Kiểm tra enzyme trong malt tươi (ngũ cốc lên mầm) để đưa vào chế biến
bia:tính chỉ số WK (WindichKolbach) của malt (0WK: đơn vị
hoạt động chung của hai enzyme protease và amylase trong malt).
Thông thường 0WK= 350 – 450.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài giảng Công nghệ sinh học thực phẩm - Chương 4 Ứng dụng enzyme trong bảo quản và chế biến thực phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƢƠNG IV:
ỨNG DỤNG ENZYME TRONG
BẢO QUẢN
VÀ CHẾ BIẾN THỰC PHẨM
MỤC LỤC
1. Công nghệ sinh học protein và enzyme
2. Ứng dụng enzyme trong bảo quản và
chế biến thực phẩm
3. Ứng dụng enzyme trong kiểm tra chất
lượng thực phẩm
1. Công nghệ sinh học protein và enzyme
Các protein và enzyme đã được con người sử dụng
từ lâu, nhưng việc thu nhận chúng dễ dàng với số
lượng lớn và nhiều chủng loại từng là ước mơ của
các nhà khoa học. Trước đây, công nghệ protein và
enzyme là phần chủ yếu của kĩ thuật hoá sinh
(biochemical engineering). Ngày nay, nó phát triển
mạnh, nhất là với sự ra đời của Genomics và
Proteomics, với các đặc điểm :
– Các phân tử protein có cấu trúc phức
tạp nhất, nên để thu các chế phẩm có
đầy đủ hoạt tính sinh học đòi hỏi không
những các kĩ thuật chiết tách, tinh sạch
tốt, mà còn bảo quản được lâu dài.
– Nhiều ứng dụng trong trị liệu cho
người và các lĩnh vực khác nhau.
– Nhiều protein truyền thống được thay
thế dần bằng các r-protein.
1.1 PROTEIN
1.1.1 Các bậc cấu trúc
Protein là polymer gồm các amino acid
nối với nhau bằng cầu nối peptide và hình
thành cấu trúc không gian 3 chiều khi ở
dạng tự nhiên.
Tham gia thành phần cấu tạo protein có
20 loại L-amino acid với các chữ viết tắt
gồm ba chữ hoặc với chỉ một chữ. Ví dụ :
Lysine (Lys - K), Arginine (Arg - R),
Histidine (His - H),...
Phân tử protein có thể có 4 bậc cấu trúc như
sau :
– Cấu trúc bậc một: Chuỗi polypeptide mạch
thẳng.
– Cấu trúc bậc hai : Chuỗi polypeptide mạch
thẳng xoắn theo kiểu lò xo (xoắn alpha và
beta).
– Cấu trúc bậc ba : Chuỗi polypeptide cấu trúc
bậc hai cuộn xếp theo kiểu đặc trưng tạo cấu
trúc không gian ba chiều phức tạp (dạng sợi,
cuộn hay khối cầu).
– Cấu trúc bậc bốn : 2 hay nhiều chuỗi
polypeptide cấu trúc bậc ba liên kết với nhau.
1.1.2. Sự ổn định và gấp cuộn
Khi protein vừa đƣợc tổng hợp xong, nó gấp cuộn
thành cấu trúc không gian ba chiều xác định chức
năng sinh học, đồng thời ổn định cấu trúc. Trong
nhiều năm, các nhà hoá sinh học cho rằng sự cuộn
gấp của phân tử protein được xác định tự động bởi
cấu trúc bậc một. Nhƣng thực tế cho thấy, trình tự
này không đủ đảm bảo cho polypeptide tạo dạng
hình có tính đặc hiệu cao để đáp ứng đúng chức
năng của nó. Nhóm các protein chaperone giúp các
polypeptide gấp cuộn đúng dạng hình không gian
ba chiều có đủ hoạt tính sinh học và một số enzyme
nhƣ disulfide isomerase giúp tạo cầu nối disulfide.
1.1.3. Các biến đổi sau dịch mã
Nhiều polypeptide chịu những biến đổi hoá
trị trong hoặc sau dịch mã trên ribosome. Các
biến đổi này ảnh hưởng đến hoạt tính sinh
học hoặc ổn định cấu trúc của polypeptide.
– Sự cắt xén bởi protease : Cắt bớt một đoạn
peptide của protein làm hoạt hoá chức năng
protein hay enzyme. Biến đổi có tính đặc hiệu
và không thuận nghịch. Thường gặp ở các
tiền enzyme và các protein đích được đưa
vào các bào quan hoặc xuất ra khỏi tế bào. Ví
dụ, các enzyme tiêu hoá như trypsin,
chymotrypsin và pepsin.
– Glycosyl hoá : Gắn thêm các gốc hoặc chuỗi
đƣờng. Thƣờng gặp ở các protein màng hoặc
các protein ngoại bào ở Eukaryotae. Glycosyl
hoá có nhiều năng lƣợng: trực tiếp làm trung
gian cho các hiệu ứng sinh học của một số
protein (hCG và erythropoetin), định hƣớng
mục tiêu (các enzyme của lysosome), nhận biết
(các thụ thể), ổn định cấu trúc, thay đổi độ hoà
tan, tăng bán chu kì tồn tại của phân tử.
– Phosphoryl hoá : Gắn thêm nhóm phosphate
vào protein, mà chất cho chủ yếu là ATP.
Quá trình có thể thuận nghịch nhờ hệ thống
2 enzyme : kinase và phosphatase. Nó thay
đổi hoạt tính sinh học hoặc tính chất hoá lí
của polypeptide.
Ngoài ra, còn có nhiều kiểu biến đổi sau
dịch mã khác như acetyl hoá (acetylation),
acyl hoá (acylation), amid hoá (amidation),
sulfate hoá (sulfation), hydroxyl hoá
(hydroxylation), tạo nối SS,...
1.2.1. Khái quát về enzyme
Từ hàng ngàn năm trƣớc đây, loài ngƣời đã
sử dụng các enzyme trong chế biến thực
phẩm và nƣớc giải khát. Năm 1897,
E.Buchner thu dịch nấm men nghiền nát và
thấy hoạt tính lên men rƣợu của nó. Ông gọi
chúng là enzyme (tiếng Hi Lạp : en = trong,
zyme = nấm men và enzyme có nghĩa trong
nấm men).
1.2. ENZYME
Nhờ có enzyme các phản ứng hoá học được
thực hiện trong tế bào sống với sự hoàn
hảo trong điều kiện đẳng nhiệt (nhiệt độ
không đổi), đẳng áp (áp suất không đổi) và
có các đặc điểm sau: phản ứng có hiệu quả
cao, nhiều phản ứng xảy ra đồng thời theo
dây chuyền, không phải tinh sạch sản phẩm
ở từng công đoạn, các phản ứng chịu sự
điều hòa hợp lí và tiết kiệm nhất, lại ít tiêu
tốn năng lượng. Chúng có tính đặc hiệu cao
và có hiệu quả hơn gấp nhiều lần so với các
chất xúc tác vô cơ.
Về cấu tạo, tất cả enzyme đều là protein.
Ở nhiều enzyme, phần protein cần gắn
một phân tử thứ hai như với cofactor
(các ion kim lọai như Mg++, Zn++,)
hoặc coenzyme (phân tử không phải
peptid như coenzyme A) hay nhóm
prosthetic (như các heme) mới có
họat tính. Điều này cần tính đến khi
chiết tách và tinh sạch enzyme và
thường phải có biện pháp bổ sung các
nhóm tương ứng để nhận enzyme có
hoạt tính. Một biện pháp khác là sử
dụng enzyme trong tế bào nguyên vẹn.
Tính đặc hiệu của enzyme gồm 2 dạng :
– Đặc hiệu phản ứng chỉ biểu hiện với
một loại liên kết hóa học nhất định như
lipase chỉ cắt liên kết ester nối glycerol
và acid béo của nhiều loại lipid khác
nhau.
– Đặc hiệu cơ chất thể hiện chuyên biệt
cho những cơ chất nhất định như
urease chỉ phân hủy urea thành
ammonia và CO2, nhưng không tác
dụng đối với các chất khác.
Các enzyme có thể phân biệt được
những cơ chất thậm chí rất giống nhau,
như các đồng phân (isomer). Ví dụ :
enzyme sucrase chỉ phân huỷ saccharose
(sucrose) thành glucose và fructose,
nhưng không tác dụng đối với 2 đồng
phân khác là maltose và lactose.
Các enzyme có bản chất protein, nên
chúng nhạy cảm với các tác động của
môi trường như nồng độ cơ chất, nồng
độ enzyme, nhiệt độ, pH và các chất ức
chế (kìm hãm).
Cĩ khoảng 3000 enzyme đã đƣợc biết và đƣợc phân loại
thành 6 nhĩm dựa vào loại phản ứng mà chúng xúc tác :
1) Oxi hĩa - khử (Oxido-reductase); 2) Transferase
(chuyển các nhĩm chức năng cĩ chứa C, N, hay S) ; 3)
Hydrolase (tách các liên kết CC, CO, CN, CS,
Chalogen) ; 4) Lyase (thêm vào các nối đơi) ; 5)
Isomerase ; 6) Ligase.
Rõ ràng các enzyme cĩ khả năng xúc tác rất nhiều
loại phản ứng hố học khác nhau. Sự đa dạng này cịn tăng
lên đáng kể khi nĩ kết hợp với các nhĩm chất bổ sung nhƣ
coenzyme. Do vậy, một xu hƣớng quan trọng trong phát
triển cơng nghệ hố học hiện nay là sử dụng chúng trong
tổng hợp hố học để vừa giảm ơ nhiễm mơi trƣờng, lại vừa
ít tiêu tốn năng lƣợng hơn.
1.2.2. Các enzyme và protein cực đoan
Việc phát hiện nhiều VSV cực đoan
(extremophlies) đã mở ra khả năng thu
nhận các enzyme để ứng dụng vào thực
tiễn. Phần lớn các VSV cực đoan chƣa
nuôi đƣợc, nhƣng sử dụng KTDT hứa
hẹn sẽ chinh phục đƣợc các enzyme và
protein từ các VSV.
– Các enzyme từ sinh vật chịu nhiệt cao là mục
tiêu cần hướng tới trong các quy trình chế
biến công nghiệp, vì thực hiện ở nhiệt độ
cao sẽ giảm nhiễm bởi nhiều VSV khác và có
phản ứng nhanh hơn. Hiện DNA polymerase
chịu nhiệt được sử dụng rộng rãi. Ngoài ra,
nhiều amylase, protease, chịu nhiệt cao
(có thể đến 118OC) đã được phát hiện.
– Các glycoprotein "chống đông đá" ức chế sự
hình thành các tinh thể nước đá ở các sinh
vật chịu lạnh như cá ở các cực của Trái đất
chịu được nhiệt độ 1,8OC liên tục mà dịch
cơ thể không đông đặc.
– Các enzyme cực đoan trong dung môi hữu cơ : Mãi
đến gần đây có quan niệm phổ biến là khi cho enzyme
vào các dung môi hữu cơ (bezene, acetone, toluene,),
chúng sẽ mất hoạt tính. Thực tế cho thấy, nhiều
enzyme khi bổ sung vào các dung môi hữu cơ khác
nhau, chúng vẫn có hoạt tính xúc tác dù trong hệ
thống có ít hoặc không có nƣớc. Việc sử dụng các
enzyme trong những điều kiện nhƣ vậy hứa hẹn một
tiềm năng lớn, vì có nhiều lợi thế : tăng tính hoà tan
của các chất phản ứng (reactants) hoặc các sản
phẩm ; tăng tính chịu nhiệt của enzyme ; dễ thu hồi
sau sử dụng nhờ lọc và li tâm ; các dung môi hữu cơ
ngăn chặn các VSV gây nhiễm.
1.3. CỐ ĐỊNH ENZYME VÀ TẾ BÀO
Các enzyme thƣờng sử dụng trong dung
dịch và sau đó không thu hồi đƣợc, mà việc
chiết tách chúng rất tốn kém làm giá thành cao.
Để sử dụng enzyme nhiều lần và hiệu quả hơn,
kĩ thuật cố định enzyme hay giữ im (enzyme
immobilisation) ra đời mở rộng khả năng ứng
dụng chúng.
Các phƣơng pháp cố định enzyme
Có 4 phƣơng pháp cố định enzyme :
– Phương pháp gắn cơ học hay hấp phụ
(Absortion) : Sử dụng các vật liệu chất nền (matrix
material) xốp có nhiều lỗ hỏng nhƣ chất trao đổi ion,
nhựa resin, than hoạt tính, đất sét, oxide nhôm, sợi
thủy tinh xốp, sành, sứ, ...có thể làm cho các enzyme
hoặc tế bào gắn vào những khe và khi sử dụng
enzyme không bị mất.
Cơ chất gắn cơ học
vào chất nền và chất
trao đổi ion
– Phương pháp liên kết chéo (Cross-linking) : Dùng
các chất trung gian nhƣ glutaraldehyde, bisisocyanate,
bisdiazobenzidine, BSA (bovine serum albumin) để
gắn enzyme vào chất nền. Hoạt tính enzyme thƣờng
mạnh và ổn định hơn nếu liên kết chéo với
glutaraldehyde hay với BSA.
– Liên kết cộng hoá trị (Covalent coupling) : agarose,
cellulose, PVC (polyvinyl chloride), chất trao đổi ion,
sợi thủy tinh xốp (porous glass) là các chất nền.
Phƣơng pháp này rất phức tạp, nhƣng nó làm cho
hoạt tính của enzyme đƣợc khôi phục và ổn định hơn.
– Phương pháp nhốt (Entrapment): Sử dụng cho cả
enzyme và tế bào. Các chất nền có acid alginic
(C6H8O6)n , carageenan, collagen, polyacrylamide,
gelatin, silicon rubber, polyurethans. Các chất nhốt
bao bên ngoài, nhƣng vẫn cho các cơ chất cần biến
đổi có thể ra vào qua màng. Alginat, carageenan chiết
tách từ tảo thƣờng đƣợc sử dụng.
Nhốt trong
mạng gel và
trong chất nền
Cĩ thể sử dụng các enzyme cố định nhiều lần, thậm
chí trong nửa năm hoặc cả năm. Hiện nay, phƣơng
pháp này đƣợc sử dụng nhiều hơn cả.
Phƣơng pháp nhốt đƣợc ứng dụng cho tế bào
nguyên vẹn. Khi cố định tế bào, phải tạo điều kiện
để tế bào chết đƣợc thay thế bằng tế bào mới. Cĩ
định tế bào nguyên vẹn cĩ nhiều ƣu điểm :
– Đơn giản hơn, vì khơng phải tốn kém nhiều cho
chiết tách tinh sạch enzyme, nên giá thành thấp.
– Các enzyme hồn chỉnh đƣợc hình thành trong tế
bào nên khơng cần bổ sung các cofactor hay
coenzyme nhƣ enzyme tinh chế ngồi tế bào.
1.4 Bốn vai trò chính của enzyme
trong công nghiệp thực phẩm:
a) Enzyme khắc phục khiếm khuyết tự nhiên của nguyên
liệu:
Các sản phẩm nông sản có chất lượng về dinh dưỡng,
thành phần hóa học, tính chất cảm quan phụ thuộc
nhiều vào: giống, loại nông sản, điều kiện canh tác,
điều kiện thu hái và vận chuyển, điều kiện bảo quản.
Do vậy chất lượng sản phẩm được tạo ra từ nguyên
liệu dao động rất lớn. Trong thực tế nếu chất lượng
nguyên liệu quá kém người ta phải điều khiển các
phản ứng xúc tác bởi enzyme để tạo nên các thành
phần thiếu hụt trong nguyên liệu đưa vào sản xuất.
• Trong sản xuất bia, nguyên liệu chính là malt đại
mạch. Để khắc phục malt đại mạch chát lượng kém
( không có khả năng chuyển hóa hết tinh bột thành
dextrin, đường lên men...) thường dùng các chế
phẩm enzyme thủy phân thuộc hệ amylase như
Termamyl 120L hoặc SC , hệ enzyme protease như
Neutrase 0,5L.
• Dứa , cà chua khi đưa vào sản xuất có độ chín khác
nhau, phải qua giai đoạn ủ chín để chuyển hóa
protopectin ( 1 hợp chất pectin có cấu tạo phức tạp,
ngoài các chuỗi polygalacturonic còn có các thành
phần khác như axit acetic, cellulose,
galactose,rhamnose... --> tạo nên cấu trúc cứng
của các loại quả) về dạng pectin hòa tan nhờ
enzyme pectinase. Hoặc sau khi chà sẽ đưa enzyme
pectinase vào để phá vỡ màng tế bào thực vật giúp
tạo ra các vết nứt trên quả tạo thành rãnh thoát dịch
chiết ra ngoài --> làm tăng hiệu suất chiết dịch quả.
b) Enzyme nâng cao giá trị thương phẩm của nguyên liệu:
Trong thực tế có rất nhiều các nguyên liệu nông sản có
giá trị thương phẩm thấp. Sau khi được chuyển hóa
bởi tác dụng của enzyme thì giá trị thương phẩm cao
hơn rất nhiều, chúng có thể là các sản phẩm không
những có giá trị dinh dưỡng cao mà còn phục vụ được
cho các mục đích khác ngoài thực phẩm như y học...
Ví dụ:trong công nghiệp chế biến tinh bột, mục đích
của nhà máy chế biến tinh bột là chuyển hóa tinh bột từ
một hợp chất có phân tử lượng cao, hệ số hấp thu kém,
giá trị thương phẩm thấp thành các sản phẩm mới có
hệ số hấp thu cao hơn, đa dạng hơn , giá trị thương
phẩm cao, ứng dụng nhiều trong công nghiệp chế biến
các sản phẩm khác.
c) Enzyme là công cụ trong quá trình chuyển hóa công
nghệ:
trong các nhà máy chế biến thực phẩm thì enzyme
được sử dụng như một công cụ của toàn bộ quá trình
chuyển hóa hoặc là toàn bộ quá trình chuyển hóa
trong dây chuyền chế biến. Nếu thiếu sự có mặt của
nó thì quá trình chế biến không thành công.
Ví dụ: trong sản xuất bia, quá trình chế biến dịch
đường có mục tiêu là tìm điều kiện tối ưu chuyển
nhiều nhất có thể các chất có trong nguyên liệu đi vào
dịch trở thành chất chiết của dịch đường. Để đạt được
mục đích này thì ngoài quá trình khuếch tán đơn giản
của các thành phần mà chủ yếu là quá trình chuyển
hóa các hợp chất cao phân tử không hòa tan thành
các chất thấp phân tử hoà tan dưới tác dụng của nhiều
hệ enzyme khác nhau.
d) Enzyme tăng tính chất cảm quan của sản phẩm:
Trong chế biến thực phẩm sau khi xáy ra các giai
đoạn chuyển hóa chính, thông thường các sản phảm
thực phẩm chưa hẳn đã đạt chất lượng cảm quan tối
ưu. Vì thế chúng có các giai đoạn hoàn thiện sản
phẩm , trong giai đoạn này hoặc là tạo nên những điều
kiên mới cho các enzyme bản thể có lợi phát huy tác
dụng có lợi hoặc bổ sung các enzyme từ ngoài vào để
làm tăng chất lượng cảm quan của sản phẩm như cải
thiện mùi và vị của sản phẩm.
Ví dụ: làm trong rượu vang nhờ chủ yếu là pectinase ,
đây là chỉ tiêu chất lượng quan trọng nhất của rượu
vang. Với mục đích làm trong rượu các chế phẩm
enzyme sử dụng phải có khả năng chịu được nồng độ
rượu rừ 10-12% và không chứa các enzyme oxi hóa
làm ảnh hưởng đến màu sắc và mùi vị của sản phẩm.
2. Ứng dụng enzyme trong bảo quản và chế
biến thực phẩm
2.1 Thị trường các enzyme công nghiệp
chủ yếu
Trừ protease papain lấy từ nhựa cây
đu đủ và bromelain lấy từ quả dứa (thơm,
khóm), hầu hết các enzyme khác được
sản xuất công nghiệp đều có nguồn gốc
vi sinh vật nhờ công nghệ lên men. Giá
bán phụ thuộc vào mức độ tinh sạch và
nồng độ.
2.1.1 Các enzyme biến đổi carbohydrate
– Alpha-amylase (1,4 -D-glucan
glucanohydrolase) là enzyme nội thuỷ giải
(endo-hydrolysis) cắt phân tử bột tạo dextrin
(chứa 3 hay nhiều hơn các đơn vị glucan).
Tác động của nó làm giảm nhanh khối lượng
phân tử của bột và độ nhớt. Các chủng sản
xuất là Aspergillies niger và A. oryzae (tác
động ở 40 – 70OC, pH = 6,0 – 6,5), còn
Bacillus licheniformis và B.
amyloliquefaciens tạo ra -amylase chịu
nhiệt (90 – 105OC, pH = 6,0 – 6,5). Các -
amylase chịu nhiệt được dùng tẩy hồ bột
trong công nghiệp dệt.
– Glucoamylase còn gọi amyloglucosidase
(exo -1,4 D-glucosidase) là exo-hydrolase
cắt rời từng glucose từ đầu ngắn -1,4 mạch
glucan của dextrin, nhờ đó phân hủy bột
đến tận cùng thành glucose. Chủng sản xuất
là Aspergillies niger và Rhizopus sp. (40 –
700C, pH = 6,0 – 6,5), được chọn giống làm
mất sự ức chế ngược của glucose.
Các amylase được sử dụng rộng rãi trong
công nghiệp rượu bia, bánh mì, sản xuất
glucose từ bột. Do nhu cầu ngày càng cao
nên sản xuất enzyme tăng nhanh, đạt doanh
số lớn nhất.
– Glucose isomerase (D-xylose ketol-isomerase)
đƣợc tạo ra do nhiều chủng VSV như Bacillus.
coagulans, Streptomyces olivaceus,
Microbaclerium arborescens,... Chọn giống đã
tạo ra các chủng sản xuất enzyme liên tục,
thậm chí trên môi trƣờng có chứa glucose.
Các glucose isomerase cố định là thành phần
chủ yếu trong sản xuất chất ngọt từ bột, tạo ra
sirop gluco-fructose ngọt hơn đƣờng thƣờng
saccharose.
– Pullulanase là enzyme phân giải bột nhận từ
Klebsiella aerogenes.
2.1.2. Các protease
– Rennin (cịn gọi chymosin) là enzyme từ dạ dày bê non
(chƣa cai sữa), dùng đơng tụ sữa trong sản xuất
phơmai (tiếng Pháp là fromage và tiếng Anh là cheese).
Rennin là một aspartic proteinase (cắt ở aspartic acid)
đƣợc tổng hợp ở dạng preprorennin. Dịch chiết thơ từ
dạ dày bê gọi là rennet cĩ chứa 2 – 3% rennin. Rennin
cĩ 2 ƣu điểm đặc biệt là đơng tụ sữa nhanh và casein bị
nĩ phân hủy tạo nên phơmai cĩ hương vị thơm ngon. Do
vậy, trong thời gian dài khĩ tìm protease khác thay thế.
Sau này, đã tìm ra các chủng mốc Mucor miehei và
Mucor pusillus sản sinh protease cĩ hoạt tính tƣơng tự
rennin.
Cơng nghiệp sản xuất phơmai phát triển mạnh với
doanh số gần 30 tỉ USD, nên rennin cĩ sản lƣợng lớn
thứ hai sau các amylase.
– Protease acid từ chủng Aspergillus sp. Dùng thay
thế rennin.
– Protease kiềm (alkaline) từ các chủng Aspergillus
oryzae và Bacillus sp., dùng trong bột giặt (chất tẩy
rửa). Sản lƣợng enzyme này tăng nhanh.
– Protease trung tính (neutral) từ các chủng Bacillus
amyloliquefaciens, Bacillus thermoproteoliticus dùng
dịch hố các chất phụ gia cho bia.
– Papain, bromelain và ficin là các protease thực vật
đƣợc sử dụng làm mềm thịt, làm trong rƣợu bia và
dịch nƣớc trái cây.
2.1.3. Các enzyme khác
– Pectinase : Phần lớn các chế phẩm pectinase nhận
từ các loài Aspergillus và Penicillinum. Chúng làm
tăng hiệu suất chiết tách và làm trong dịch nƣớc trái
cây trong công nghiệp nƣớc ép quả.
– Cellulase dùng trong chất tẩy rửa, sản xuất thức
uống có cồn và glucose.
– Lipase dùng trong chất tẩy rửa, chế biến phômai và
các chế phẩm tạo hƣơng.
– Catalase và glucose oxidase dùng chống oxi hoá
thực phẩm.
– Các enzyme trong nghiên cứu đƣợc sản xuất với số
lƣợng rất ít nhƣ DNA polymerase, restriction
endonuclease, ligase...
2.2 Một số ứng dụng cụ thể của enzyme
trong chế biến thực phẩm
Enzyme: là chất xúc tác sinh học, xúc tác cho
tất cả các phản ứng hoá sinh trong toàn bộ quá
trình trao đổi chất. Khác với chất xúc tác vô cơ
là enzyme mang bản chất protein nên không
chịu đƣợc nhiệt độ cao.
2.2.1 Enzyme tác động trên tinh bột: amylase
(gồm - amylase còn gọi là enzyme dextrin hoá
hay hồ hoá, - amylase hay enzyme đƣờng hoá,
glucoamylase).
- Tinh bột gồm hai thành phần: amylose
và amylosepectin, là polymer của phân
tử đường C6H12O6.
- Amylose là polymer của phân tử
đường theo mạch thẳng.
- Amylosepectin là polymer của phân tử
đường theo mạch nhánh.
Căn cứ vào tỉ lệ của hai thành phần này
sẽ quyết định độ dẽo của tinh bột.
- Tác động của amylase:
- - amylase cắt mạch một cách ngẫu nhiên
không theo quy luật, cho ra các phân tử
dextrin.
- - amylase cắt mạch theo quy luật
- Đối với mạch thẳng amylose, nó cắt
từng đôi một từ đầu tận cùng cho ra chủ
yếu là maltose và một ít là glucose.
- Đối với mạch nhánh amylopectin, nó cắt
từng đôi một từ đầu tận cùng của mạch
nhánh đến chổ rẻ nhánh, sản phẩm chủ
yếu là maltose.
- Protease: enzyme phân giải các hợp
chất hữu cơ chứa Nitơ. Protease chia
làm hai nhóm:
- Proteinase tác động lên polymer ban
đầu của protein để được dạng trung
phân tử.
- Peptidase: tác động lên các protein
trung phân tử để cho ra sản phẩm
cuối cùng là acid amin.
1 2 3 4 5 6
t (giờ)
Lọc
0C
100
90
80
70
60
50
40
30
20
10
0
30’ 30’
Nồi thế liệu- hồ hóa
Nước+
Thế liệu +
Malt lót
Nước+Malt
Đạm
hóa
Đường
hóa
Dịch
hóa
Nồi đường hóa
– Ngâm - Malt
Sử dụng enzyme trong giai đoạn đƣờng hoá của quy trình sản xuất bia
2.2.2. Enzyme trong chế biến nước ép trái cây
• Pectinase được dùng trong chế biến nước
ép trái cây từ năm 1930. Trải qua nhiều năm,
enzyme nầy được dùng trong chế biến hầu
hết các loại trái cây.
• Mục đích việc sử dụng enzym nầy vào chế
biến nước ép trái cây là:
– cải thiện sản lượng nước ép.
– làm hoá lỏng toàn bộ trái cây, làm tối đa hoá việc
sử dụng nguyên liệu.
– cải tiến màu và hương vị.
– làm trong nước ép.
– phân cắt nhỏ những carbohydrat không hoà tan
như pectin, hemicellulose và tinh bột.
* Nước ép và nước cô đặc táo và lê
Trong chế biến nước táo và lê, enzyme được
sử dụng ở các bước:
• Xử lý khối quả nghiền:
Việc xử lý enzym trong giai đoạn nầy nhằm
mục đích tăng lượng nước ép và tăng khả
năng chiết rút các thành phần quan trọng
của trái cây như hương vị và màu sắc cũng
được cải thiện tốt hơn. Bã nghiền tạo thành
sẽ khô ráo hơn, giảm được tác động của áp
suất ép và năng lượng cơ học.
• Xử lý nước ép:
Nếu dùng áp suất ép, một phần hương liệu
cũng bị mất đi. Quá trình ép nầy lại phải trải
qua một giai đoạn ngắn xử lý bằng nhiệt (980
C trong 30 giây.Việc sử dụng pectinase làm
giảm khối nhầy và giúp cho dịch ép trong
hơn, đồng thời cũng làm giảm được những
chất trợ lọc phải thêm vào, sự lọc sẽ dễ dàng
hơn và sản phẩm sẽ ổn định hơn.
Khi trái cây chưa hoàn toàn chín được dùng để
làm nước ép, nó vẫn còn chứa một lượng
tinh bột. Lượng tinh bột nầy sẽ bị gelatin hoá
trong quá trình chế biến nước ép và gây ra
nhiều vấn đề. Để tránh hiện tượng nầy,
amyloglucosidase cần được thêm vào.
• Ổn định nước ép:
Ngăn chặn những nguy cơ do tác nhân
hoá lý là vấn đề chủ yếu trong sản xuất
nước trái cây ép. Enzym laccase làm
giảm hàm lượng các hợp chất phenolic
của nước ép trái cây do sự oxy hoá tạo
thành và làm cho màu sắc đẹp hơn.
* Nước ép Citrus
• Quá trình chế biến nước ép citrus là một quá trình
cơ học. Trái cây được lựa chọn ,nghiền, xay, ép
bằng máy móc. Chất lượng của thiết bị quyết định
đến sản lượng và chất lượng của nước ép. Rất
nhiều sản phẩm được chế tạo ra từ trái cây họ Citrus
như nước ép, nước quả cô đặc, tinh dầu, hương liệu,
pectin, sắc tố thiên nhiên
• Công nghệ enzym đã can thiệp vào nhằm hạ giá
thành trong quá trình chế biến, nâng cao lượng
nước ép, cải tiến tốc độ lọc Người ta dùng hỗn
hợp enzyme pectinase và cellulase để ủ vào trái cây
từ 20-50 phút ở 400C (tùy loại cam hay bưởi).Dung
dịch enzym dùng để ngâm trái cây cần bóc vỏ : 2g
pectinase+1g cellulase/kg + citrat sodium 0,02mol/L
ở 400C, pH=4-5. Nồng độ quá cao sẽ ảnh hưởng
không tốt cho trái cây.
* Nước ép carrot
Vách tế bào carrot chứa hơn 80%
polysaccharid gồm pectin, dạng methyl
hoá và acetyl hoá của cellulose. Hỗn
hợp enzym pectinase và một
endoglucanase, sẽ làm hoá lỏng 90%
và depolymer hoá 70% polysaccharid
của vách tế bào.
* Chuối
• Trong hầu hết các nước trồng chuối, một lượng lớn
bị mất đi hằng năm vì các phương tiện vận chuyển,
dự trữ kém cũng như một lượng lớn dư thừa bị loại
bỏ. Do vậy lượng dư thừa nầy cần được tận dụng để
làm nước trái cây ép hay nước chuối cô đặc. Chuối
có hàm lượng đường cao, hương vị ngon nên là một
loại thực phẩm có giá trị cao. Nhưng bên cạnh đó,
độ nhày cao, sự nâu hoá và một số khó khăn khác
cũng xảy ra trong quá trình chế biến. Một phương
pháp hiệu quả là người ta dùng một hỗn hợp các
enzym gồm pectinase, hemicellulase và cellulase.
Chuối chín cũng chứa tinh bột, ảnh hưởng đến khối
nhầy và độ trong của dịch ép. Những enzym trên làm
giảm độ nhầy cũng như giúp cho việc lọc nước ép
được dễ dàng.
• Ở purée chuối,điều quan trọng là gelatin hoá và
phân hủy hoàn toàn tinh bột. Để thực hiện việc nầy
cần sử dụng enzyme fungal -amylase và
amyloglucosidase.
TRÁI CÂY Giai đoạn xử lý Enzyme
Apple – Pear Khối quả nghiền pectinase
Nƣớc ép pectinase
amyloglucosidase
Ổn định nƣớc ép laccase
Citrus Bóc vỏ pectinase +
cellulase
Carrot Xử lý vách tế bào pectinase +
endoglucanase
Chuối Giảm độ nhày pectinase
+hemicellulase
+cellulase
Phân hủy tinh bột fugal - amylase
MỘT
SỐ
ENZYME
DÙNG
TRONG
CHẾ
BIẾN
NƯỚC
TRÁI
CÂY ÉP
2.2.3 Lên men cà phê
Nhờ hoạt động của các enzyme, hạt cà
phê có những thay đổi rất sâu sắc về tính
chất vật lý và tính chất hoá học. Các
enzyme này không chỉ có trong hạt cà
phê mà còn do các vi sinh vật tự nhiên
có trên bề mặt hạt cà phê.
Thời gian lên men dài ngắn phụ thuộc
vào nhiệt độ, độ chín của hạt cà phê, pH.
Thực tế cho thấy:
Lên men hiếu khí nhanh và tốt hơn lên
men hiếm khí.
Trong quá trình lên men, nếu thêm Ca++
sẽ làm tăng hoạt tính enzyme.
Hiện nay có 1 số enzyme công nghiệp
đƣợc dùng để lên men cà phê nhƣ:
benefax, pectozyme, cofepec. Các chế
phẩm này đều chứa các enzyme
pectinase, hemicellulosase và cellulase.
3. Ứng dụng enzyme trong kiểm tra chất
lƣợng thực phẩm
3.1 Kiểm tra hoạt tính các enzyme thƣờng sử dụng
trong thực phẩm:
-Các enzyme trong dịch tiêu hoá: pepsin, trypsin,
amylase.
- Enzyme làm mềm thịt: papain
- Các enzym có ý nghĩa trong chế biến, bảo quản
thức ăn:peroxidase, catalase
Nguyên lý:
• Pepsin: Casein hoà tan trong một dung dịch
sẽ bị kết tủa bởi natri acetat. Nhưng nếu
dùng pepsin để phân giải casein thì casein
sẽ không bị kết tủa bởi acetat nữa.
• Trypsin:Trong dung dịch loãng, nếu casein
chưa tiêu hoá bởi trypsin sẽ bị kết tủa bởi
acid acetic 10/00.
• Amylase: Dưới tác động của enzyme
amylase, tinh bột bị thủy phân và cho ra các
loại đường khử.
• Papain: Chuẩn độ acid amin hình thành
từ gelatin, sau khi bị tác dụng của
papain, bằng KOH với thymo phtalein
làm chỉ thị màu.
• Peroxidase và catalase: Rất có ý nghĩa
trong quá trình sản xuất, chế biến, bảo
tồn lương thực, thực phẩm và các
nguyên liệu sinh hoá học khác. Nhiệm
vụ của 2 enzyme này là phá hủy (bằng
phản ứng oxy hoá) H2O2 có thể hình
thành trong các quá trình trên.
3.2 Một vài ví dụ về sử dụng enzyme
trong kiểm tra chất lượng thực phẩm
• Xác định sữa tươi bị đun sôi trước khi
bán: Trong sữa tươi có enzyme
photphatase, peroxidase,
aldehydooxidase, khi đun nóng một
thời gian nhất định và ở một nhiệt độ
nhất định nào đó, các loại enzyme trên
sẽ bị phá hủy. Photphatase bị phá hủy
ở nhiệt độ trên 600C, peroxidase bị phá
hủy ở nhiệt độ trên 800C
• Kiểm tra enzyme trong malt tươi (ngũ
cốc lên mầm) để đưa vào chế biến
bia:tính chỉ số WK (Windich-
Kolbach) của malt (0WK: đơn vị
hoạt động chung của hai enzyme
protease và amylase trong malt).
Thông thường 0WK= 350 – 450.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- baigiangudcnshtrongcntp_c4_9635.pdf