Bài kiểm tra môn Pháp luật và cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam

Đề bài: Bối cảnh lịch sử ra đời của Hiến pháp 2013, liên quan đến các quyền con người đã được quy định trong hiến pháp Bài làm: Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), phản ánh được ý chí, nguyện vọng, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tạo nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ phát triển mới.

pdf4 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 09/03/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài kiểm tra môn Pháp luật và cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI KIỂM TRA Môn: Pháp luật và cơ chế bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền ở Việt Nam Học viên: Nguyễn Lập Đức Đề bài: Bối cảnh lịch sử ra đời của Hiến pháp 2013, liên quan đến các quyền con người đã được quy định trong hiến pháp Bài làm: Ngày 28 tháng 11 năm 2013, tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị - pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập hiến của nước ta. Bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm 1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm, phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), phản ánh được ý chí, nguyện vọng, trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân tạo nền tảng chính trị - pháp lý vững chắc cho công cuộc xây dựng, bảo vệ, phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước trong thời kỳ phát triển mới. Những năm đầu của TK XXI, đất nước ta phải đối mặt với những vấn đề mới phát sinh trong điều kiện xây dựng và từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN và của quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế mà Hiến pháp năm 1992 chưa tiên liệu được. Cũng để đáp ứng những đòi hỏi của tình hình mới, Đại hội Đảng lần thứ XI năm 2011 đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011), hướng vào thực hiện 8 đặc trưng của chế độ XHCN: (i) Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; (ii) Do nhân dân làm chủ ; (iii) Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; (iv) Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; (v) Con người có cuộc sống, ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; (vi) Các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; (vii) Có nhà nước pháp quyền XHCN của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; (viiii) Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thê giới. Bối cảnh trên đã khiến Hiến pháp năm 1992 trở nên bất cập và cần được sửa đổi để phù hợp với thể chế hóa, mục tiêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011). Cơ sở thực tiễn của việc xây dựng hiến pháp năm 2013 Thứ nhất, trong lĩnh vực kinh tế, nhiều quy định của Hiến pháp năm 1992 về chế độ kinh tế chưa thực tạo được cơ sở pháp lý cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN như bình đẳng các thành phần kinh tế, tính bất khả xâm phạm về quyền sở hữu của các tổ chức và các cá nhân. Tại Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta cũng khẳng định: Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường theo sự quản lý của nhà nước. Các thành phần kinh tế đều là bộ phận quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, trong đó nền kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế, đồng thời giữ vững, tăng cường tính độc lập của nền kinh tế, phát triển kinh tế đi đôi với phát triển với văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Thứ hai, trong lĩnh vực chính trị, qua các kỳ đại hội, Đảng ta luôn có chủ trương nhất quán: Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của Nhân dân qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp, tiếp tục hoàn thiện Nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo đảm trong sạch, vững mạnh, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng với nhà nước, mở rộng và phát huy dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước. Tổng kết kinh nghiệm và các bài học từ quá trình thực hiện dân chủ cơ sở, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng ta đã xác định: “Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”. Tuy nhiên thực tế, vẫn còn nhiều bất cập ở việc thực hành dân chủ: dân chủ đại diện ở các cấp chưa thực sự hiệu quả, dân chủ trực tiếp còn nhiều hạn chế, thiếu vắng nhiều hình thức. Trong lịch sử lập hiến ở nước ta, bắt đầu từ Hiến pháp năm 1959 đến Hiến pháp năm 1992 chưa xác định đúng vị trí và tầm quan trọng của các hình thức dân chủ trực tiếp. Điều đó đã hạn chế khả năng bảo đảm chủ quyền chính trị thực tế của Nhân dân, chưa làm rõ của quyền lực nhà nước cũng như sức mạnh của quyền lực nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Thứ ba, trong lĩnh vực xã hội, Hiến pháp năm 1992 đã đặt ra những cơ sở pháp lý cao nhất cho sự phát triển con người, bảo đảm các quyền và tự do của con người, thực hiện quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Trên cơ sở đó, một hệ thống các chính sách, pháp luật đã được ban hành, hiều chính sách, giải pháp thực tế đã được thực hiện. Việt Nam cũng đã phê chuẩn hoặc gia nhập hầu hết các điều ước quốc tế cốt lõi về quyền con người của Liên Hợp quốc. Mặt khác, sự lạc hậu của Hiến pháp trong việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp và chính đáng của con người có thể ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân vào chế độ, vào bố máy của Đảng và nhà nước. Việc chưa xác lập được hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp bởi chưa có cơ chế thích hợp đã làm hạn chế khả năng bảo vệ hiệu quả quyền con người. Vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng phát huy quyền dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân.. luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Từ những cơ sở đó, đã đặt ra yêu cầu đối với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Tại tờ trình số 194/TTr- UBDTSĐHP ngày 19/10/2012 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, đã đặt ra các yêu cầu với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 như sau: Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có tính chất của chế độ đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 đó là: phát huy dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Thứ hai, là thể chế hóa những quan điểm, chủ trương lớn được nêu trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991 (bổ sung và phát triển năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội Đảng lần thứ XI. Thứ ba, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là đạo luật cơ bản có tính ổn định lâu dài. Với bối cảnh ra đời, từ những cơ sở, yêu cầu đã nêu trên, Hiến pháp năm 2013 đã ra đời với nhiều sự thay đổi lớn, đặc biệt là quy định về quyền con người. Các quy định của Chương II quy định về quyền con người, quyền công dân được cho là có nhiều điểm mới nhất trong Hiến pháp 2013. Hiến pháp năm 2013 đã có những điểm mới cơ bản sau đây về quyền con người. quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân: Thứ nhất, đã đổi tên Chương là “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”, chuyển lên vị trí thứ 2. Việc thay đổi tên gọi và vị trí của chương cho thấy các nhà lập hiến đã nhận thức rõ tầm quan trọng của chế định quyền con người, quyền công dân trong Hiến pháp về tính chất và phạm vi điều chỉnh của chế định này. Thứ hai, Hiến pháp năm 2013 không còn đồng nhất quyền con người và quyền công dân mà đã sử dụng hợp lý hơn hai thuật ngữ này cho các quyền tự do hiến định. Ví dụ: Các quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tư nhân về tài sản và tư liệu sản xuất ; quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Trong Hiến pháp năm 2013 đã quy định chủ thể quyền là tất cả mọi người thay vì chỉ quy định là “công dân” như Hiến pháp năm 1992. Như vậy với những quyền này, không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả những người nước ngoài có mặt hợp pháp tại Việt Nam cũng được bảo vệ. Những quy định mới này phù hợp với luật nhân quyền quốc tế với chủ trương, chính sách mở cửa, hội quốc tế toàn diện của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thứ ba, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận cả ba nghĩa vụ của nhà nước tương tứng với các quy định về nghĩa vụ quốc gia theo luật nhân quyền quốc tế, đó là tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người (trong các Điều 3, Điều 4). Sự thay đổi này là rất quan trọng, vì nó không chỉ bảo đảm sự hài hòa với luật nhân quyền quốc tế mà tạo cơ sở hiến định ràng buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đầy đủ và nghiêm túc những nghĩa vụ về quyền con người, quyền công dân trong thực tế, đặc biệt là hai nghĩa vụ bảo vệ và bảo đảm. Thứ tư, Hiến pháp năm 2013 lần đầu tiên quy định về nguyên tắc giới hạn quyền (khoản 2, Điều 14). Đây là nguyên tắc đã được nêu trong Điều 29 của Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền. Việc hiến định nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng bởi lẽ: Nó làm rõ tinh thần của luật nhân quyền quốc tế là các nước phải tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền con người phải tôn trọng, bảo vệ và thúc đẩy các quyền con người nhưng cũng đặt ra và áp dụng những giới hạn cho một số quyền, nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước là quản lý xã hội, bảo đảm các quyền và lợi ích chung của cộng đồng và các quyền, lợi ích hợp pháp của các cá nhân khác, ngăn chặn khả năng lạm dụng quyền lực nhà nước để vi phạm nhân quyền, thông qua việc ấn định những điều kiện chặt chẽ với việc giới hạn quyền đồng thời phòng ngừa những suy nghĩ và hành động cực đoan trong việc hưởng thụ các quyền. Thứ năm, Hiến pháp 2013 đã ghi nhận một số quyền mới mà các bản hiến pháp trước đó chưa đề cập: Quyền sống, quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp (Điều 42); quyền sống trong môi trường trong lành (Điều 43); quyền không bị trục xuất và giao nộp cho nước khác (Điều 17) Những quyền mới này đã mở rộng phạm vi bảo vệ của Hiến pháp với các quyền con người, quyền công dân trên cả hai lĩnh vực: dân sự - chính trị (các điều 17, 21, 42) và kinh tế - xã hội – văn hóa (các điều 22, 34, 41, 42, 43). Chúng đáp ứng những nhu cầu mới về quyền con người nảy sinh trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế ở nước ta. Thứ sáu, về kỹ thuật lập hiến. Trong Hiến pháp 2013, theo xu hướng chung của các bản Hiến pháp theo mô hình hiện đại đó là chế định quyền con người, quyền công dân thường được diễn đạt và cấu trúc theo nội dung của các Điều ước quốc tế về nhân quyền, đặc biệt là 2 công ước: Công ước dân sự chính trị và Công ước kinh tế - văn hóa – xã hội để thuận tiện cho việc nội luật hóa và bảo đảm thực thi các điều ước đó. Ngoài việc quy định những nguyên tắc chung về quyền con người , Hiến pháp quy định những nhóm quyền con người, nhóm quyền cơ bản của công dân (các quyền dân sự - chính trị; các quyền kinh tế - xã hội - văn hóa) và điều kiện và cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền hiến định.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfboi_canh_lich_su_va_quyen_con_nguoi_tong_hp_2013_1972_2064619.pdf