Từ kết quả của nghiên cứu này có thể kết
luận rằng nhiệt độ và độ mặn có ảnh hưởng
tới quá trình biến thái từ giai đoạn thể dinh
dưỡng sang bào tử nghỉ của kí sinh trùng
Perkinsus sp. Kết quả này có thể được dùng
làm cơ sở cho việc nghiên cứu ảnh hưởng
của nhiệt độ, độ mặn tới các giai đoạn biến
thái tiếp theo của kí sinh trùng Perkinsus.
Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
của các yếu tố môi trường khác như pH, Oxy
lên sự biến thái của ký sinh trùng Perkinsus
và các biện pháp phòng trị bệnh trong điều
kiện thí nghiệm.
8 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 24/03/2022 | Lượt xem: 203 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn lên quá trình hình thành bào tử nghỉ của ký sinh trùng Perkinsus sp. trên nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
42 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
ẢNH HƯỞNG CỦA NHIỆT ĐỘ VÀ ĐỘ MẶN LÊN QUÁ TRÌNH
HÌNH THÀNH BÀO TỬ NGHỈ CỦA KÝ SINH TRÙNG PERKINSUS SP.
TRÊN NGHÊU BẾN TRE (Meretrix lyrata)
EFFECTS OF TEMPERATURE AND SALINITY ON THE IN VITRO HYPNOSPORE
FORMATION OF PERKINISUS SP. IN BEN TRE HARD CLAMS (Meretrix lyrata)
Hứa Thị Ngọc Dung1, Phạm Quốc Hùng1
Ngày nhận bài: 09/11/2015; Ngày phản biện thông qua: 09/3/2016; Ngày duyệt đăng: 15/12/2016
TÓM TẮT
Để đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ và độ mặn lên sự hình thành bảo tử nghỉ của ký sinh trùng Perkinsus
sp. trên nghêu Bến Tre (Meretrix lyrata) thương phẩm trong điều kiện thí nghiệm, nghiên cứu này đã thu 1.800
mẫu nghêu từ Bến Tre để thí nghiệm với các mức nhiệt độ 20, 25, 30, 400C và độ mặn 0, 3, 5, 10, 15, 20, 25,
30‰ được nuôi ủ trong điều kiện yếm khí và tối. Các ống nghiệm ở mỗi mức thí nghiệm sẽ được kiểm tra sự
có mặt của bào tử nghỉ theo phương pháp của Ray (1952) và được điều chỉnh bởi Choi và ctv (1989) sau 1, 2,
4, 7 và 14 ngày ủ trong môi trường Ray fl uid thioglycollate medium (RFTM). Kết quả nghiên cứu cho thấy ký
sinh trùng Perkinsus spp. có thể biến thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ trong khoảng nhiệt độ
nước từ 20-350C. Trong đó, nhiệt độ 30-350C được xem là khoảng nhiệt độ tối ưu cho quá trình biến thái từ
thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ vì thời gian biến thái xảy ra nhanh nhất (sau một ngày ủ). Còn ở 200C, quá
trình biến thái diễn ra chậm hơn (sau 7 ngày ủ). Qua thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn lên sự hình thành bào
tử nghỉ từ thể dinh dưỡng của ký sinh trùng Perkinsus cho thấy đây là một loài rộng muối vì bào tử nghỉ được
phát hiện ở tất cả các nghiệm thức độ mặn khác nhau, kể cả ở mức 0‰. Tuy nhiên, quá trình hình thành bào
tử nghỉ diễn ra nhanh hơn ở mức độ mặn >15‰ (xuất hiện bào tử nghỉ trong 1, 2 ngày đầu ủ). Trong khi đó từ
độ mặn <10‰ quá trình biến thái diễn ra chậm hơn (sau 4-7 ngày ủ).
Từ khóa: Perkinsus, nghêu Bến Tre, Meretrix lyrata, bào tử nghỉ, ký sinh trùng đơn bào
ABSTRACT
We evaluated the effects of temperature and salinity on the in vitro hypnospore formation of Perkinsus
sp. in commercial Ben Tre hard clams (Meretrix lyrata). A full factorial experiment with 4 temperatures: 20,
25, 30, 400C and 8 salinities: 0, 3, 5, 10, 15, 20, 25, 30‰ were conducted in dark and anaerobic condition.
The presence of hypnospore of Perkinsus sp. 1,800 hard clams were checked after 1, 2, 4, 7, and 14 incubating
days by Ray (1952) method and adjusted by Choi et al, 1989 in Ray fl uid thioglycollate medium (RFTM). The
results showed that hypnospore of Perkinsus sp. could be formed from trophozoite in temperature range from
20 to 350C with optimum temperature at 30-350C as indicated by the fastest hypnospore formation after 1 day
of incubation. At 200C, hypnospore were created more slowly (after 7 days incubation). In salinity experiment,
hypnospore of Perkinsus sp. could be formed in all treatments, even at 0‰. However, hypnospore were created
faster in salinity >15‰ (after 1-2 incubation days). In salinity level ≤10‰ hypnospore of Perkinsus sp. were
formed slower (after 4-7 incubation days).
Keywords: Perkinsus, Ben Tre hard clams (Meretrix lyrata), hypnospore, Protozoa parasite
1 Viện Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang
THOÂNG BAÙO KHOA HOÏC
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 43
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, nghề nuôi động
vật thân mềm 2 mảnh vỏ ở Việt Nam đã và
đang phát triển mạnh mẽ với các đối tượng
nuôi có giá trị kinh tế cao như nghêu Bến Tre
(Meretrix lyrata), nghêu lụa (Paphia undulata),
tu hài (Lutraria rhynchaena), ngao dầu
(Meretrix meretrix Linnaeua, 1758), Tuy
nhiên, song song với việc phát triển đó, nghề
nuôi các đối tượng này phải đối mặt với những
khó khăn do hiện tượng chết hàng loạt trên
diện rộng tại nhiều địa phương trong cả nước,
nhưng chưa rõ nguyên nhân. Những thiệt hại
về kinh tế, môi trường nghiêm trọng gây lo
lắng cho người dân và cả nhà quản lý, tìm ra
nguyên nhân và các giải pháp ngăn ngừa hoặc
giảm thiểu thiệt hại trở nên cấp thiết. Hiện nay,
có nhiều nguyên nhân được cho là đã gây ra
dịch bệnh trên nhiều loài động vật hai mảnh
vỏ có giá trị tại Việt Nam, trong đó có ký sinh
trùng đơn bào thuộc giống Perkinsus. Các báo
cáo cho thấy Perkinsus đã gây ra tỷ lệ chết cao
và hàng loạt cho nhiều loại nhuyễn thể có giá
trị trên toàn thế giới. Villalba và ctv (2004) cho
biết, Perkinsus sp. gây hoại tử mô, giảm tăng
trưởng, giảm khả năng sinh sản, giảm sự tích
trữ năng lượng của mô vật chủ và gây ra tỷ lệ
chết cao cho vật chủ của nó [7].
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về bệnh trên
động vật hai mảnh vỏ, đặc biệt là bệnh do
Perkinsus spp. gây ra còn rất ít. Kết quả
của các công trình nghiên cứu cho đến nay
cho thấy sự hiện hữu của một tác nhân có
hình thái giống Perkinsus trên một số loài hai
mảnh vỏ nuôi tại nhiều vùng nuôi trọng điểm
tại nước ta. Phần lớn các nghiên cứu này chỉ
dừng lại ở mức độ xác định sự có mặt và mức
độ cảm nhiễm của Perkinsus bằng một số các
kỹ thuật như mô học và nuôi trong môi trường
FTM [1, 2, 3, 4]. Thông tin về tác động của các
yếu tố môi trường như nhiệt độ, độ mặn lên
sự biến thái của Perkinsus trên nghêu Bến Tre
ở Việt Nam vẫn chưa được nghiên cứu. Kết
quả nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố
môi trường lên sự biến thái của ký sinh trùng
Perkinsus trên nghêu sẽ giúp ích cho việc xác
định thời điểm thả giống, thời điểm thu hoạch
có thể tránh được thời điểm bùng phát bệnh do
Perkinsus gây ra trên nghêu nuôi tại Việt Nam.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Vật liệu nghiên cứu
1800 mẫu nghêu thương phẩm thu tại Bến
Tre được sử dụng để bố trí thí nghiệm ảnh
hưởng của các mức nhiệt độ và độ mặn khác
nhau lên sự hình thành bào tử nghỉ của ký sinh
trùng Perkinsus trên nghêu Bến Tre trong điều
kiện thí nghiệm. Nghêu được sử dụng trong
nghiên cứu này có kích cỡ về chiều dài, chiều
rộng, chiều cao và trọng lượng trung bình
tương ứng như sau: 3,57±0,18; 2,91±0,16;
1,83±0,12; 13,56±2,17.
Hình 1. Nghêu dùng trong thí nghiệm và thao tác đo kích thước, cân trọng lượng nghêu
2. Phương pháp nghiên cứu
Nghêu thí nghiệm được thu tại cùng một địa
điểm là Bình Đại - Bến Tre. Căn cứ vào kết quả
thí nghiệm trước về tỷ lệ cảm nhiễm và cường
độ cảm nhiễm cho thấy nghêu ở địa điểm này
có tỷ lệ cảm nhiễm Perkinsus ở mang rất cao
(>93%) với cường độ nhiễm >19.000 bào tử
nghỉ/g mang. Chính vì vậy, nghêu ở địa điểm này
44 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
đã được lựa chọn thu để làm tiếp thí nghiệm
về ảnh hưởng các mức nhiệt độ và độ mặn lên
thời gian hình thành bào tử nghỉ trên nghêu.
2.1. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của nhiệt độ
lên sự hình thành bào tử nghỉ của Perkinsus
600 mẫu nghêu thương phẩm được sử
dụng để tiến hành thí nghiệm với bốn mức
nhiệt độ (20, 30, 35, 400C) ảnh hưởng lên
thời gian biến thái (1, 2, 4, 7 và 14 ngày) của
ký sinh trùng Perkinsus từ giai đoạn thể dinh
dưỡng thành bào tử nghỉ. Mỗi nghiệm thức
được lặp lại 3 lần, mô mang của các cá thể
nghêu được thu, cân và đặt vào các ống
nghiệm 15ml có chứa môi trường FTM có bổ
sung kháng sinh (mang của 10 cá thể nghêu/1
ống nghiệm). Sau khi được lắc trộn đều mang
với môi trường, các ống nghiệm chứa mẫu
được ủ ở các mức nhiệt độ 20, 30, 35, 400C
trong bóng tối và lần lượt được mang đi hủy
cơ kiểm tra sự hình thành bào tử nghỉ sau 1,
2, 4, 7 và 14 ngày ủ. Thí nghiệm tiến hành cho
tới khi quan sát thấy bào tử nghỉ xuất hiện thì
dừng. Kích thước nghêu trong thí nghiệm được
cân đại đo đại diện 35 con nghêu với kích cỡ
trung bình về chiều dài, chiều rộng, chiều cao
và trọng lượng tương ứng như sau: 3,59±0,19;
2,93±0,17; 1,82±0,14; 13,90±2,34. Do mục tiêu
của thí nghiệm là theo dõi thời gian hình thành
bào tử nhanh hay chậm ở các mức nhiệt độ
khác nhau nên các số liệu trên chỉ thể hiện kích
cỡ nghêu trong thí nghiệm chứ không trình bày
trong phần kết quả nghiên cứu.
2.2. Bố trí thí nghiệm ảnh hưởng của độ mặn
lên sự hình thành bào tử nghỉ của Perkinsus
Nước cất sử dụng để pha môi trường
FTM được cho thêm NaCl và được đo độ
mặn bằng khúc xạ kế điều chỉnh đến với các
mức độ mặn 0, 3, 5, 10, 15, 20, 25, 30‰, sau
đó được đem đi pha môi trường FTM, hấp
tiệt trùng môi trường trước khi bố trí nghiệm.
1200 mẫu nghêu thương phẩm được sử dụng
để tiến hành thí nghiệm với 8 mức độ mặn từ
0, 3, 5, 10, 15, 20, 25, 30‰ ảnh hưởng lên
thời gian biến thái (1, 2, 4, 7 và 14 ngày) của
ký sinh trùng Perkinsus từ giai đoạn thể dinh
dưỡng thành bào tử nghỉ (tương tự như bố
trí thí nghiệm nhiệt độ ở mục 2.1.) được ủ ở
nhiệt độ 250C. Thí nghiệm được tiến hành cho
tới khi quan sát thấy bào tử nghỉ xuất hiện
thì ngừng. Kích thước nghêu trong thí nghiệm
được cân đại đo đại diện 35 con nghêu với
kích cỡ trung bình về chiều dài, chiều rộng,
chiều cao và trọng lượng tương ứng như sau:
3,55±0,17; 2,90±0,15; 1,85±0,11; 13,21±1,95.
Do mục tiêu của thí nghiệm là theo dõi thời
gian hình thành bào tử nhanh hay chậm ở các
mức độ mặn khác nhau nên các số liệu trên
chỉ thể hiện kích cỡ nghêu trong thí nghiệm
chứ không trình bày trong phần kết quả
nghiên cứu.
2.3. Phân lập Perkinsus
Các ống nghiệm chứa mẫu trong dung
dịch FTM (Fluid Thioglycolate Medium) có bổ
sung kháng sinh Chloramphenicol (200µg/ml)
và Nystatin (200UI/ml) sau thời gian nuôi ủ
trong bóng tối và yếm khí với nhiệt độ tùy từng
nghiệm thức sẽ được đem đi ly tâm ở tốc độ
3000 vòng/phút kéo dài trong 5 phút để loại
bỏ môi trường FTM. Sau đó phần mang nghêu
trong mỗi ống nghiệm sẽ được tiến hành phân
hủy bằng dung dịch NaOH 2M vào ống nghiệm
đến mức 14ml, lắc trộn kỹ và ủ trong bể ổn
nhiệt ở 600C trong 30 phút, sau đó đem ly tâm
3000 vòng/phút kéo dài trong 5 phút, gạn bỏ
hết nước NaOH bên trên. Tiếp tục lặp lại quá
trình hủy cơ như trên 3 lần, sau khi gạn bỏ
hết phần NaOH bên trên sau khi ly tâm lần 3,
phần cặn bên dưới đáy ống nghiệm sẽ được
giữ trong dung dịch PBS (Phosphate-Buffered
Saline) theo phương pháp của Ray (1952) và
được điều chỉnh bởi Choi và ctv (1989) [7, 15].
Các bào tử của Perkinsus (nếu có) sẽ được
phát hiện bằng cách quan sát dưới kính hiển vi
với độ phóng đại 10x, 40x.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 45
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Ảnh hưởng của nhiệt độ lên sự hình
thành bào tử nghỉ của Perkinsus
Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của các
mức nhiệt độ 20, 30, 35, và 400C lên thời gian
biến thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng sang bào
tử nghỉ của kí sinh trùng Perkinsus sp. trên
nghêu Bến Tre được trình bày ở Bảng 1. Bào
tử nghỉ xuất hiện ở các thời điểm khác nhau
trong các lô thí nghiệm 20, 30 và 350C và
không xuất hiện ở 400C.
Hình 2. Các thao tác trong quá trình thí nghiệm
A. Tách vỏ lấy mang; B. Cho mang vào ống nghiệm chứa môi trường FTM; C. Lắc trộn đều; D. Xếp vào Khay đựng;
E. Đem nuôi ủ trong tủ ấm với nhiệt độ tùy từng thí nghiệm; F. Ly tâm ở 3000rpm kéo dài trong 5 phút; G. Đổ bỏ dịch nổi bên trên;
H. Thêm NaOH 2M; I. Lắc trộn đều; J. Đem ủ trong bể ổn nhiệt ở nhiệt độ 600C; K. Giữ cặn sau ly tâm trong 1ml PBS
Bảng 1. Ngày xuất hiện bào tử nghỉ dưới ảnh hưởng của nhiệt độ
Ngày ủ
Nhiệt độ (0C)
20 30 35 40
1 - + + -
2 - NK NK -
4 - NK NK -
7 + NK NK -
14 NK NK NK -
(+): Phát hiện bào tử nghỉ; (-): Không phát hiện; NK: Khi đã phát hiện bào tử nghỉ (+) thì ngừng kiểm tra vào các ngày tiếp theo
Ở nhiệt độ 30 và 350C quá trình biến thái
từ thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ xảy ra rất
nhanh, quan sát thấy bào tử nghỉ ngay sau
ngày ủ đầu tiên. Trong khi đó ở nhiệt độ 200C
quá trình biến thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng
sang bào tử nghỉ diễn ra chậm hơn, quan sát
thấy bào tử nghỉ sau 7 ngày ủ. Như vậy, trong
điều kiện thí nghiệm, quá trình biến thái của
kí sinh trùng Perkinsus sp. từ giai đoạn thể
dinh dưỡng sang giai đoạn bào tử nghỉ diễn
ra nhanh nhất ở 2 mức nhiệt độ 30 và 350C.
Do đó, mức nhiệt độ 30 và 350C có thể được
xem là mức nhiệt độ tối ưu cho sự hình thành
bào tử nghỉ của ký sinh trùng Perkinsus sp.
trong điều kiện thí nghiệm.
Kết quả thu được từ nghiên cứu này
trùng khớp với kết quả nghiên cứu của Park
và ctv (2009) thực hiện trên nghêu Ruditapes
philippinarum ở mức nhiệt độ 300C: bào tử nghỉ
xuất hiện ngay sau ngày ủ đầu tiên. Tuy nhiên,
kết quả của nghiên cứu này có sự sai khác các
mức nhiệt độ thấp như: ở nhiệt độ 200C bào tử
46 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
nghỉ được quan sát thấy vào ngày thứ 2 sau
khi ủ, trong khi đó ở nhiệt độ 100C và 40C bào
tử nghỉ xuất hiện vào ngày thứ 7 sau khi ủ.
Như vậy có thể thấy rằng, sự biến thái từ thể
dinh dưỡng sang bào tử nghỉ ủ ở nhiệt độ cao
diễn ra nhanh hơn (200C và 300C), ở nhiệt độ
thấp quá trình xảy ra chậm hơn (40C và 100C).
Điều này có thể do sự khác biệt về nhiệt độ
giữa các khu vực địa lý, nghiên cứu của Park
và ctv (2009) được tiến hành tại Hàn Quốc – là
khu vực ôn đới nên mức nhiệt độ thí nghiệm từ
4 – 300C, còn Việt Nam là nước thuộc khu vực
nhiệt đới nên các mức nhiệt độ trong thí nghiệm
này được điều chỉnh cao hơn. Ngoài ra, có thể
do đối tượng thí nghiệm của hai nghiên cứu
khác nhau (nghêu Bến Tre Meretrix lyrata và
nghêu Ruditapes philippinarum). Theo Casas
và ctv (2002), nhiệt độ là một trong những
yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến quá trình hình
thành bào tử nghỉ và phát sinh bào tử động.
Ở nhiệt độ cao, quá trình hình thành bào tử
nghỉ và phát sinh bào tử động diễn ra thuận lợi
hơn. Tuy nhiên, theo kết quả nghiên cứu của
Dungan và Hamilton (1995) cho thấy nhiệt độ
400C là nhiệt độ gây chết đối với kí sinh trùng
Perkinsus marinus. Kết quả từ nghiên cứu này
ở mức nhiệt độ 400C, không quan sát thấy bào
tử nghỉ sau 1, 2, 4, 7, 14 cho thấy sự trùng
khớp với kết quả của Dungan và Hamilton
(1995) [9]. Ngoài ra, các thông báo từ các cuộc
khảo sát của Park và Choi (2001), Chu và ctv
(1994), cũng cho thấy nhiệt độ yếu tố quyết
định mức độ nhạy cảm của sò Manila và hàu
Crassotrea virginica đối với Perkinsus [8, 15].
Hình 2. Bào tử nghỉ kí sinh trùng Perkinsus sp.
2. Ảnh hưởng của độ mặn lên sự hình thành
bào tử nghỉ của Perkinsus
Kết quả thí nghiệm ảnh hưởng của độ
mặn lên quá trình biến thái của kí sinh trùng
Perkinsus sp. trên nghêu Bến Tre từ giai đoạn
thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ ở các mức
các mức độ mặn 0, 3, 5, 10, 15, 20, 25 và 30‰
cho thấy có sự khác biệt về thời gian biến thái
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 47
Ở độ mặn từ 15‰ trở lên quá trình biến
thái từ thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ xảy
ra rất nhanh, bào tử nghỉ được phát hiện ngay
sau 1, 2 ngày ủ. Trong khi đó, ở độ mặn từ 0
đến 10‰ bào tử nghỉ hình thành chậm hơn từ
sau 4 đến 7 ngày ủ. Như vậy, có thể thấy rằng
ở độ mặn trên 15‰ là độ mặn thích hợp cho
quá trình biến thái từ thể dinh dưỡng sang bào
tử nghỉ của kí sinh trùng Perkinsus.
Kết quả nghiên cứu này trùng hợp với một
số nghiên cứu của các tác giả khác như Leet-
hochavalit và ctv (2004) cũng thông báo độ
mặn giảm chính là nguyên nhân làm cho tỷ lệ
nhiễm Perkinsus thấp vào tháng 9 (66,6%) khi
so sánh với những tháng khác trong năm. Theo
Burreson và Calvo (1996), độ mặn cao làm tăng
khả năng gây bệnh của kí sinh trùng Perkinsus
và giảm khả năng phòng bệnh của tế bào vật
chủ. Tỷ lệ nhiễm và cường độ cảm nhiễm
của Perkinsus marinus ở vịnh Chesapeak
tăng khi độ mặn tăng cao do hạn hán trong
năm [5]. Powell và ctv (1992) báo cáo rằng tỷ lệ
nhiễm kí sinh trùng P. marinus biến động theo
mùa ở vịnh Mexico một phần là do sự thay đổi
độ mặn của nguồn nước đầu vào [14]. Mức độ
cảm nhiễm cao của P. marinus ở hàu C. virginica
ở phía Bắc vịnh trong mùa hè do độ mặn cao
và nhiệt độ nước biển trong mùa hạn hán,
trong khi mức độ cảm nhiễm thấp trong mùa
lũ lụt. Park và ctv (2006) đã báo cáo cường
độ cảm nhiễm P. olseni thấp nhất vào mùa hè
ở vịnh Gomso, thuộc biển phía tây Hàn Quốc,
mức độ nhiễm kí sinh trùng thấp nguyên nhân
có thể do độ mặn thấp vì mưa lớn cung cấp
lượng nước ngọt lớn cho khu vực ven biển [11].
Trong khi phía đông bắc châu Á (bao gồm cả
Hàn Quốc, Trung Quốc và Nhật Bản) từ cuối
tháng sáu đến cuối tháng bảy là mùa gió mùa,
do đó, dọc theo bờ biển bán đảo Hàn Quốc độ
mặn giảm vào giữa mùa hè. Ford và Smolowitz
(2007) báo cáo tỷ lệ nhiễm Perkinsus spp. giảm
trên hàu C. virginica do mùa đông lạnh hơn và
lượng mưa cao theo bờ đông bắc Mỹ. Họ cũng
báo cáo rằng tỷ lệ nhiễm Perkinsus spp. cao
nhất vào mùa thu với tỷ lệ nhiễm thấp nhất vào
tháng 4 và tháng 5, đôi khi kéo dài đến tháng
8, rồi tăng cao trở lại [10]. Ngoài ra, theo khảo
sát của Park và Choi (2001) cho thấy độ mặn
ảnh hưởng đến mật độ Perkinsus và tỷ lệ xảy
ra bệnh trên sò Manila [13]. Nghiên cứu của
Chu và ctv (1994), cũng cho thấy độ mặn là
yếu tố quyết định mức độ nhạy cảm của hàu
Crassotrea virginica đối với Perkinsus [8].
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Ký sinh trùng Perkinsus spp. có thể biến
thái từ giai đoạn thể dinh dưỡng sang bào tử
nghỉ trong khoảng nhiệt độ nước từ 20-350C.
Trong đó, nhiệt độ 30-350C được xem là
khoảng nhiệt độ tối ưu cho quá trình biến thái
từ thể dinh dưỡng sang bào tử nghỉ vì thời gian
biến thái xảy ra nhanh nhất (sau một ngày ủ).
Còn ở 200C quá trình biến thái diễn ra chậm
hơn (sau 7 ngày ủ). Qua thí nghiệm ảnh hưởng
của độ mặn lên sự hình thành bào tử nghỉ từ
giữa các mức độ mặn khác nhau. Bào tử nghỉ xuất hiện ở tất cả các mức độ mặn, kể cả ở mức 0‰
(Bảng 2)
Bảng 2. Ngày xuất hiện bào tử nghỉ dưới ảnh hưởng của độ mặn
Ngày
Độ mặn (‰)
0 3 5 10 15 20 25 30
1 - - - - + - + -
2 - - - - NK + NK +
4 + - + + NK NK NK NK
7 NK + NK NK NK NK NK NK
14 NK NK NK NK NK NK NK NK
(+): Phát hiện bào tử nghỉ; (-): Không phát hiện; NK: Khi đã phát hiện bào tử nghỉ (+) thì ngừng kiểm tra vào các ngày tiếp theo.
48 • NHA TRANG UNIVERSITY
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
thể dinh dưỡng của ký sinh trùng Perkinsus
cho thấy đây là một loài rộng muối vì bào tử
nghỉ được phát hiện ở tất cả các nghiệm thức
độ mặn khác nhau, kể cả ở mức 0‰. Tuy
nhiên, quá trình hình thành bào tử nghỉ diễn
ra nhanh hơn ở mức độ mặn >15‰ (xuất hiện
bào tử nghỉ trong 1, 2 ngày đầu ủ). Trong khi
đó từ độ mặn <10‰ quá trình biến thái diễn ra
chậm hơn (sau 4-7 ngày ủ).
Từ kết quả của nghiên cứu này có thể kết
luận rằng nhiệt độ và độ mặn có ảnh hưởng
tới quá trình biến thái từ giai đoạn thể dinh
dưỡng sang bào tử nghỉ của kí sinh trùng
Perkinsus sp. Kết quả này có thể được dùng
làm cơ sở cho việc nghiên cứu ảnh hưởng
của nhiệt độ, độ mặn tới các giai đoạn biến
thái tiếp theo của kí sinh trùng Perkinsus.
Ngoài ra, cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng
của các yếu tố môi trường khác như pH, Oxy
lên sự biến thái của ký sinh trùng Perkinsus
và các biện pháp phòng trị bệnh trong điều
kiện thí nghiệm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Lê Thành Cường, Trần Vĩ Hích, 2013. Bước đầu khảo sát một số tác nhân sinh học trong mẫu tu hài Lutraria
rhynchaena, Jonas 1844 bị bệnh thối vòi nuôi tại huyện Vân Đồn tỉnh Quảng Ninh. Kỷ yếu hội thảo khoa học
Khoa Nuôi trồng thủy sản - Trường Đại học Nha Trang. Tháng 03-2013.
2. Nguyễn Văn Hảo, Ngô Thị Ngọc Thủy, Tiêu Thanh Tươi, Hoàng Thị Hiền, Phạm Lâm Chính Văn, Nguyễn Vy
Vân, 2011. Sự hiện diện của Perkinsus sp. trên nghêu (Meretrix lyrata) tại vùng biển Cần Giờ - Tp. Hồ Chí
Minh. Kỷ yếu Hội nghị Khoa học thủy sản toàn quốc lần thứ IV, ngày 16/12/2011. Trường Đại học Nông Lâm
Tp. HCM.
3. Ngô Thị Thu Thảo, 2008. Một số đặc điểm của ký sinh trùng Perkinsus sp. lây nhiễm trên nghêu lụa (Paphia
undulate) ở Kiên Giang và Bà Rịa. Tạp chí Khoa học 2008 (1): 222-230. Trường Đại học Cần Thơ.
4. Ngô Thị Ngọc Thủy, 2011. Điều tra, nghiên cứu bệnh trên một số đối tường nhuyễn thể nuôi tại vùng ven biển
Việt Nam. Báo cáo tổng hợp chương trình khoa học công nghệ Bộ Khoa học và Công nghệ.
Tiếng Anh
5. Burreson E. M., Ragone Calvo L. M., 1996. Epizootiology of Perkinsus marinus disease of oysters in
Chesapeake Bay, with emphasis on data since 1985. J. Shellfi sh Res., 15:17-34.
6. Casas S. M., Villalba A., Reece K. S., 2002. Study of perkinsosis in the carpet shell clam Tapes decussatus in
Galicia (NW Spain). I. Identifi cation of the aetiological agent and in vitro modulation of zoosporulation by
temperature and salinity. Dis. Aquat. Org., 50:51-65.
7. Choi K. S., Wilson E. A., Lewis D. H., Powell E. N., Ray S. M., 1989. The energetic cost of Perkinsus marinus
parasitism in oysters: quantifi cation of the thioglycollate method. J. Shellfi sh Res., 8:125–131.
8. Chu F. L. E., Hale R. C., 1994. Relationship between pollution and susceptibility to infectious diseases in the
eastern oyster, Crassostrea virginica. Mar. Environ. Res., 38:243-256.
9. Dungan C. F., Hamilton R. M., 1995. Use of a tetrazolium-based cell proliferation assay to measure effects of in
vitro conditions on Perkinsus marinus (Apicomplexa) proliferation. J. Euk. Microbiol, 42:379–388.
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 4/2016
NHA TRANG UNIVERSITY • 49
10. Ford S. E., Smolowitz R. Infection dynamics of an oyster parasite in its newly expanded range. Mar. Biol. 2007,
151:119–133.
11. Park K. I., Figueras A., Choi K. S., 2006. Application of enzyme-linked immunosorbent assay (ELISA) for
the study of reproduction of the Manila clam Ruditapes philippinarum (Mollusca: Bivalvia): II. Impacts of
Perkinsus olseni on clam reproduction. Aquaculture, 251:182-191.
12. Kyung Il., Park H. J. K., Lee Y. S., Choi K. S., 2009. Ecological, morphological and expressed sequence tag
(EST) studies of perkinsus olseni, parasitic protozoa in the manila clam Ruditapes philippinarum occurring on
the coastal yellow sea of Korea. in The 3rd Regional Mariculture conference. Wendeng, China.
13. Park K. I., Choi K. S., 2001. Spatial distribution of the protozoan parasite Perkinsus sp. found in the Manila
clams, Ruditapes philippinarum, in Korea. Aquaculture, 203:9-22.
14. Powell E. N., Gauthier J. D., Wilson E. N., Nelson A., Fay R. R., Brooks J. M., 1992. Oyster disease and climate
change. Are yearly changes in Perkinsus marinus parasitism in oysters (Crassostrea virginica) controlled by
climatic cycles in the Gulf of Mexico. P.S.Z.N.I. Marine Ecology, 13:243-270.
15. Ray S. M., 1952. A culture technique for the diagnosis of infection with Dermocystidium marinum Mackin,
Owen and Collier in oysters. Science, 116:360-361
16. Leethochavalit S., Chalermwat K., Upatham E. S., Choi K. S., Sawangwong P., Kruatrachue M., 2004.
Occurrence of Perkinsus sp. in Undalated surf clams Paphia undulata from the Gulf of Thailand. Dis. Aquat.
Org. 60: 165–171.
17. Villalba A., Reece K. S., Ordás M. C., Casas S. M., Figueras A., 2004. Perkinsosis in molluscs: A review.
Aquatic Living Resources. 17: 411-432.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_nhiet_do_va_do_man_len_qua_trinh_hinh_thanh_ba.pdf