để các cơ quan có thẩm quyền và người có nhu cầu trong việc xác định quan hệ cha-con, mẹ-con có thể biết và áp dụng để tránh các trường hợp cán bộ tư pháp “hành” người dân.
- Cần có những quy định thích hợp và giải pháp phù hợp để bổ sung vào các văn bản áp dụng pháp luật trong những trường hợp đặc biệt chưa được pháp luật quy định như: người cha(chưa hoặc không đăng ký kết hôn) đi đăng ký nhận con sau khi người mẹ đã bỏ trốn vì một lý do nào đấy; hoặc cặp cha, mẹ chưa thành niên, muốn đăng ký nhận con thì sẽ xử lý như thế nào?
Pháp luật nên có quy định về người có quyền yêu cầu xác định cha, mẹ, con trường hợp người cha hoặc mẹ chết lả anh, chị, em ruột của người đã chết có quyền yêu cầu này. Bởi như vậy sẽ đảm bảo được quyền thiêng liêng của đứa trẻ.
Đối với trường hợp sinh con theo phương pháp khoa học thì cần có quy định khác về thời hạn để xác định cha, mẹ, con không nên quy định chung. Các cặp vợ chồng hiếm muộn ngày nay, thay vì xin con nuôi, có xu hướng nhờ y học hỗ trợ sinh con. Điều này phát sinh những vấn đề pháp lý gây tranh cãi, như việc xác định cha mẹ cho con, giải quyết tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng mang thai hộ. Hay tòa sẽ giải quyết thế nào nếu nhận được đơn xin hủy hợp đồng mang thai hộ khi đứa bé chỉ là một thai nhi? Người cho trứng hay người mang nặng đẻ đau mới là mẹ đứa trẻ? Quy định thế nào về quyền thừa kế, quyền của đứa trẻ được biết đến nguồn gốc của mình? Phải quy định con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có được thừa nhận về quan hệ nhân thân trong quan hệ cha, mẹ, con với người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi? Sự không thừa nhận của Nhà nước về quan hệ cha, mẹ, con trong trường hợp này liệu có dẫn đến nhiều vấn đề về đạo đức, giá trị truyền thống và pháp lý, ví dụ: họ có thể kết hôn với nhau hay không? con được sinh ra do thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và con của người cho tinh trùng, cho noãn, cho phôi có phải là anh, chị, em ruột hay không?
5.Vấn đề nuôi con nuôi:
Khoản 2, Điều 68 Luật hôn nhân gia đình quy định: “ Một người chỉ có thể làm con nuôi của một người hoặc của cả hai người là vợ hoặc chồng”. Quy định này nhằm đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được hưởng hoàn toàn sự chăm sóc, giáo dục. Nhưng nếu bố mẹ nuôi hoặc người nhận nuôi đứa trẻ lại chết khi đứa trẻ chưa thành niên thì việc đảm bảo thế nào? Luật chưa hề quy định về trường hợp này. Và quan hệ nuôi con nuôi là xuất phát từ lợi ích của người nuôi con nuôi đối với trường hợp người già yếu cô đơn thiếu người phụ dưỡng chăm sóc thì việc quy định trên đã tạo rào cản không phù hợp với thực tế khi đất nước ta có ngày càng nhiều người nhận phụng dưỡng nhiều cụ già cô đơn.
Pháp luật không điều chỉnh một vấn đề rất dễ xảy ra xung đột là trường hợp trong gia đình chỉ có vợ hoặc chồng nhận con nuôi, còn người kia phản đối hoặc không có ý kiến gì. Về trường hợp này việc chi dùng tài sản cho con nuôi sẽ là tài sản chung hay tài sản riêng? Mặt khác quan hệ cha, mẹ, con, quan hệ thừa kế cũng không phát sinh giữa họ mà chỉ có quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng của vợ, chồng. Vậy lại không đảm bảo các điều kiện thuận lợi cho việc trông nom, nuôi dưỡng đứa trẻ.
Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, pháp luật nên quy định trường hợp ngoại lệ là nếu bố, mẹ nuôi hoặc người nhận nuôi chết trong khi con nuôi chưa thành niên thì người con nuôi đó có quyền được làm con nuôi của người khác. Cũng nên đặt ra trường hợp ngoại lệ là một người đã thành niên có thể được nhận làm con nuôi của nhiều người già yếu cô đơn.
Thứ hai, pháp luật nên quy định rõ ràng trường hợp một trong hai bên vợ, chồng nhận con nuôi mà không được sự đồng ý của bên kia thì tài sản chi dùng cho đứa trẻ sẽ lấy ra tài sản chung hay riêng của vợ chồng. Pháp luật cũng nên dự liệu sẵn trường hợp người nhận con nuôi không có tài sản riêng và người chồng hoặc vợ lại không đồng ý cho sử dụng tài sản chung đó để nuôi dưỡng con nuôi thì có nên buộc người vơ hoặc chồng đó phải trích tài sản chung ra để nuôi dưỡng đứa trẻ hay không để bảo vệ quyền của đứa trẻ.
6. Vấn đề ly hôn.
Khoản 1 Điều 85 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định “ Vợ chồng hoặc cả hai người có quyền yêu cầu Toà án giải quyết việc ly hôn” nhưng trong trường hợp đặc biệt được quy định tại khoản 2 điều này thì người chồng đã bị hạn chế quyền yêu cầu trong trường hợp vợ có thai hoặc đang nuôi con dưới mười hai tháng tuổi. Nhưng nếu người vợ sinh con ra đứa trẻ lại bị chết thì theo cách hiểu thì người vợ đó không được cho là thuộc khoản 2 Điều 85 nữa. Trường hợp này, người vợ đã mất con rồi thì có nên đặt ra việc cho người chồng có quyền yêu cầu người vợ ly hôn trong thời điểm đó không? Và hơn nữa luật chỉ quy định là vợ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi chứ không quy định rõ là con nuôi hay con đẻ. Trường hợp này luật nên quy định rõ ràng hơn.
Trong trường hợp Tòa án xác định người kia mất tích thì Tòa án cho nguyên đơn được ly hôn với người mất tích”. Hiện nay, theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS) không thể giải quyết yêu cầu tuyên bố mất tích và ly hôn trong cùng một vụ án như trước nữa. Một thực tế hiện nay, khi đương sự có đơn yêu cầu ly hôn với người biệt tích thì các Tòa án đều bắt buộc đương sự phải chờ đủ điều kiện về thời gian là vợ hoặc chồng của họ biệt tích hai năm liền trở lên và làm đơn yêu cầu tuyên bố mất tích trước, sau đó mới thụ lý giải quyết vụ án ly hôn và coi đó như là một trình tự bắt buộc .
Biện pháp hoàn thiện
Thứ nhất, nên bổ sung Khoản 2 Điều 85 thêm trường hợp ngoại lệ khi đứa trẻ do người vợ sinh ra bị chết thì người chồng không có quyền yêu cầu ly hôn và quy định thời hạn người chồng có thể xin ly hôn trong trường hợp này là bao nhiêu ngày.
Thứ hai, nên mở rộng quy định rõ ràng rằng khi phán quyết của Tòa án tuyên bố một bên vợ hoặc chồng mất tích có hiệu lực thì bên còn lại có thể làm đơn xin Tòa án giải quyết cho ly hôn.
Thứ ba, cần quy định rõ khi tặng, cho tài sản cho vợ, chồng phải được lập thành văn bản. Tránh trường hợp khi hai vợ chồng cưới nhau được bố mẹ cắt đất( trong khoảng đất của gia đình) và xây nhà ở nhưng không lập thành văn bản có chứng thực của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Khi vợ, chồng ly hôn cha, mẹ lấy cớ chỉ cho vợ chồng ở nhờ trong thời gian chưa tự lập được hoặc việc cho nhà ở không lập thành văn bản nên không có giá trị. Do đó không đủ căn cứ xác định nhà và quyền sử dụng đất là tài sản của vợ chồng nên Tòa án không thể chia tài sản cho vợ chồng được.
7. Vấn đề quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.
Việc xác định định tài sản vợ chồng( giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài) trên nguyên tắc chung hợp nhất là rất phức tạp, đặc biệt nếu họ có tài sản chung là bất động sản tại Việt Nam vì hiện tại pháp luật quy định tùy thuộc vào từng loại đối tượng người nước ngoài mà dành cho họ quyền sở hữu bất động sản ở các mức độ phù hợp.
Vấn đề công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi: Điều 79 áp dụng Nghị định trong một số trường hợp đặc biệt, khoản 1 quy định:
“Các quy định của Nghị định này cũng được áp dụng để giải quyết việc đăng ký kết hôn, nhận cha, mẹ, con, nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với nhau mà một biên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài. Trong trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi thì không bị giới hạn về đối tượng trẻ em được nhận làm con nuôi theo quy định tại khoản 2 Điều 36 của Nghị định này”. Về nguyên tắc giải quyết việc cho nhận con nuôi, theo NĐ 68 thì chúng ta chỉ giải quyết cho nhận trẻ em có quốc tịch Việt Nam làm con nuôi, nếu Việt Nam và nước nơi người xin nhận con nuôi thường trú đã ký kết hoặc cùng gia nhập điều ước quốc tế về hợp tác nuôi con nuôi. Trừ trường hợp đặc biệt ngoại lệ áp dụng cho người nước ngoài. Như vậy, trường hợp công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, nước mà chưa ký kết Hiệp định về nuôi con nuôi với Việt Nam xin nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, thì có phải tuân thủ nguyên tắc trên hay không? Nếu không phải áp dụng, thì trình tự giải quyết được thực hiện như thế nào
Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, cần quy định một cách thống nhất về quyền sở hữu bất động sản của người nước ngoài tại Việt Nam để tạo cơ sở pháp lý cho Tòa án khi xác định tài sản vợ chồng.
Thứ hai, để tiếp tục thực hiện có hiệu quả Nghị định 68 trong thời gian tới đề nghị Bộ Tư pháp có văn bản hướng dẫn việc giải quyết cho người Việt Nam định cư ở các nước chưa ký với Việt Nam Hiệp định về nuôi con nuôi, tạo cơ sở pháp lý cho việc giải quyết khi có yêu cầu. Đồng thời, Bộ Tư pháp cần có hướng dẫn đối với các vấn đề mà các địa phương còn vướng mắc như đã đề cập ở trên
Trong khi Luật Hôn nhân và gia đình quy định người trên mười lăm tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn. Như vậy, theo tinh thần của Luật người được nhận làm con nuôi trong trường hợp này lại giới hạn về độ tuổi (trẻ em trên 15 tuổi, tức là người lớn hơn 15 tuổi nhưng nhỏ hơn 16 tuổi) thì được giải quyết. Vấn đề này có ảnh hưởng đến việc giải quyết một số trường hợp như cô, chú, bác… định cư ở nước ngoài xin nhận cháu của mình còn ở trong nước có hoàn cảnh như đã nêu làm con nuôi mà các địa phương đã gặp.
8. Về giám hộ giữa các thành viên trong gia đình
Theo quy định để trở thành người giám hộ cá nhân phải có đủ 3 điều kiện. Nhưng nên hiểu về “ điều kiện cần thiết để bảo đảm thực hiện việc giám hộ”. Trên thực tế có những người hoàn toàn có điều kiện về kinh tế, có công ăn việc làm nhưng họ lại phải đi công tác xa thì làm sao có thể thực hiện được việc giám hộ đối với người khác. Hay như người có đủ ba điều kiện trên nhưng lại không có tư cách đạo đức, phá tán tài sản...thì có được làm người giám hộ không? Khi vợ hoặc chồng bị mất năng lực hành vi dân sự, mà người chồng lại không có đủ khả năng làm người giám hộ thì đặt ra trường hợp có một người khác sẽ đảm nhiệm công việc giám hộ đó. Nhưng người vợ hoặc chồng bị mất năng lực dân sự thì không có khả năng yêu cầu bên còn lại thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc sát nhập tài sản chung vợ chồng để thực hiện nghĩa vụ đảm bảo quyền lợi cho họ. Trong khi đó người giám hộ ở đây lại không được giao cho quyền yêu cầu.
Biện pháp hoàn thiện:
Thứ nhất, cần bổ sung điều kiện để trở thành người giám hộ cho các thành viên trong gia đình cần phải có điều kiện : người đó phải có tư cách đạo đức tốt, không phá tán tài sản....
Thứ hai, cần bổ sung trường hợp ngoại lệ để người giám hộ không phải là vợ hoặc chồng (trường hợp một bên vi phạm nghĩa vụ giám hộ hoặc không có đủ điều kiện giám hộ) có quyền được yêu cầu bên kia (bên vợ hoặc chồng) phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, yêu cầu sát nhập tài sản chung vơ, chồng để bảo vệ quyền lợi cho một bên vợ hoặc chồng mà người đó giám hộ trong những tình huống nhất định.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Qua việc tìm hiểu pháp luật hôn nhân và gia đình ta thấy còn rất nhiều điểm bất cập, chưa hợp lý cần sửa đổi trong thời gian sắp tới. Đòi hỏi của việc sửa đổi này là sao cho phù hợp với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra, pháp luật cần có những quy định phù hợp với cả những công ước quốc tế nữa. Thực tiễn áp dụng pháp luật hôn nhân và gia đình còn rất nhiều vấn đề phải bàn bạc, xem xét. Do vấn đề này rất rộng và còn nhiều luồng ý kiến khác nhau nên đây cũng chỉ là những ý kiến hoàn thiện chung nhất, khái quát nhất của cá nhân chưa bao quát được hết được mọi vấn đề của pháp luật hôn nhân và gia đình. Mong rằng thầy cô giúp em hoàn thiện hơn nữa.
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2009.
“ Bình luận khoa học luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000”, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội – 2004.
Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 1986, 2000.
6. Tạp chí Luật học số 5/2003 - Đại học Luật Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Hôn nhân học kì.doc