Cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng đồng thời
của hàm lượng lipid và protein trong thức ăn, các
axit béo thiết yếu và vitamin lên sinh trưởng, hệ số
chuyển đổi thức ăn và tỷ lệ sống của cá bống bớp
cũng như hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần
sinh hóa. trên đối tượng này.
Bên cạnh đó, có thể nghiên cứu thêm về ảnh
hưởng của thức ăn và mật độ nuôi lên tốc độ sinh
trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống của
cá bống bớp.
5 trang |
Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 23/03/2022 | Lượt xem: 178 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên tốc độ sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacepede, 1881) giai đoạn 5-6 cm tại Đồ Sơn, Hải Phòng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 151
KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC LOẠI THỨC ĂN KHÁC NHAU
LÊN TỐC ĐỘ SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ BỐNG BỚP
(Bostrichthys sinensis Lacepede, 1881) GIAI ĐOẠN 5 - 6 cm
TẠI ĐỒ SƠN, HẢI PHÒNG
EFFECT OF DIFFERENT ARTIFICIAL FEED ON GROWTH AND SURVIVAL RATE
OF BLACK SLEEPER (Bostrichthys sinensis Lacepede, 1881) 5 - 6 cm
AT DO SON, HAI PHONG PROVINCE
Hà Tân1, Phạm Quốc Hùng2
Ngày nhận bài: 16/8/2013; Ngày phản biện th ông qua: 14/9/2013; Ngày duyệt đăng: 02/6/2014
TÓM TẮT
Thức ăn là một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá trong suốt quá
trình ương nuôi. Thí nghiệm nhằm đánh giá ảnh hưởng của 3 loại thức ăn khác nhau (CP T503, Cargill Aquaxcel-7424 và
VHS: Viện Hải sản) đến tốc độ tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá bống bớp Bostrichthys sinensis giai đoạn giống 5 - 6 cm.
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi sử dụng thức ăn CP T503 cá đạt tốc độ sinh trưởng cao nhất (SGR
L
: 1,19 ± 0,02 %/ngày
và SGR
W
: 2,42 ± 0,03%/ngày) và sai khác có ý nghĩa với cá sử dụng thức ăn Cargill (P < 0,05), tuy nhiên không có sự sai
khác với thức ăn của Viện Hải sản. Nhìn chung, việc sử dụng các loại thức ăn khác nhau trong quá trình ương nuôi không
ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cá (79 - 82%) (P > 0,05). Nghiên cứu trên có thể nhận thấy việc sử dụng thức ăn CP là tốt
nhất cho cá bống bớp sinh trưởng, giúp nâng cao chất lượng con giống đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Từ khóa: tốc độ tăng trưởng, tỷ lệ sống, cá bống bớp, Bostrichthys sinensis
ABSTRACT
Feed is one of the most important factors deciding to growth and survival rate of fi sh in reared process. The objective
of this study was to evaluate effective of 3 commercial feeds (CP T503, Cargill Aquaxcel-7424 and VHS: Institute marine
fi shery) for growth and survival rate of black sleeper Bostrichthys sinensis. The results showed that fi sh fed CP which
reached the highest specifi c growth rates (SGR
L
: 1,19 ± 0,02%/day and SGR
W
: 2,42 ± 0,03%/day) and had signifi cant
difference with Cargill feed (P 0,05). Similarly, different feeds did
not have signifi cant differences effects on survival rate of the fi sh ranging from 79 to 82% among treatments (P > 0,05).
From this study, it can be suggested the CP feed is the most optimal for growth and survival rate of black sleeper and helped
enhance seed quality to meet demand of market.
Keywords: growth rate, survival rate, black sleeper, Bostrichthys sinensis
1 Hà Tân: Cao học Nuôi trồng thủy sản 2010 – Trường Đại học Nha Trang
2 TS. Phạm Quốc Hùng: Viện Nuôi trồng thủy sản – Trường Đại học Nha Trang
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hải Phòng là một trong những tỉnh có tiềm năng
và lợi thế phát triển nuôi trồng thủy sản ở cả ba vùng
nước ngọt, mặn, lợ, đặc biệt là khu vực nước lợ.
Năm 2011, diện tích nuôi tôm nước lợ của Tỉnh đạt
trên 3000 ha. Tuy nhiên diện tích này đang dần bị
thu hẹp do nhiều nguyên nhân như quy hoạch nuôi
trồng thủy sản thường xuyên bị phá vỡ do tác động
của phát triển kinh tế - xã hội, cơ sở hạ tầng chưa
đồng bộ, môi trường ô nhiễm, dịch bệnh thường
xuyên xảy ra do đó việc đa dạng hóa đối tượng
nuôi, đưa các đối tượng nuôi mới có khả năng thích
nghi cao với môi trường, phù hợp với khu vực nước
lợ đang ngày trở nên cấp thiết.
Cá bống bớp là loài được nuôi ở nước lợ, có khả
năng thích nghi tốt với môi trường, thịt thơm ngon,
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
152 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
bổ dưỡng, có giá trị kinh tế cao, thị trường tiêu thụ
rộng không chỉ trong nước mà còn xuất khẩu sang
các nước khác [2]. Do lợi nhuận mà chúng đem lại
khá cao nên nguồn lợi cá ngoài tự nhiên đang bị
khai thác triệt để. Trước đây quy mô sản xuất còn
nhỏ lẻ, con giống chủ yếu là thu gom ngoài tự nhiên,
kích cỡ trung bình từ 5 - 6 cm nên nguồn giống luôn
thụ động [4]. Ngoài ra, cá bống bớp còn là một loài
thủy sản quý hiếm có nguy cơ tuyệt chủng ở Việt
Nam [1]. Từ năm 1998 - 2002, Trần Văn Đan [3], [4]
đã hoàn thiện quy trình sản xuất giống cá bống bớp
và đưa vào ứng dụng thực tiễn. Hải Phòng là một
trong số những tỉnh thành đầu tiên tiếp nhận, đưa
cá bống bớp vào sản xuất giống đại trà và chuyển
giao cho các tỉnh lân cận. Nghề nuôi cá bống bớp
đã dần được hình thành và từng bước chuyển dịch
theo hướng chuyên nuôi đơn. Năm 2003, Viện
Nghiên cứu Hải sản đã nghiên cứu thành công cho
sinh sản nhân tạo cá bống bớp và chuyển giao công
nghệ này đến nhiều nơi, tạo ra nguồn con giống
đảm bảo chất lượng, chủ động trong việc triển khai
mô hình nuôi thâm canh cá bống bớp trên diện rộng.
Tuy nhiên, cá bống bớp là đối tượng ăn tạp nghiêng
về động vật, thức ăn chủ yếu được sử dụng là tép
moi tươi, vẫn chưa có thức ăn công nghiệp phù hợp
để thay thế cho nguồn thức ăn truyền thống đang
được sử dụng. Hiện nay, người nuôi chủ yếu dựa
theo kinh nghiệm truyền thống chưa phổ biến rộng
rãi vi yếu tố phân bố địa lý, gặp khó khăn về nguồn
thức ăn, chất lượng môi trường nước không ổn định
[2]. Việc sử dụng nguồn thức ăn tự nhiên dẫn đến
năng suất nuôi thấp (1,5 - 2 tấn/ha), thức ăn thừa
dễ gây ô nhiễm môi trường và dịch bệnh cho cá
nuôi. Xu hướng tiếp cận hiện nay là chuyển sang
sử dụng thức ăn công nghiệp để hạ giá thành, giảm
thiểu ô nhiễm môi trường và gia tăng hiệu quả sản
xuất trên một đơn vị diện tích nuôi. Chính vì thế việc
nghiên cứu ảnh hưởng của một số loại thức ăn công
nghiệp lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá bồng
bớp (Bostrichthys sinensis Lacepede, 1881) giai
đoạn 5 - 6 cm tại Đồ Sơn - Hải Phòng là rất cần thiết,
nhằm góp phần cải thiện và nâng cao tỷ lệ sống của
cá ở giai đoạn giống cung cấp nhu cầu con giống
của thị trường.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Địa điểm, thời gian và đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện tại Trại sản xuất
Giống thủy sản Bàng La, Đồ Sơn, Hải Phòng từ
tháng 03 - 08/2012 trên đối tượng nghiên cứu là cá
bống bớp giai đoạn giống 5 - 6 cm.
Nguồn cá giống: Cá bống bớp được mua từ
một trại sản xuất gần đó và được thuần dưỡng cho
ăn bằng thức ăn công nghiệp trước khi đưa vào
thí nghiệm. Cá có kích cỡ 5 - 6 cm, đồng đều, có
màu sắc tự nhiên, khỏe mạnh, không có dấu hiệu
bệnh lý.
2. Bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm tiến hành bố trí trong 9 giai (2x1x0,7
m/giai), các giai được bố trí trong ao nuôi với diện
tích 2500 m2/ao. Mật độ nuôi 12 con/m2. Mỗi thí
nghiệm được lặp lại 3 lần. Đảm bảo các yếu tố
môi trường nước có độ mặn 14 - 15‰, nhiệt độ
nước phù hợp 22 - 300C, hàm lượng oxy hòa tan
4,5 - 6 mg/l.
Thức ăn được sử dụng là 3 loại thức ăn khác
nhau CP (T503), Cargill Aquaxcel-7424 và thức ăn
của Viện Hải sản (VHS) với thành phần dinh dưỡng
như trong bảng 1.
Bảng 1. Thành phần dinh dưỡng của 3 loại
thức ăn được sử dụng thí nghiệm
Tên thức ăn Protein (%)
Lipid
(%)
Độ ẩm
(%)
Tro
(%)
CP (T503) 40 4 10 12
Cargill Aquaxcel-7424 40 8 11 8,5
VHS 40 12 3 11,5
Cá thí nghiệm được thả vào giai vào lúc sáng
sớm và được tắm nước ngọt 10 phút để loại bớt
mầm bệnh từ bể thuần dưỡng.
Chế độ và phương pháp cho ăn: Cá được cho
ăn theo tỷ lệ 5 - 7% khối lượng thân, cho ăn ngày
2 lần vào lúc sáng sớm và chiều tối. Thức ăn được
rải đều khắp giai, sử dụng sàng ăn để kiểm tra thức
ăn. Sàng được đặt ở 4 góc giai, trước mỗi lần cho
ăn tiến hành kiểm tra sàng ăn để có sự điều chỉnh
lượng thức ăn cho phù hợp.
Hàng ngày theo dõi hoạt động của cá và kiểm tra
các yếu tố môi trường: pH, nhiệt độ, oxy 2 lần/ngày
vào 6 và 14 giờ. Kiểm tra độ mặn định kỳ 10 ngày/lần
và sau khi có mưa. Thay nước theo định kỳ theo
thủy triều, thay 20 - 40% lượng nước trong ao cho
mỗi lần thay.
3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu
Các mẫu cá được phân tích theo phương pháp
của Dogiel (1993). Chiều dài và khối lượng của cá
được xác định 15 ngày/lần, mỗi lần tiến hành đo
30 mẫu.
- Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài
(SGRL)
SGR
L
(%/ngày) =
Ln(L
2
) – Ln(L
1
)
t
2
– t
1
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 153
- Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng
(SGRW)
SGR (%/ngày) =
Ln(W
2
) – Ln(W
1
)
t
2
– t
1
- Tỷ lệ sống (%)
TLS (%/) =
X
x 100
Y
Trong đó:
- X: Số lượng cá tại thời điểm kết thúc thí nghiệm;
- Y: Số lượng cá thả ban đầu.
3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu sau khi thu thập được phân tích bằng
phép phân tích phương sai một yếu tố (ANOVA)
trên phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng phép kiểm
định thống kê Ducan để xác định sự khác biệt
có ý nghĩa thống kê với mức ý nghĩa P<0,05 [8].
Tất cả các số liệu trong thí nghiệm được trình bày
dưới dạng Trung bình (Mean) ± Sai số chuẩn (SE).
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
1. Các yếu tố môi trường trong thời gian thí nghiệm
Trong suốt thời gian thí nghiệm các yếu tố
môi trường nước như: nhiệt độ (23 - 300C), độ
mặn (14 - 15‰), pH (7,2 - 7,8), ôxy hòa tan
(4,24 - 6,25 mg/l) của tất cả các giai thí nghiệm
đều được duy trì ổn định, phù hợp với điều kiện
sinh trưởng và phát triển của cá bống bớp giai
đoạn giống.
2. Ảnh hưởng của các loại thức ăn công nghiệp
lên sinh trưởng của cá
Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài (SGRL)
Hình 1. Ảnh hưởng của 3 loại thức ăn công nghiệp lên SGR
L
(%/ngày)
CP: CP T 503; VHS: Viện Hải sản; CG: Cargill Aquaxcel-7424
Các ký tự a, b, c khác nhau trên các cột thể hiện sự khác biệt thống kê (P < 0,05)
Các loại thức ăn khác nhau có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài của cá
bống bớp. Sau 60 ngày nuôi, cá được cho ăn thức ăn CP có tốc độ sinh trưởng tốt nhất (1,19 ± 0,02%/ngày)
và sai khác có ý nghĩa thống kê với cá được cho ăn thức ăn Cargill (1,14 ± 0,01%/ngày) (P < 0,05). Tuy nhiên,
không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tốc độ sinh trưởng đặc trưng về chiều dài giữa thức ăn CP và
VHS (1,17 ± 0,01%/ngày) (P > 0,05).
Tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng (SGRW)
Hình 2. Ảnh hưởng của 3 loại thức ăn công nghiệp lên SGRW (%/ngày)
CP: CP T 503; VHS: Viện Hải sản; CG: Cargill Aquaxcel-7424
Các ký tự a, b, c khác nhau trên các cột thể hiện sự khác biệt thống kê (P < 0,05)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
154 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Sau 60 ngày nuôi, ta thấy tỷ lệ sống của cá
bống bớp không bị ảnh hưởng bởi các loại thức ăn
khác nhau. Tỷ lệ sống của cá đạt cao nhất khi sử
dụng thức ăn CP (82 ± 3,79%), tiếp đến là thức ăn
VHS (80 ± 2,89%) và thấp nhất đối với cá sử dụng
thức ăn CG (79 ± 2,65%). Không có sự khác biệt
về tỷ lệ sống của cá khi sử dụng 3 loại thức ăn trên
(P > 0,05).
Theo Ngô Văn Mạnh [6] nghiên cứu ảnh
hưởng của một số loại thức ăn đến sinh trưởng
và tỷ lệ sống của cá chẽm (Lates calcarifer Bloch
1790) cho thấy cá chẽm giống kích thước từ
5,2 - 6 cm được cho ăn thức ăn INVE có tốc độ
tăng trưởng đặc trưng cao và sai khác có ý nghĩa
so với cá ăn thức ăn Grobest (13,6%/ngày và
12,5%/ngày) (P < 0,05).
Sau 45 ngày nuôi, tốc độ tăng trưởng đặc trưng
về chiều dài và khối lượng của cá chim vây vàng
(Trachinotus blochii) giống giai đoạn 4 - 6 cm khi
sử dụng 3 loại thức ăn công nghiệp INVE, UP (thức
ăn của Công ty Uni - President và NTU (thức ăn do
Trường Đại học Nha Trang sản xuất) là khác nhau.
Trong đó. Cá được cho ăn thức ăn INVE cho tốc độ
tăng trưởng đặc trưng về chiều dài và khối lượng cao
nhất (SGRL: 1,50%/ngày và SGRw: 3,759%/ngày)
và sai khác có ý nghĩa với 2 loại thức ăn trên. Cá
sử dụng thức ăn của UP cho tốc độ tăng trưởng
đặc trưng thấp nhất (SGRL: 1,26%/ngày và SGRw:
3,061%/ngày). Tỷ lệ sống của cá chim vây vàng
giống cao nhất khi sử dụng thức ăn INVE (99%) và
thấp nhất khi cho ăn thức ăn UP (89,33%) [7].
Qua đó ta thấy rằng có thể sử dụng thức ăn
công nghiệp cho ương nuôi cá giống, tuy nhiên cần
chú ý đến hàm lượng protein, lipid, vitamin của
thức ăn cần đảm bảo phù hợp cho sự sinh trưởng
và phát triển từng giai đoạn của cá nhằm đạt được
kết quả tốt nhất. Ngoài ra, chế độ cho ăn hàng ngày
và mật độ nuôi cũng ảnh hưởng lớn đến tốc độ tăng
trưởng của cá, cá chim vây vàng cỡ cá 3 – 4 cm
ương bằng giai trong ao đất với các chế độ cho ăn
2,4,6 lần/ngày cho kết quả là tăng trưởng về chiều
cao khi cho ăn hai lần/ngày nhưng hệ số phân đàn
lại cao nhất, kết quả khuyến cáo là nên cho cá ăn
2 - 4 lần/ ngày trong giai đoạn này để đảm bảo tốc
độ sinh trưởng, tỉ lệ sống và hệ số phân đàn. Và khi
nghiên cứu tác động đồng thời của hai yếu tố thức ăn
(INVE và UP) và khẩu phần cho ăn là 4,6,8,10 % BW
lên sinh trưởng, tỉ lệ sống, mức độ phân đàn của cá
chim vây vàng cỡ giống 2 – 3 cm [5].
IV. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Các yếu tố môi trường trong quá trình nuôi
được duy trì nằm trong khoảng thích hợp cho cá
tăng trưởng và phát triển: nhiệt độ (23 - 300C),
Qua hình 2 ta thấy thức ăn có ảnh hưởng lớn đến tốc độ sinh trưởng đặc trưng về khối lượng của cá bống
bớp. Cá được cho ăn thức ăn CP có tốc độ tăng trưởng đặc trưng về khối lượng cao nhất (2,42 ± 0,03%/ngày)
và sai khác với thức ăn CG (2,24 ± 0,03%/ngày) (P < 0,05). Không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê giữa
tốc độ tăng trưởng đặc trưng về khối lượng giữa cá được cho ăn thức ăn CP và VHS (2,37 ± 0,05%/ngày)
(P > 0,05).
3. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của cá bống bớp
Hình 3. Ảnh hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống của cá bống bớp
CP: CP T 503; VHS: Viện Hải sản; CG: Cargill Aquaxcel-7424
Ký tự a trên các cột thể hiện không có sự sai khác có ý nghĩa thống kê (P > 0,05)
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản Số 2/2014
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 155
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Sách đỏ Việt Nam, 2007. Phần I. Động vật. NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ: 364-366.
2. Trần Văn Đan, 1998. Một số đặc điểm sinh học của cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacepede, 1801) ở Hải Phòng. Tuyển
tập các công trình nghiên cứu nghề cá biến, tập 1. NXB Nông nghiệp: 359.
3. Trần Văn Đan và Từ Minh Hà, 1998. Kết quả bước đầu tìm hiểu khả năng sử dụng thức ăn tổng hợp của cá bống bớp
(Bostrichthys sinensis Lacepede, 1801). Tuyển tập báo cáo khoa học tại Hội thảo khoa học toàn quốc về Nuôi trồng thủy sản,
ngày 29-30/ 9/ 1998: 260-262.
4. Trần Văn Đan, 2002. Nghiên cứu cơ sở khoa học cho sản xuất giống và nuôi cá bống bớp (Bostrichthys sinensis Lacepede,
1801) ở ven biển miền Bắc Việt Nam. Luận án Tiến sỹ chuyên ngành Thủy sinh vật. Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I.
5. Thân Thị Hằng, 2011. Ảnh hưởng của mật độ nuôi, loại thức ăn khẩu phần và chế độ cho ăn lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của
cá chim vây vàng. Luận văn Thạc sĩ Kỹ thuật. Trường Đại học Nha Trang, 49.
6. Ngô Văn Mạnh, 2008. Ảnh hưởng của mật độ nuôi, cỡ cá thả, loại thức ăn và chế độ cho ăn lên cá chẽm (Lates calcarier
Bloch, 1790) giống ương trong ao bằng mương nổi. Kỷ yếu Hội nghị khoa học trẻ toàn quốc về Nuôi trồng thủy sản, 12/2008.
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thủy sản I, 84.
7. Dương Thị Thúy Quỳnh, 2013. Tìm hiểu quy trình sản xuất và đánh giá chất lượng thức ăn công nghiệp dạng viên cho cá chim
vây vàng Trachinotus blochii. Luận văn Tốt nghiệp. Trường Đại học Nha Trang, 48.
Tiếng Anh
8. Zar JH., 1999. Biostatistical Analysis. Upper Saddle River. Prentice Hall, New Jersey. 4th Edition. Cap 12: 231-272.
hàm lượng oxy hòa tan dao động từ 4,24 - 6,25 mg/l;
độ mặn (14‰), pH trong ao nuôi (7,2 - 7,8).
Thức ăn có ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng
đặc trưng về chiều dài và khối lượng của cá bống
bớp. Trong đó, cá được cho ăn thức ăn CP có tốc độ
sinh trưởng đặc trưng cao nhất (SGRL: 1,19±0,02
%/ngày và SGRW: 2,42 ± 0,03%/ngày). Tuy nhiên
không có sự sai khác về mặt thống kê với thức ăn
VHS (SGRL: 1,17 ± 0,01 %/ngày, SGRW: 2,37 ±
0,05%/ngày và tỷ lệ sống: 80 ± 2,89%). Tốc độ sinh
trưởng đặc trưng của cá bống bớp thấp nhất khi sử
dụng thức ăn Cargill Aquaxcel-7424 (SGRL: 1,14 ±
0,01%/ngày và SGRW: 2,24 ± 0,03%/ngày).
Tỷ lệ sống của cá cao nhất khi sử dụng thức ăn
CP T503 (82%) và thấp nhất đối với thức ăn Cargill
Aquaxcel 7424 (79%).
2. Kiến nghị
Cần tiếp tục nghiên cứu ảnh hưởng đồng thời
của hàm lượng lipid và protein trong thức ăn, các
axit béo thiết yếu và vitamin lên sinh trưởng, hệ số
chuyển đổi thức ăn và tỷ lệ sống của cá bống bớp
cũng như hiệu quả sử dụng thức ăn, thành phần
sinh hóa... trên đối tượng này.
Bên cạnh đó, có thể nghiên cứu thêm về ảnh
hưởng của thức ăn và mật độ nuôi lên tốc độ sinh
trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và tỷ lệ sống của
cá bống bớp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- anh_huong_cua_cac_loai_thuc_an_khac_nhau_len_toc_do_sinh_tru.pdf