3 chữ C trong Thương Mại Điện Tử

Vẫn còn quá sớm để có thể đánh giá iOS 7 là một sản phẩm thành công hay thất bại bởi người dùng phổ thông sẽ phải chờ tới mùa thu để được nâng cấp chính thức. Nhưng chúng ta vẫn hoan nghênh sự thay đổi của Apple vì đây có thể trở thành khởi đầu cho một cuộc cách mạng sâu sắc trên nền tảng iOS nhằm cạnh tranh với các thế lực đến từ Android như Samsung, HTC hay sự trỗi dậy của Nokia với Windows Phone 8.

docx59 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1955 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu 3 chữ C trong Thương Mại Điện Tử, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
… Dịch vụ trực tuyến: Tăng tốc và cạnh tranh Với những nhận định như trên, có thể thấy nửa cuối năm 2007 trở đi sẽ là thời gian các công ty tăng tốc và cạnh tranh gay gắt. Internet Việt Nam chắc chắn sẽ nhanh chóng thay da đổi thịt. Về thể loại dịch vụ: 1. Các dịch vụ online games vẫn phát triển mạnh Hàng chục online games được phát hành trong thời gian qua đã mang về hàng triệu khách hàng và doanh thu không nhỏ cho VinaGame, VTC. Các nhà cung cấp dịch vụ đầu tư nhiều triệu đô la để mua game và phát triển, dịch vụ trò chơi trực tuyến rõ ràng đã bứt tốp ngoạn mục trong một thời gian ngắn. Qua mặt các đàn anh phát triển nhiều năm trước như các dịch vụ tin tức, online game nhận được sự quan tâm rất lớn của hầu hết các đại gia công nghệ như FPT, VDC, VTC. Các nhà cung cấp đang chuyển hướng dần từ các game nhập vai nhiều người chơi (MMORPG) sang các casual games (trò chơi đơn giản, nhanh chóng và không yêu cầu cài đặt) như đánh bài, cá ngựa, xếp hình (trong đó socvui.com, boom là một vài ví dụ điển hình) Dự đoán online game vẫn là dịch vụ chiếm doanh thu chính so với các dịch vụ trực tuyến khác. 2. Các dịch vụ tin tức tiếp tục thống trị Mặc dù sẽ gặp nhiều khó khăn từ doanh thu, bản quyền đến chi phí hàng tháng cho đội ngũ phóng viên, tin tức trực tuyến vẫn là một trong những dịch vụ thu hút đông người dùng nhất trong thời gian tới. Vị trí độc tôn của một vài tờ báo điện tử sẽ bị lung lay bởi phiên bản báo điện tử của các tờ báo giấy lớn, cộng thêm sự chia sẻ cho các dịch vụ đặc thù như tin thể thao, tin thời trang, blog… Cuộc chiến trên vùng đất này hứa hẹn sẽ hết sức căng thẳng và kịch tính. 3. Các dịch vụ giải trí được tăng cường Tốc độ truy cập ngày càng cao, giá máy chủ, phí thuê hosting ngày càng rẻ chính là những động lực lớn nhất để các dịch vụ giải trí trực tuyến nở rộ thời gian qua từ nhạc trực tuyến, video trực tuyến đến chia sẻ ảnh, phim… Chỉ chịu thua hai đàn anh là games và tin tức, các dịch vụ giải trí online hứa hẹn sẽ tạo nên một vườn hoa đầy màu sắc 4. Kết bạn, mạng xã hội, dịch vụ cộng đồng, blog lên tiếng Có thể nói Việt Nam đã sắp bước qua thời “ăn no mặc ấm”, giờ người dùng Internet đang bị bão hoà và có phần bội thực thông tin. Người dùng ngày càng đòi hỏi cao hơn, cá nhân hơn, sự chăm sóc, phục vụ và nhu cầu được tham gia điều khiển cuộc chơi rõ rệt hơn bao giờ hết. 5. Các dịch vụ tìm kiếm được đầu tư lớn và khởi sắc Với tỷ lệ 41% tổng ngân sách chi cho tìm kiếm trực tuyến (theo Interactive Advertising Bureau), đây là mảnh đất màu mỡ nhất của Internet. Bamboo, Zing, 7sac, Socbay, Timnhanh… lần lượt được đầu tư từ các quỹ lớn và cạnh tranh khốc liệt. Với tham vọng xây dựng một Baidu của Việt Nam cạnh tranh với Google bằng nội dung địa phương bằng “độc chiêu” tìm kiếm MP3 và blog Việt, các cỗ máy tìm kiếm “made in Vietnam” đang có những thành công bước đầu. Tuy nhiên cuộc chiến này là mô hình Zero-sum game (chỉ có 1 người chiến thắng tuyệt đối), liệu ai sẽ thực sự chiếm ngôi vị độc tôn? 6. Rao vặt – thương mại điện tử sẽ bùng nổ Mặc dù thời gian qua hầu hết các trang TMĐT trong nước chỉ dừng ở chức năng rao vặt, các thương vụ đa phần được thực hiện offline (do rào cản thanh toán trực tuyến), hàng loạt công ty vẫn đầu tư dài hơi cho miếng bánh này. Chodientu, Rongbay, muare, 123mua… đều đang chờ thời điểm để bùng phát. Đang trong “phòng thí nghiệm” nhưng chắc chắn sẽ có những tên tuổi lớn tham gia và chiếm ưu thế là các chuyên mục rao vặt của các báo điện tử. Dự kiến chiếm 17% ngân sách quảng cáo trực tuyến, rao vặt và catalogs hứa hẹn sẽ không phụ lòng các nhà đầu tư. 7. Thêm nhiều “showroom” của video clips, truyền hình trực tuyến, video on-demand (theo nhu cầu) Ngay sau khi Google mua lại YouTube với 1,65 tỷ USD, nhiều doanh nghiệp trong nước đã đầu tư cho dịch vụ video trực tuyến. Clip.vn của VEGA được IDG đầu tư, xem.vn của 24h đều đã thu hút một lượng khách hàng không nhỏ. Với sự ráo riết chuẩn bị cho IPTV của FPT Telecom, lượng người xem phim trực tuyến trên các trang iOne.net (trước đây), ePhim.com hiện nay, truyền hình trực tuyến cũng đang mang lại cho người dùng Internet Việt Nam thêm một lựa chọn mới. Tuy nhiên, do đặc thù tốn băng thông và máy chủ, cuộc chơi này sẽ chỉ dành cho các doanh nghiệp rủng rỉnh hầu bao. 8. Chat, email vẫn do Google và Yahoo thống trị Có thể thấy lợi thế của các doanh nghiệp Việt Nam trong cuộc chơi Internet toàn cầu nằm ở giá trị địa phương, ngôn ngữ, văn hoá và sự chăm sóc khách hàng. Dịch vụ email, chat đã được khá nhiều các ISP như VDC, FPT thực hiện từ khá lâu nhưng chưa thực sự mang lại hiệu quả. Dịch vụ Messenger của VietnamNET không khởi sắc. Gần đây VinaGame cũng tham gia với tham vọng lật đổ Yahoo tại Việt Nam, tuy vậy còn một khoảng cách khá xa để đuổi kịp Yahoo (chat + email), Google (email) và SkyPE (chat) về cả mạng lưới khách hàng, hạ tầng, sự ổn định dịch vụ và tính hữu ích của sản phẩm. Đơn giản vì tất cả các dịch vụ của các đại gia nước ngoài đều miễn phí và đều đang có phiên bản tiếng Việt. Về công nghệ: Dự đoán sẽ có hai xu hướng chính: Mua công nghệ nước ngoài về Việt hoá và tự phát triển. Hầu hết các sản phẩm lớn đều được mua sản phẩm đang thành công ở nước ngoài và đưa về Việt Nam, Việt hoá, làm marketing và bán hàng. Đặc trưng là các online games dạng MMORPG mà tiêu biểu là Võ Lâm Truyền Kỳ (Trung Quốc), Audition (Hàn Quốc), MU (Hàn Quốc)… Cyworld.vn là mạng xã hội đầu tiên được Việt hóa (từ Cyworld Hàn Quốc). Với 2 lợi thế rõ rệt trong mô hình này là thời gian phát triển sản phẩm ngắn, dịch vụ đã được kiểm nghiệm thành công ở thị trường nước ngoài, dự đoán trong thời gian tới sẽ có nhiều sản phẩm được tung ra theo mô hình này. Một số dịch vụ nhỏ hơn, đặc biệt các mô hình web 2.0 lại có thể được sản xuất trong nước. Với lợi thế dễ thích nghi, dễ sửa đổi, các mô hình nhỏ gọn này hoàn toàn có thể nhanh chân chiếm được các thị trường khe, nơi các đại gia chưa kịp dòm ngó đến. Sẽ xuất hiện nhiều sản phẩm web 2.0 mang tính tương tác cao như mạng xã hội, kết bạn, các trang web chia sẻ, kết nối thành viên. Một trong những “đặc sản” của web 2.0 chính là khả năng nhúng (embed) vào các hệ thống khác như blog, forum, báo điện tử… Với sự chuyên biệt phục vụ một nhu cầu (ví dụ một hộp nghe nhạc được nhúng vào blog) kết hợp với một cộng đồng sẵn có, sẽ là mô hình 3 bên cùng có lợi: người dùng, dịch vụ nhúng và dịch vụ cho nhúng. Thêm vào đó cũng sẽ xuất hiện nhiều cuộc bắt tay giữa Internet với truyền hình, báo giấy. Trong một vài năm tới với sự phát triển rầm rộ của các công nghệ di động như WIFI, WIMAX, 3G, chắc chắn sẽ có nhiều dịch vụ kết nối với mobile hữu ích hơn tin nhắn SMS hiện tại. Những dòng điện thoại mới như iPhone, Gphone sẽ hiện hữu nhiều nơi mang đến cho Internet một kênh phân phối mới, cá nhân hoá và rộng khắp. Kết quả: 1. Người dùng được nhiều lợi ích Rõ ràng thị trường dịch vụ Internet thời gian tới sẽ vô cùng sôi nổi và cạnh tranh quyết liệt. Người sử dụng chính là đối tượng được hưởng lợi nhiều nhất. Đa dạng dịch vụ, chăm sóc tốt, nhiều khuyến mãi, nhiều bạn bè… Internet chắc chắn sẽ thu hút được nhiều đôi mắt, bàn phím và click chuột hơn bao giờ hết, và sẽ không chỉ dừng ở số thanh niên các thành phố lớn. 2. Quảng cáo trực tuyến lên ngôi Cộng đồng người sử dụng phình lên, các công nghệ quảng cáo mới ra đời sẽ đưa quảng cáo trực tuyến trở thành một trong những điểm nóng của ngành quảng cáo. Với tỷ lệ phát triển 30% và sẽ còn tăng mạnh, cả Jupiter và Forrester đều dự đoán ngân sách cho quảng cáo trực tuyến có thể tăng tới 20 – 26 tỷ USD vào năm 2010. Việc các tập đoàn lớn trên thế giới như Microsoft, Google, AOL, Yahoo đang thâu tóm các công ty quảng cáo nhỏ hơn và quyết tâm giành thị phần quảng cáo trực tuyến cho thấy cuộc đua đang ngày càng quyết liệt. Ở Việt Nam, mặc dù 24h đang đi những bước tiên phong ấn tượng, chúng ta vẫn chưa có một giải pháp quảng cáo đột phá nào đáng kể. Thị trường quảng cáo còn rất nhỏ, chỉ chiếm xấp xỉ 1% tổng số tiền chi cho quảng cáo nói chung. Trong bối cảnh đó, đa phần các công ty đều đang loay hoay tìm giải pháp do doanh thu chính của các dịch vụ trực tuyến vẫn là quảng cáo. Dự đoán không lâu nữa sẽ có những giải pháp vượt trội để Internet phát huy được ưu thế so với truyền hình và báo giấy. 3. Làn sóng .COM lần thứ nhất của VN: Đầu tư vào lĩnh vực CNTT tăng mạnh Sau những cơn sốt chứng khoán ở các lĩnh vực truyền thống như địa ốc, hạ tầng, ngân hàng, thị trường chứng khoán Việt Nam được dự đoán sẽ đi vào ổn định. Vốn đầu tư sẽ chuyển qua các công ty công nghệ do đầu tư thấp mà có thể đạt lãi suất hàng trăm đến hàng nghìn lần (như minh chứng từ sự thành công của các công ty công nghệ nước ngoài) Sau IDG ventures, VinaCaptial, nhiều nhà đầu tư cá nhân đang tìm cách đầu tư hoặc lùng mua cổ phần của các công ty dịch vụ Internet và điện thoại di động. Lấy thành công của VinaGame làm ví dụ, khả năng IPO và bán lại cổ phần của các công ty dot com cho các nhà đầu tư quốc tế vào Việt Nam rất cao. Ngay trong nước cũng sẽ xuất hiện nhiều thương vụ mua bán, thâu tóm các công ty CNTT vừa và nhỏ. Không lâu nữa chúng ta sẽ được chứng kiến một cuộc bứt phá ngoạn mục của các công ty dot com trên thị trường chứng khoán trong nước. 4. Sẽ xuất hiện nhiều dịch vụ phục vụ đối tượng ở các tỉnh và nông thôn Do cạnh tranh gay gắt tại các thành phố lớn, ngược lại các vùng lân cận và nông thôn lại là thị trường bỏ ngỏ, nhiều doanh nghiệp sẽ nhắm vào các mảnh đất này. Các thông tin gần gũi với người dân như giá ngô giá lúa, các loại hoa màu thực phẩm sẽ là món ăn tinh thần phù hợp hơn với bà con làm nông nghiệp. Nếu được hỗ trợ từ phía chính phủ, các dịch vụ này chính là động lực lớn cho việc đưa Internet về với người dân nông thôn. 5. Bản quyền được tôn trọng Các công ty hoạt động trên môi trường Internet thường lấy thương hiệu làm đầu chính là nhu cầu nội tại thúc đẩy việc tôn trọng bản quyền tại các doanh nghiệp này. Thêm vào đó, hầu hết các dịch vụ Internet đều dựa vào nội dung của đơn vị khác (như tin tức, âm nhạc, phim ảnh, sách truyện …) đồng thời luật và các quy ước quốc tế ngày càng chặt chẽ, giải quyết bài toán bản quyền chắc chắn sẽ nằm trong danh sách những việc đầu tiên cần làm của một đơn vị cung cấp dịch vụ Internet. 6. Các dịch vụ thanh toán trực tuyến phát triển Do nhu cầu thanh toán trực tuyến ngày càng cấp bách, nhiều ngân hàng đang chuẩn bị mở thêm dịch vụ thanh toán điện tử. Techcombank, ACB, Vietcombank đều đang trong quá trình cung cấp các hình thức thanh toán trên mạng Internet mà việc bắt tay với VISA cung cấp thẻ VISA Debit là một ví dụ. VTC, Paynet, VinaPay, FPT và một vài công ty khác đang hy vọng sẽ trở thành nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trực tuyến trong một tương lai rất gần. 8. Một số dịch vụ mang tính địa phương sẽ phát triển mạnh Như đã phân tích ở trên, thế mạnh cạnh tranh lớn nhất trong cuộc chơi Internet toàn cầu mà các doanh nghiệp Việt Nam đang sở hữu chính là tính địa phương của dịch vụ. Các sản phẩm, dịch vụ được dự đoán sẽ làm tốt hơn các công ty nước ngoài bao gồm: Từ điển, bộ gõ, bản đồ, tìm kiếm thông tin địa phương, nhà hàng, khách sạn, du lịch … Những khó khăn: Mặc dù viễn cảnh thị trường Internet Việt Nam rất huy hoàng, nhưng thực tại lại khá ảm đạm. Khi thị trường chưa “chín”, doanh thu thấp, cash-flow (dòng tiền) sẽ âm. Không ít doanh nghiệp đã phải đóng cửa khi chưa đến mùa hái quả vì hết vốn. Thanh toán trực tuyến chính là nguyên nhân lớn thứ hai. Khi không thu phí được người dùng mà thị trường quảng cáo trực tuyến còn rất sơ khai, nhiều công ty CNTT đã phải lấy ngắn nuôi dài bằng cách đi làm các dự án phần mềm, thiết kế web nhỏ lẻ. Một lý do nữa khiến các công ty dot com phá sản là do các ông chủ còn quá trẻ. Đa phần các ông chủ của cuộc chơi dịch vụ Internet đều thuộc thế hệ “8x” (những người sinh từ 1980 đến 1989) do thế hệ này đón nhận được đúng thời của Internet và các công nghệ di động tại Việt Nam. Tuy nhiên, ngoài tài năng công nghệ và niềm đam mê, cả vốn lẫn kinh nghiệm thương trường của các chủ doanh nghiệp này đều còn non nớt. Cách giải quyết khả quan nhất có lẽ là các doanh nghiệp này nên hợp tác hoặc thuê các nhà quản lý nhiều kinh nghiệm, huy động đầu tư vốn của các quỹ và cá nhân rồi hãy bơi ra biển lớn. Và khó khăn không thể bỏ qua khi Việt Nam gia nhập WTO chính là sự cạnh tranh với các công ty nước ngoài ngay tại thị trường trong nước. Thời điểm này vừa mở ra nhiều cơ hội và cũng vừa mang lại không ít khó khăn khi các doanh nghiệp phải đối mặt với những tập đoàn khổng lồ đầy mình công nghệ, vốn lớn kinh nghiệm nhiều. Chi phí cơ hội trong giai đoạn này rất lớn, nếu biết dự đoán và tận dụng thời gian để chuẩn bị, chắc hẳn sẽ có nhiều công ty trong nước sánh vai với các tập đoàn quốc tế tại Việt Nam. Những cơ hội: Nhìn vào quá trình chuyển dịch từ đầu tư hạ tầng sang đầu tư dịch vụ của các quốc gia phát triển (80% các công ty Mỹ là công ty dịch vụ), có thể thấy tại Việt Nam trong thời gian tới dịch vụ mới là ngành có thu nhập chính. Với một thị trường hơn 80 triệu dân và số người sử dụng Internet lên tới vài chục triệu, chúng ta hoàn toàn có thể kỳ vọng vào những Google, Yahoo, Microsoft của Việt Nam và những công ty CNTT trị giá hàng trăm triệu USD trong thời gian tới. Một minh chứng hùng hồn là những người giàu nhất Việt Nam và Trung Quốc thời gian qua đều là dân công nghệ. Với sự ủng hộ của chính phủ, với nhu cầu lớn của người dân, với số vốn không nhỏ của nhiều nhà đầu tư, cơ hội mở ra cho những nhà cung cấp dịch vụ, đặc biệt các doanh nhân thế hệ 8x là rất lớn. Một sân chơi rộng, một cuộc chơi đầy những cơ hội trong một thị trường mở, ai sẽ đặt dấu ấn trong lịch sử 10 năm tiếp theo của Internet Việt Nam? Theo kết quả khảo sát tháng 7/2007 do Alcatel – Lucent thực hiện tại Việt Nam, hầu hết khách hàng chỉ dành từ 10-20USD cho dịch vụ Internet băng rộng. Làm sao để tăng lợi nhuận trên mỗi khách hàng? Dịch vụ trực tuyến sẽ là câu trả lời Theo ICT News Leave a Response » Các Thuật ngữ Quảng bá website Trong bài này, chúng tôi mạn phép nêu lên một số khái niệm về lĩnh vực rất cũ của thế giới nhưng lại rất mới ở Việt Nam để các bạn tham khảo: Thuật ngữ Quảng bá website. Quảng bá website – một khái niệm vốn không lạ lùng với những người nhiều năm kinh doanh trực tuyến – nhưng lại rất mới mẻ với những ai mới bước vào thế giới @. Trong bài này, chúng tôi mạn phép nêu lên một số khái niệm về lĩnh vực rất cũ của thế giới nhưng lại rất mới ở Việt Nam để các bạn tham khảo: Thuật ngữ Quảng bá website. + SEO : Từ đầu tiên, nhiều người quan tâm nhất và cũng hay bị lầm lẫn nhất là SEO. SEO là từ viết tắt của Search Engine Optimization – dịch nôm na là tối ưu hóa website cho việc nâng thứ hạng web trên các cỗ máy tìm kiếm. Với khái niệm này, rất nhiều người làm kinh doanh trực tuyến thường đánh đồng SEO chính là Quảng bá website. Sự thật không phải vậy. SEO chỉ là một trong những công đoạn cơ bản và bắt buộc trong cả quá trình quảng bá một website trên hệ thống tìm kiếm. Để SEO một website, các webmaster thường phải sử dụng một số công cụ như phần mềm chuyên dụng hay các công cụ có sẵn trên Net để đo chỉ số Title, Keywords, Description, Body text, H1, H2,…H7, Các thẻ Alt, thẻ Images, Thẻ Robots, Refresh, Topic,…. và vô số những thông số kỹ thuật khác. Nguyên tắc chính của việc SEO một website là phải làm mọi cách để từng trang web và cả website chạy nhanh hơn, ít lỗi kỹ thuật hơn, mã nguồn trong sáng hơn, ít script hơn và đặc biệt: Không có các lỗi bị hệ thống tìm kiếm cho là kỹ thuật Cloaking – kỹ thuật đánh lừa các cỗ máy tìm kiếm. + SES – Search Engine Submission: Đăng ký website vào các cỗ máy tìm kiếm. Thuật ngữ này cũng rất được quan tâm vì đây là cách đơn giản và nhanh nhất giúp một website mới ra đời có thể được liệt kê trong danh bạ của các cỗ máy tìm kiếm. Để làm việc này, các webmaster thường sử dụng nhiều cách khác nhau, nhưng tựu trung có 2 cách chính: - Tự động đăng ký: Các webmaster dạng này thường sử dụng một phần mềm chuyên về SES như AddWeb Promoter, Hello Search Engines, Dynamic Submission,… để đăng ký website vào hàng loạt cỗ máy tìm kiếm. Nhiều webmaster rất tự hào với những phần mềm dạng này khi cho rằng mình đã đăng ký website của mình (và cả của khách hàng) vào hàng ngàn – thậm chí hàng triệu “cỗ máy tìm kiếm” chỉ bằng một vài lần nhấn chuột – và phần mềm sẽ làm thay toàn bộ. Sự thật có đơn giản như thế? Hãy lấy Google, Yahoo và MSN làm ví dụ: Để đăng ký vào 3 cỗ máy này, bạn bắt buộc phải làm động tác: nhập mã số an toàn (đối với Google và MSN) hoặc đăng nhập tài khoản (nếu đăng ký vào Yahoo). Đây là việc chỉ con người mới làm được – không có một phần mềm nào đủ khả năng làm thay. Chưa hết, hiện 3 cỗ máy này đang chiếm thị phần tìm kiếm áp đảo với chỉ số: Google + Yahoo + MSN chiếm xấp xỉ 85% chỉ số tìm kiếm toàn thế giới. Ngoài ra, các Search Engine khác như AOL (sử dụng kết quả của Google), Altavista, Alltheweb, Inktomi (sử dụng kết quả của Yahoo), Ask/Teoma, Lycos, HotBot và Dogpile chiếm khoảng 14,5% thị phần còn lại. Như vậy hàng “ngàn”, hàng “triệu” “cỗ máy tìm kiếm” còn lại chỉ chiếm thị phần xấp xỉ 0,5% ! - Đăng ký thủ công: Đây là cách làm đúng và cần thiết nhất để website của bạn sớm được nhận diện trên hệ thống tìm kiếm. + Keywords: Từ khóa – những từ mà webmaster hoặc chủ nhân trang web cho là quan trọng đối với website của mình. Thường, mỗi website được chọn ra những từ đơn hay cụm từ nhau làm từ khóa. Ví dụ, trang web về du lịch thì các từ vietnam travel, vietnam tours, …; website về giải trí thì các từ: âm nhạc, phim ảnh, giải trí, am nhac, ca sy, nguoi mau, thoi trang,… thường được chọn làm từ khóa. Thời gian trước, từ khóa là vấn đề sống còn đối với một trang web. Nhưng nay với giải thuật mới từ các cỗ máy tìm kiếm thì từ khóa chỉ đóng vai trò thứ yếu. + Link Back – Link popularity: Mức độ phổ biến liên kết. Một website được đánh giá cao tại Google hay Yahoo khi nó có nhiều liên kết từ các website khác đến. Tuy nhiên, không phải cứ có nhiều liên kết là tốt vì nhiều liên kết hoàn toàn vô nghĩa vì nếu bạn liên kết đến một website bị liệt vào black list (danh sách đen vì đã sử dụng công nghệ spamming) hoặc một trang web quá ít người truy cập hay không đúng chủ đề thì lợi bất cập hại. Website của bạn có thể bị đánh giá là “cùng hội cùng thuyền” với các website kia và như thế, nguy cơ website của bạn bị rớt hạng là rất lớn. + Ranking, PageRank: Với ranking, thì Alexa đang chiếm uy tín tuyệt đối vì tính chính xác và độ tin cậy. Một website có thứ hạng Alexa ranking cao đồng nghĩa với việc website đó được nhiều người biết đến, nhiều người truy cập và nó cũng dễ dàng được tìm thấy với vị trí cao trên hệ thống tìm kiếm. PageRank là một công cụ đo đếm số link back của một website bất kỳ. nếu website của bạn có PageRank cao thì cũng đồng nghĩa với việc website được truy cập nhiều hơn nhờ người truy cập bấm trực tiếp vào link (hay banner, logo) để đến website của bạn và hệ thống tìm kiếm cũng ưu ái với bạn hơn. + Search Engine: Là các cỗ máy tìm kiếm như Google, Yahoo, Msn,… Những cỗ máy tìm kiếm này sử dụng một phần mềm gọi là Robot, hay Spider, hay Bot hoặc Crawler để tự động index và lập chỉ mục tất cả các website trên đường chúng “bò” qua. Sau đó, những thông tin này được gửi về Data Center của cỗ máy tìm kiếm để xử lý, sàng lọc, phân loại và đưa vào lưu trữ. Khi một người dùng internet cần tìm một nội dung, họ sẽ đánh từ khóa và nhiệm vụ của cỗ máy tìm kiếm là lục tìm trên danh bạ của nó các kết quả liên quan (đã lập chỉ mục trước đó). Công việc này được tiến hành hoàn toàn tự động và có thứ tự ưu tiên khác nhau cho từng site khác nhau. Các site tốt, giàu nội dung (như các trang báo điện tử, các blog lớn, các diễn đàn đông thành viên) sẽ được index thường xuyên hơn. Chính vì vậy, kết quả tìm kiếm thường tươi mới đối với những site lớn. + Internet Directory: Đây là các thư mục internet giống như kiểu Trang Vàng của Việt Nam. Những thư mục này chứa đựng rất nhiều website theo từng danh mục, từng chủ đề các nhau. Khác với các Cỗ máy tìm kiếm – các thư mục internet không hoạt động tự động mà thường do người quản trị cập nhật thông tin thông qua bản đăng ký của các chủ website gửi đến. Nếu website của bạn có mặt tại nhiều thư mục internet thì ranking, pagerank và cả vị trí trên các search engine cũng cao hơn. + SEM: Search Engine Marketing. Đây mới chính là cái mà các nhà quản trị website và người kinh doanh online nhắm đến. SEM chính là tổng hợp của tất cả các công đoạn nêu trên, gồm: tối ưu hóa website, đăng ký website vào hệ thống tìm kiếm và các thư mục internet, đặt liên kết với các site khác (trong đó bao gồm cả việc mua liên kết bằng cách đặt logo, banner quảng cáo) và nhiều việc làm khác nữa nhằm giúp website trở nên thân thiện hơn với các cỗ máy tìm kiếm để thứ hạng các từ khóa trong website ngày càng được cải thiện, website có nhiều người truy cập hơn. Kinh tế truyền thông Thứ Tư, Tháng 6 18 2008  “Quảng cáo là một trong những yếu tố quan trọng, đồng thời là nguồn thu lớn của các tập đoàn trong nền kinh tế truyền thông.”. Tại sao truyền thông các nước Anh, Mỹ, Thụy Điển … lại phát triển mạnh mẽ? Lý do chính là họ coi truyền thông như một ngành kinh tế mũi nhọn, hay nói một cách khác các nước này đã xây dựng thành công nền kinh tế truyền thông. Đối với nhiều quốc gia, truyền thông không chỉ dừng lại ở mức độ phục vụ nhu cầu thông tin, giải trí của công chúng mà nó còn được coi là một ngành kinh tế, thậm chí là ngành kinh tế mũi nhọn… Truyền thông là một ngành kinh tế Trong truyền thông các khái niệm như tập đoàn, cổ đông, cổ phiếu, thuế, thị trường …ngày càng được nhắc đến nhiều. Đầu tiên phải nói đến sự xuất hiện của những tập đoàn truyền thông khổng lồ, Viacom là một ví dụ. Tập đoàn sở hữu không chỉ một mà rất nhiều những kênh truyền hình có danh tiếng như MTV, Nickledeon… News Corp. cũng là một điển hình cho mô hình kinh tế truyền thông. Bên cạnh các dịch vụ tin tức và xuất bản, Murdoch còn đầu tư vào lĩnh vực thể thao. Hàng năm ông trùm truyền thông này rót hàng trăm triệu đôla vào việc tổ chức các giải bóng bầu dục tại Australia. Để dễ quản lý và thu được nhiều lợi nhuận hơn, các tập đoàn này thường chia ra thành các công ty con, trong đó công ty truyền thông vẫn giữ vai trò chủ đạo. Các công ty dịch vụ khác chủ yếu giữ nhiệm vụ hỗ trợ và quảng bá thương hiệu cho tập đoàn mẹ. Lợi nhuận và uy tín tăng đồng nghĩa giá cổ phiếu cũng tăng. Các tập đoàn truyền thông đã giàu càng trở nên giàu có hơn. Bên cạnh đó là sự góp mặt của các hợp đồng quảng cáo. Sự sáp nhập hay tách nhỏ giữa các tập đoàn truyền thông cũng là một đặc điểm để nhận dạng một nền kinh tế truyền thông. Sản phẩm của truyền thông cũng được coi là hàng hóa mua đi bán lại giữa các tập đoàn và của tập đoàn với độc giả. Một khi chúng được coi là hàng hóa thì cũng phải chịu tác động bởi nhiều yếu tố của nền kinh tế như cung, cầu, giá cả, thị trường và tính cạnh tranh. Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế truyền thông Kinh tế truyền thông đem lại nguồn thu lớn cho nhà nước, chủ yếu là qua thuế. Tuy vậy ngành kinh tế này có thực sự phát triển được không một phần do chính sách của Nhà nước. Chính phủ sẽ giảm dần các khoản chi cho báo chí, để các tập đoàn truyền thông tự hạch toán. Do đó, các tờ báo, đài truyền hình, phát thanh và các loại hình truyền thông khác muốn tồn tại được phải nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành và đáp ứng được các yếu tố khác của thị trường. Nhà nước cần tạo một hành lang pháp lý đủ rộng, minh bạch để cho nhiều các công ty truyền thông có điều kiện phát triển. Song song với nó là bản thân các công ty cũng phải thực hiện theo đúng pháp luật. Bên cạnh đó các công ty không ngừng đầu tư, ứng dụng khoa học kĩ thuật mới vào việc xuất bản, phát hành. Truyền thông – phương tiện quảng bá văn hóa Không chỉ mang lại nguồn thu lớn cho Nhà nước mà nền kinh tế truyền thông còn là một phương tiện để khẳng định vị trí của công ty và quốc gia mình trên thế giới. Văn hóa Mỹ đang có tầm ảnh hưởng lớn đến văn hóa toàn cầu, chủ yếu qua con đường phim ảnh và báo chí. Những cái tên đình đám của Mỹ như Justin Timberlake hay Paris Hilton đã trở nên phổ biến ở nhiều quốc gia trong đó có cả những đất nước có nền chính trị và kinh tế đối lập với Mỹ như Iraq, Iran … Đó là điều tất yếu của hội nhập, toàn cầu hóa và phương tiện để thực hiện điều này là truyền thông. Còn nhớ cách đây không lâu Viacom đã vạch ra một kế hoạch xâm nhập thị trường truyền thông các nước Ả Rập. News Corp. thì đầu tư vào thị trường giàu tiềm năng Trung Quốc… Tại Châu Á, Hàn Quốc là một quốc gia đang xây dựng thành công nền kinh tế truyền thông khi những bộ phim ăn khách hay các ngôi sao điện ảnh ca nhạc của họ ngày càng trở nên phổ biến. Họ sử dụng phim ảnh, sách báo để quảng cáo văn hóa của mình đến các quốc gia khác trong khu vực. Công chúng là người được lợi nhất Cạnh tranh là một trong những đặc điểm nổi bật của nền kinh tế truyền thông. Cạnh tranh khiến các tập đoàn, công ty truyền thông chú trọng đầu tư vào chất lượng, hạ giá thành… làm sao để có thể thu hút được nhiều công chúng. Trong nền kinh tế truyền thông, công chúng được phục vụ tốt hơn, có được nhiều sự lựa chọn hơn. Độc giả có thể chọn cho mình những tờ báo với nội dung thông tin tốt, phân tích, bình luận sâu và giá cả hợp lý. Khán giả truyền hình có thể chọn lựa kênh, đài truyền hình mình yêu thích… với chất lượng phục vụ tốt và giá cả thấp. Để báo chí nói riêng và truyền thông nói chung có thể phát triển một cách bền vững và chuyên nghiệp, kinh tế hóa truyền thông là một tất yếu. Chỉ khi coi truyền thông là một ngành kinh tế thì truyền thông mới phát huy hết vai trò của mình, trong khí đó bản thân Nhà nước, doanh nghiệp và công chúng đều có lợi. Theo Vietnamnet Leave a Response » Tại sao công ty bạn cần một trang web của riêng mình? Ngay cả khi bạn không định bán hàng trực tuyến thì một trang web được thiết kế tốt vẫn hết sức quan trọng. Đó là ý kiến của Tim W. Knox- người sáng lập, chủ tịch và giám đốc điều hành của bốn công ty công nghệ thành công: B2Secire Inc., một công ty phần mềm quản trị; Digital Graphiti Inc., một công ty phát triển phần mềm; Sidebar Systems, một công ty viết phần mềm cho các đại lý truyền thông; và Online Profits 4U, một doanh nghiệp điện tử có mục tiêu giúp đỡ các chủ doanh nghiệp trực tuyến khởi nghiệp và phát triển. Công ty của tôi rất nhỏ, chỉ gồm có tôi và hai nhân viên nữa, và sản phẩm của chúng tôi không thể bán trực tuyến. Vậy tôi có thực sự cần một trang web không? Đây đúng là một câu hỏi hay. Trên thực tế, đây là một trong những câu hỏi quan trọng nhất và thường được hỏi nhất trong thời đại kinh doanh số ngày nay. Tuy nhiên, trước khi trả lời, hãy ôn lại lần đầu tiên khi tôi được hỏi câu này. Đó là vào khoảng năm 1998, những năm đầu đời của Internet. Lúc đó tôi đang thuyết trình về ảnh hưởng của internet đối với doanh nghiệp nhỏ tại một bữa tiệc trưa ở Montgomery, Alabama. Vào năm 1998, mọi người đều dự đoán về một tương lai xán lạn của thương mại điện tử, ngay của những người bi quan nhất cũng phải đồng ý rằng tất cả mọi dấu hiệu đều cho thấy một phần lớn doanh thu kinh doanh trong tương lai sẽ đến từ các giao dịch trực tuyến hoặc là từ các giao dịch không trực tuyến nhưng là kết quả của các nỗ lực marketing trực tuyến. Vì vậy, doanh nghiệp của bạn có nên có trang web không, khi mà bạn là một doanh nghiệp nhỏ và bán những sản phẩm hoặc dịch vụ mà bạn cho rằng không thể bán qua mạng được? Câu trả lời của tôi năm 1998 và câu trả lời của tôi ngày nay vẫn giống nhau. Có, nếu bạn có một công ty, thì bạn nên có một trang web. Chấm hết. Không thắc mắc gì. Không nghi ngờ gì cả. Ngoài ra, đừng quá nhanh chóng cho rằng sản phẩm của bạn thuộc loại không thể bán qua mạng được. Ngày nay, chỉ có rất ít hàng hóa và dịch vụ là không thể bán qua mạng. Hiện có hơn 20 triệu người mua hàng trực tuyến, họ mua tất cả mọi thứ từ sách tới máy vi tính, tới xe hơi, tới bất động sản, tới máy bay phản lực và tới cả khí tự nhiên. Nếu bạn không thể tưởng tượng ra thì ai đó sẽ chỉ cho bạn cách bán hàng hóa qua mạng như thế nào. Các hãng nghiên cứu marketing qua mạng dự đoán rằng doanh thu trực tuyến sẽ nằm trong khoảng $180 tỉ đến $200 tỉ trong năm 2003. Họ còn dự đoán rằng số người tiêu dùng mua hàng trực tuyến sẽ gia tăng với tốc độ 30-50% trong vài năm tới. Chỉ riêng những con số này cũng đủ để thuyết phục bạn rằng doanh nghiệp của bạn nên có một trang web. Hãy để tôi làm rõ một điểm: Tôi không nói rằng bạn phải dồn mọi nỗ lực để bán hàng qua mạng, ngay cả khi sản phẩm của bạn được coi là dễ bán trực tuyến thì bạn cũng phải nhớ điều này. Vấn đề ở chỗ ít nhất bạn cũng phải có trang web để khách hàng, nhân viên và các đối tác kinh doanh tiềm năng, thậm chí có thể cả nhà đầu tư tương lai của bạn nữa, có thể nhanh chóng và dễ dàng tìm hiểu về doanh nghiệp của bạn cùng hàng hóa và dịch vụ mà bạn cung cấp. Điều đó có nghĩa là việc có một trang web chưa phải đã là đủ. Bạn phải có một trang web trông thật chuyên nghiệp nếu bạn muốn được nhìn nhận thật nghiêm túc. Vì ngày nay nhiều khách hàng tìm thông tin qua mạng trước khi quyết định mua hàng tại một cửa hàng thực nào đó, nên trang web của bạn có thể là cơ hội đầu tiên để bạn gây ấn tượng tốt với một người mua tiềm năng. Nếu trang web của bạn trông như được thiết kế bởi những “con khỉ mù màu” thì bạn sẽ mất cơ hội tạo ấn tượng đầu tiên tốt đẹp với khách hàng. Một trong những ưu điểm tuyệt vời của Internet là nó tạo ra một sân chơi bình đẳng để bạn có thể cạnh tranh với những công ty lớn. Như đã nói ở trên, bạn có cơ hội để tạo ấn tượng đầu tiên thật tốt. Với một trang web thiết kế đẹp, doanh nghiệp nhỏ của bạn có thể tạo ra hình ảnh và mức độ chuyên nghiệp như của một công ty lớn. Điều ngược lại cũng có thể đúng. Tôi đã từng thấy trang web của nhiều công ty lớn được thiết kế tồi và khó tìm đường đi đến nỗi trông họ hoàn toàn thiếu chuyên nghiệp và thiếu độ tin cậy. Đó là tin tốt cho bạn và tin xấu cho họ. Bạn cũng nói rằng bạn chỉ là một doanh nghiệp nhỏ, nhưng khi nói đến việc kiếm tiền qua mạng thì quy mô không quan trọng. Tôi không quan tâm đến việc công ty của bạn chỉ có một nhân viên hay một tập đoàn 10.000 nhân viên; vấn đề là nếu bạn không có trang web của riêng mình thì bạn sẽ mất việc về tay những công ty có trang web. Sau đây là trường hợp ngoại lệ với quy tắc của tôi: Không có trang web nào sẽ tốt hơn so với việc có một trang web khiến doanh nghiệp của bạn trông dở ẹc. Trang web của bạn là tiếng nói của công ty. Nó sẽ nói: “Này, hãy nhìn đây, chúng tôi quan tâm đến công việc một cách nghiêm túc cho nên chúng tôi đã tạo ra trang web tuyệt vời này cho các khách hàng của mình!” hoặc gào lên: “Này, hãy nhìn đây, tôi để cho thằng cháu trai 10 tuổi của tôi thiết kế trang web này. Chúc mừng bạn nếu có thể tìm thấy bất cứ gì ở đây!” Trang web là một phần quan trọng của doanh nghiệp. Hãy đảm bảo rằng bạn quan tâm đến nó đúng mức! Theo Bwportal Leave a Response » Các kỹ năng Marketing trực tuyến Thứ Tư, Tháng 6 18 2008  Quảng cáo sản phẩm và dịch vụ trên mạng được xem là một phương thức marketing hướng đối tượng thích hợp. Nó có khuynh hướng kích thích sự quan tâm của người mua hàng tới sản phẩm trên trang web của bạn. Chính vì thế, quảng cáo trên mạng có thể có hiệu quả hơn nhiều so với quảng cáo đại trà trên ti vi, báo chí hoặc các phương tiện thư từ khác. 1. Giới thiệu khách hàng đến với trang web của bạn · Sử dụng các công cụ tìm kiếm đa chức năng. · Cung cấp cho khách hàng các địa chỉ website mới của bạn, cho phép họ truy cập vào trang web của bạn một cách thường xuyên. · Công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng về website của mình · Thiết lập các đường dẫn tới các website tuơng thích với website của bạn, chẳng hạn những website về cùng một thị trường định hướng giống như bạn và không cạnh tranh với website của bạn . · Viết các bài báo, bài bình luận, những trang web mà ngành của bạn thường hay quan tâm . · In địa chỉ web, E-mail trên các đồ văn phòng phẩm và các cardvisit của công ty. · Quảng cáo trang web trên các phương tiện thông tin ở địa phương. · In địa chỉ trang web trong cuốn những trang vàng địa chỉ Internet. · Thông báo cho những người đại diện bán hàng về website mới. · Ðưa ra các mức giảm giá cho những người mua hàng trực tuyến. · Gửi các bưu ảnh hài hước về trang web của mình. Như những nguyên tắc trên đã chỉ ra, bạn nên quảng cáo website của mình thông qua các hình thức quảng cáo truyền thống và thông qua hình thức quảng cáo sử dụng các kết nối tương hỗ. Nếu khách hàng quan tâm đến nhưng thông tin của bạn, họ sẽ đánh dấu địa chỉ và truy cập vào lần sau. 2. Những nhân tố giúp cho việc bán các sản phẩm, dịch vụ có hiệu quả trên mạng. · Sử dụng những hình thức đặc biệt để mô tả sản phẩm và dịch vụ. Nếu có thể mô tả sản phẩm và dịch vụ của mình bằng các hình thức đặc biệt, thì nên áp dụng hình thức đó trên mạng bởi vì tìm kiếm trên mạng dễ dàng hơn nhiều nhờ sự hỗ trợ của các phương tiện tìm kiếm đặc biệt. Bạn cũng có thể quảng cáo cho sản phẩm và dịch vụ bằng sự kết hợp của nhiều hình thức khác nhau mà khách hàng có thể sẽ áp dụng khi tìm kiếm các loại sản phẩm của mình với điều kiện là những hình thức đó sẽ xuất hiện thường trực trên các trang web mà bạn yêu cầu những phương tiện tìm kiếm đó liệt kê lên. · Sử dụng chính sách định giá cạnh tranh. Nơi nào trên Internet hỗ trợ khách hàng so sánh giá của những mặt hàng cùng loại thì những mặt hàng có giá thấp nhất sẽ bán chạy nhất. Ðồng thời đối với hầu hết các sản phẩm, những mức giá trực tuyến có thể sẽ phải thấp hơn giá trên các cửa hàng nhằm tạo nên một sự ưu đãi để tạo sự tin tưởng của khách hàng đối với các nhà bán lẻ trên mạng, một phần do thiếu đi sự gặp gỡ giữa các cá nhân trong các giao dịch, và để bù lại việc khách hàng không thể mang hàng về cho mình. · Yếu tố hữu hình: Khách hàng vẫn muốn cầm nắm, xem xét, nếm, thử hoặc nói chuyện với một ai đó trước khi mua hàng. Người bán nên cung cấp các sản phẩm của mình cho các cửa hàng bán lẻ hoặc dự trữ các sản phẩm đó ở những nơi mà khách hàng có thể đến để cận mục sở thị trước khi quay lại mạng để tiến hành mua bán. · Sự đồng nhất của các mặt hàng. Các mặt hàng sản xuất hàng loạt thường dễ bán hơn so với các mặt hàng thủ công hoặc sản xuất theo phương pháp truyền thống. Những mặt hàng sản xuất hàng loạt thường có sự nhất quán hơn về các đặc điểm của mình, có chi phí sản xuất dễ tính hơn, và được nhiều người biết hơn. · Những yêu cầu gián tiếp. Khách hàng sẽ có khuynh hướng mua các mặt hàng chưa có nhu cầu hiện tại trên mạng hơn là các mặt hàng để sử dụng ngay. Những nhà sản xuất có khả năng lập các kế hoạch sản xuất định trước, các kế hoạch xếp hàng và giao hàng sẽ có cơ hội lớn hơn trong việc sử dụng Internet để xúc tiến bán hàng. · Sự hiểu biết của khách hàng về sản phẩm. Người ta cho rằng thương mại trực tuyến giữa các doanh nghiệp (B2B) sẽ tăng nhanh hơn thương mại trực tuyến giữa doanh nghiệp và khách hàng (B2C) (Trừ trường hợp đối với các công ty lớn như Amadon, Auto Bytel , CD Now And Dell). Lý do là không giống như phần lớn các khách hàng, các doanh nghiệp không lạ gì những đặc điểm của mặt hàng mà họ cần và vì thế cảm thấy thoả mái hơn trong việc đặt hàng trên mạng. · Các mặt hàng được mua bán thường xuyên. Những mặt hàng được tiêu chuẩn hoá được mua bán thường xuyên (đồ gia dụng, quần áo trẻ em, đồ văn phòng phẩmv.v…) thường quen thuộc với khách hàng và vì thế dễ dàng đặt hàng trên mạng hơn. Những giao dịch này sẽ tiết kiệm thời gian và tránh cho họ thoát khỏi sự nhàm chán khi mua bán. 3. Những dịch vụ có thể triển khai được trên mạng. Những dịch vụ sau đây là những dịch vụ có thể triển khai thành công trên mạng. · Kế toán · Quảng cáo · Giáo dục đào tạo mang tính thương mại · Các phần mềm và dịch vụ máy tính · Môi giới hải quan · Các dịch vụ tài chính, y tế, chăm sóc sức khoẻ từ xa · Bảo hiểm · Nghiên cứu thị trường. · Tìm kiếm lao động · Thông tin và truyền thông · Các dịch vụ lữ hành · Dịch thuật · Thiết kế và bảo trì trang web · Tư vấn quản lý · Giáo dục · Dịch vụ in ấn và đồ hoạ · Các dịch vụ đấu giá · Các dịch vụ viết thuê Chỉ cần đảo qua một số trang web tìm kiếm chủ yếu như Yahoo (www.yahoo.com) hoặc là Google (www.google.com) có thể thống kê ra một loạt các dịch vụ thuộc mọi thể loại khác nhau đang được cung cấp trên mạng. Sự thành công của một doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên mạng cũng phụ thuộc vào các yếu tố thông thường; chẳng hạn mức độ sản phẩm đó đáp ứng nhu cầu thị trường như thế nào. Tuy nhiên, các nhà cung cấp dịch vụ lại có duyên với Internet bởi vì các sản phẩm của họ có khuynh hướng được xử lý bằng kỹ thuật số. Phần lớn các nhà cung cấp dịch vụ hoạt động thu thập, lưu trữ, điều khiển và truyền bá thông tin . Các thông tin được số hoá có thể dễ dàng thu thập và truyền tải ở mức chi phí thấp hơn thông qua Internet so với các phương tiện khác.Các dịch vụ viễn thông cũng thu hút được rất nhiều khách hàng thông qua Internet. Tiếng nói thông qua các nhà cung cấp cổng Internet sử dụng công nghệ IP để truyền tiếng nói điện thoại thông qua các kênh dữ liệu là một lĩnh vực đang tăng trưởng mạnh nhất khắp nơi trên thế giới. 4. Những sản phẩm mà khách hàng có thể tìm mua trên mạng . Nghiên cứu của Forester Research 1998 đã chia thị trường bán lẻ trực tuyến thành 3 loại mua bán: Hàng hoá tiện dụng, hàng hoá và dịch vụ nghiên cứu bổ sung và hàng hoá thông thường. Những hàng hoá tiện dụng được mua bán như là sách, âm nhạc, quần áo và hoa . Người ta dự tính là sự đa dạng của hàng hoá tăng lên, sự xuất hiện của dịch vụ gửi hàng và sự xúc tiến bán lẻ rộng rãi sẽ làm tăng sự thông dụng của việc buôn bán hàng hoá này trên mạng. Những hàng hoá bổ sung được mua bán phổ biến hơn, chẳng hạn như hàng tạp hoá, hàng cá nhân, những mặt hàng này tuy có giá thành trung bình nhưng lại là thiết yếu do trở ngại từ việc thiếu một hệ thống phân phối khả dĩ và sự bắt nhịp chậm chạp về Thương mại điện tử của khách hàng. Cho nên người ta đánh giá thị trường này chủ yếu phát triển trong một số lĩnh vực nhất định như hàng đặc dụng, hàng dược phẩm. Chi phí của hàng hoá và dịch vụ liên quan đến nghiên cứu cao hơn nhiều so với hai chủng loại hàng hoá trên và là những mua bán được sắp đặt trước theo khuynh hướng thông tin; Loại này bao gồm vé máy bay, máy tính , ô tô. Việc cung cấp các nguồn thông tin trực tuyến và doanh số của loại này sẽ có xu hướng tăng lên đáng kể. Những sản phẩm mà khách hàng có thể mua qua mạng . · Các sản phẩm máy tính. · Sách · Ðồ điện tử · Các tour du lịch · Các tạp chí thường kỳ v.v… Người ra dự tính rằng các lĩnh vực tăng trưởng chính trong Thương mại điện tử sẽ là truyền thông toàn cầu và các ngành công nghiệp giải trí, du lịch (bao gồm khách sạn và hàng không), các dịch vụ chuyên nghiệp và tài chính, bảo hiểm và bán lẻ. Nghiên cứu này đã chỉ ra rằng những nhân tố thành công của các sản phẩm nhất định bao gồm các yếu tố: thương hiệu mạnh, sản phẩm đặc trưng và chào giá cạnh tranh. Cần lưu ý rằng chưa có một nghiên cứu hoàn chỉnh nào về khía cạnh tâm lý của khách hàng trên mạng để xác định tại sao một số mảng khách hàng hoặc doanh nghiệp lại mua sản phẩm và dịch vụ này trong khi số khác thì không. Vào tháng 7/1998 trường Ðại học tổng hợp Wayne ở thành phố Chicagô thuộc tiểu bang Michigant đã tiến hành khảo sát 113 công ty, khoảng 87% số đó cho biết rằng họ không mua hàng hoá và dịch vụ trong 6 tháng trước đó. Có vẻ như rằng sự e ngại của khách hàng, ở một mức độ nhỏ hơn là của doanh nghiệp để tìm kiếm và mua hàng hoá và dịch vụ qua mạng đã vượt ra ngoài những lo ngại về vấn đề an ninh, tài chính của các giao dịch. Một nghiên cứu giới hạn đã được tiến hành để tìm ra những nhân tố này. Một câu hỏi khá thú vị là mức độ của việc thay đổi thói quen mua hàng của khách hàng và doanh nghiệp. Có lẽ các doanh nghiệp sẽ dễ dàng thay đổi hơn để cắt giảm chi phí, cải thiện thời gian giao hàng, liên lạc với nhà cung cấp, và đơn giản chỉ là tăng hiêu quả của việc đặt hàng, gửi hàng và giao hàng . Hơn nữa có lẽ hình thức mua bán giữa các doanh nghiệp B2B tăng lên bởi vì nó có đặc điểm khác với những thói quen mua hàng cá nhân truyền thống. Ðiều quan trọng là phải đặt ra câu hỏi có phải do đặc trưng của người mua hàng muốn trực tiếp đi dạo qua các gian hàng, các cửa hiệu, các trung tâm thương mại, các cửa hàng bách hoá hay là họ muốn mua hàng qua mạng để tiết kiệm thời gian cho những hoạt động khác như thể thao, giải trí,v.v… Theo Marketing Profs 10 sự thật thú vị về Google Thứ Sáu, 14/06/2013, 07:00 AM (GMT+7) Bạn có biết, công cụ CAPTCHA của Google được thiết lập để đào tạo siêu máy tính? MỜI CÁC BẠN ĐÓN ĐỌC NHỮNG BÀI VIẾT CHỌN LỌC VỀ VI TÍNH VÀ INTERNET, THỦ THUẬT VÀO LÚC 7H30, 13H, VÀ 16H CÁC NGÀY TRONG TUẦN, TẠI 24H.COM.VN Là một công ty công nghệ lớn và có tầm ảnh hưởng bậc nhất trên thế giới, Google đã, đang và sẽ còn rất nhiều đóng góp cho ngành công nghệ thế giới cũng như giúp ích cho con người với cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, bạn có biết Google là một trong số ít những website muốn người dùng dành ít thời gian hơn cho họ? Số lượng Captcha mỗi ngày của Google lên tới 200.000 từ? Dưới đây là 10 sự thật thú vị về Google. 1. Mặc dù là trang thông tin tìm kiếm của tập đoàn dịch vụ Internet lớn nhất thế giới nhưng hiện nay website Google.com vẫn tồn tại 23 lỗi code chưa được xử lý. 2. Google đã chụp ảnh hơn 8 triệu km đường để xây dựng nên bản đồ Google Street View. 3. Đáng ra, sản phẩm hiện nay sẽ có tên "Googol", nhưng vì một lỗi phát âm đã khiến Google xuất hiện ngày hôm nay. 4. Dữ liệu tìm kiếm của Google có dung lượng lên tới 100 triệu GB. Sẽ phải tốn tới 100.000 chiếc ổ cứng với dung lượng 1TB để có thể lưu trữ được lượng dữ liệu này. 5. Sản phẩm YouTube của Google mỗi tháng đạt tổng 450.000 năm thời lượng xem, con số này gấp đôi thời gian con người hiện đại từng tồn tại. 6. Công cụ reCAPTCHA của Google thực chất được thành lập để "đào đạo" những siêu máy tính cách đọc và viết. Ngoài khả năng làm công cụ quảng cáo cũng như xác định xem đang có người dùng "thật" hay không, CAPTCHA còn lập kỉ lục với 200.000 cụm từ mỗi ngày được người dùng nhập. 7. Trang chủ của Google rất đơn giản bởi vì Sergey Brin và Larry Page (hai nhà đồng sáng lập Google) không biết lập trình HTML. Trong một khoảng thời gian dài người dùng chỉ có thể ấn phím Enter để tìm kiếm mà không hề có sự xuất hiện của một nút bấm trên website này. 8. Google là công ty duy nhất trên thế giới muốn giảm thời gian tương tác giữa người dùng và website này. 9. Kể từ năm 2010, trung bình cứ mỗi tuần Google lại mua một công ty khác. 10. Vào năm 2011, 96% lợi nhuận của Google (khoảng 36,4 tỷ USD) đều có được do quảng cáo. Theo XIII (kenh14) Các dấu mốc quan trọng trong hành trình “tiến hóa” của iOS Thứ Sáu, 14/06/2013, 06:00 AM (GMT+7) Chúng ta hãy cùng nhìn lại chặng đường phát triển của nền tảng iOS từ phiên bản sơ khai 1.0 tới iOS 7 vừa ra mắt. MỜI CÁC BẠN ĐÓN ĐỌC NHỮNG BÀI VIẾT CHỌN LỌC VỀ VI TÍNH VÀ INTERNET, THỦ THUẬT VÀO LÚC 7H30, 13H, VÀ 16H CÁC NGÀY TRONG TUẦN, TẠI 24H.COM.VN Ngay từ khi ra mắt lần đầu tiên vào năm 2007 cho đến nay, iPhone của Apple vẫn chứng tỏ được sức hút cực kỳ mãnh liệt đối với các tín đồ công nghệ trên toàn thế giới. Làm nên thành công đó không đơn thuần chỉ dựa vào thiết kế sang trọng bên ngoài mà phần lớn phụ thuộc vào một hệ sinh thái iOS giàu tính năng và kho ứng dụng chất lượng. Đã 6 năm trôi qua, nền tảng iOS đang được sử dụng trên 600 triệu thiết bị khác nhau và con số này hứa hẹn sẽ tiếp tục tăng lên khi Apple vừa giới thiệu phiên bản hệ điều hành mới nhất, iOS 7. Đây có thể coi là sản phẩm mang tính bước ngoặt, đột phá nhất từ trước đến nay nhưng không thể phủ nhận rằng chặng đường để đi từ phiên bản 1.0 lên tới 7.0 của iOS không hề có sự bằng phẳng như những gì chúng ta thấy trên giao diện của iOS 7. Cách đây 6 năm, Steve Jobs và các đồng sự của ông đã phải suy nghĩ, sáng tạo rất nhiều khi giới thiệu chiếc iPhone thế hệ đầu tiên chạy hệ điều hành iOS 1.0. Ông đã mô tả đó là sự kết hợp của 3 sản phẩm mang tính cách mạng: “một chiếc iPod màn hình lớn, một sản phẩm điện thoại chưa từng có từ trước đến nay và một thiết bị hỗ trợ mạng internet mang tính đột phá”. iOS 1.0: Cảm ứng, giải trí và internet Chính iOS 1.0 đã giúp iPhone trở nên khác biệt so với phần còn lại khi đó là Symbian hay Windows Mobile. Giao diện người dùng của iOS được thiết kế để phục vụ tốt nhất cho các tương tác chạm cảm ứng, khiến nó trở nên trực quan và tiện lợi hơn hẳn các đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó, iOS 1.0 cũng hỗ trợ khai thác internet mạnh mẽ hơn và đưa cả Google Maps trở thành một phần quan trọng của nền tảng này. Tất nhiên, so với những sản phẩm mới gần đây, điện thoại iPhone thế hệ đầu có nhiều khiếm khuyết như thiếu 3G, đồng bộ iTunes không dây… nhưng kết quả là chiếc smartphone đầu tiên của Apple vẫn nhận được giải thưởng “Editors’ Choice” với số điểm đánh giá 4,5/5. iOS 2.0: Ứng dụng và nhiều ứng dụng hơn Hệ điều hành iPhone 2.0 ra mắt hơn 1 năm sau đó và tháng 7/2008 trên chiếc điện thoại iPhone 3G. Đây cũng là phiên bản iOS đầu tiên cho phép người dùng truy cập kho ứng dụng App Store thể hiện cái nhìn đúng đắn đầy táo bạo của Apple và tạo nên lợi thế cực lớn so với các đối thủ như Windows Mobile hay Symbian. Tính đến WWDC 2013, App Store đã đạt mốc 50 tỷ lượt tải với gần 1 triệu ứng dụng khác nhau, mang về cho các nhà phát triển 10 tỷ USD. iOS 3.0: Nhiều tùy chỉnh nâng cấp nhỏ iOS 3.0 được coi là một bản nâng cấp từ iOS 2.0 khi bổ sung thêm những tính năng mới giúp tăng trải nghiệm người dùng như hỗ trợ Cut/Copy/Paste, thông báo Push Notification cho ứng dụng của bên thứ ba, tính năng tìm kiếm SpotLight Search, cho phép mua bán ảo ngay trong ứng dụng hay điều khiển bằng giọng nói Voice Control. Ngoài ra, người dùng còn có thể mua phim, các chương trình truyền hình hay sách trực tiếp từ iTunes bằng chiếc iPhone hay iPod Touch của mình. iOS 3.2: iPad “xuất trận” iOS 3.2 là một bản cập nhật dành cho iOS 3.0 nhằm phục vụ cho một thế hệ sản phẩm mới xuất hiện. Đó chính là máy tính bảng iPad. Đây là thiết bị đánh dấu sự phân mảnh lần đầu tiên trên nền tảng iOS nhưng ngay sau đó iPad đã trở thành một sản phẩm cực kỳ thành công của Apple, gần như thống trị phân khúc tablet trong một thời gian dài. iOS 3.2 đem đến những đổi mới về thiết kế giao diện, ứng dụng để phù hợp với màn hình lớn và độ phân giải cao hơn của iPad. iOS 4.0: Đa nhiệm, FaceTime và thư mục Cùng với màn ra mắt ấn tượng của iPhone 4 (chiếc iPhone đầu tiên sử dụng màn hình Retina), iOS 4.0 đã khoe "hơn 100 tính năng mới". Hệ điều hành của Apple lúc đó được nhận xét là đẹp, hiện đại, mới mẻ và quyến rũ hơn cả. Mặc dù cách thực hiện đa nhiệm của Apple không giống như Google đã làm với Android nhưng phần nào vẫn cho thấy bước đi đúng đắn của hãng khi quyết định loại bỏ trình đơn nhiệm của iOS 3.2 trở về trước. Một trong những tính năng đáng chú ý của iOS 4.0 là FaceTime cho phép người dùng thực hiện cuộc gọi video hay thư mục để sắp xếp các ứng dụng một cách ngăn nắp cũng như khoa học hơn. iOS 4.0.1 tới 4.3: Khắc phục scandal “bắt sóng yếu”, bổ sung Game Center và AirPlay Chỉ 1 tháng sau khi phát hành iOS 4.0, Apple phải tiếp tục tung ra bản cập nhật iOS 4.0.1 để giải quyết vấn đề bắt sóng yếu do ăng-ten gây ra. Trong vòng vài tháng tiếp theo, “táo khuyết” đã cung cấp thêm 4 bản cập nhật mới: iOS 4.1 giới thiệu Game Center , AirPlay xuất hiện ở bản 4.2.1, hỗ trợ Verizon trong bản 4.2.5. Và cuối cùng phiên bản iOS 4.3 cho phép chia sẻ 3G qua hotspots, AirPlay hỗ trợ ứng dụng của bên thứ ba và mang đến iTunes Home Sharing. iOS 5.0: Siri, đồng bộ không dây và iCloud Thời điểm năm 2011, Android đã bắt đầu cất cánh và đem đến nhiều mối lo ngại thường trực cho Apple. Do đó, iOS 5.0 và iPhone 4S được coi là trọng tâm chiến lược nhằm đè bẹp Android của công ty có trụ sở tại Cupertino . Dấu ấn đặc biệt và gây nhiều chú ý nhất là tính năng điều khiển bằng giọng nói có tên Siri. Ngoài ra, thanh thông báo Notification cũng lần đầu tiên xuất hiện trên iOS 5. Bên cạnh đó, phiên bản hệ điều hành mới cũng được tích hợp ứng dụng iMessage, đồng bộ iTunes qua Wi-Fi, cho phép cập nhật bằng giao thức OTA và trình làng cùng dịch vụ lưu trữ đám mây iCloud. iOS 6.0: Apple Maps, Passbook và Facebook Một năm sau tại WWDC 2012, Apple đã công bố iOS 6 với hi vọng chiếm lại cảm tình của người dùng sau sự nổi bật iOS 4 nhưng bất ngờ mờ nhạt của iOS 5. iOS 6.0 cũng mang lại nhiều cải tiến tích cực cho Siri và Notification Center, tích hợp mạng xã hội Facebook, và chập chững với những bước đi đầu tiên với dịch vụ thanh toán di động qua ứng dụng Passbook. Tuy nhiên, những thay đổi nhỏ không thể cứu vãn một quyết định đã gây tranh cãi rất nhiều sau đó, Apple đã loại bỏ Google Maps, YouTube, những ứng dụng phổ biến xuất hiện ngay từ bản iOS đầu tiên. Thay vào đó, hãng giới thiệu ứng dụng bản đồ “cây nhà lá vườn” Apple Maps dính vô số lỗi lùm sùm khi mới ra mắt đến nỗi CEO Tim Cook đã phải “muối mặt” đăng lời xin lỗi các khách hàng của mình. iOS 7.0: Giao diện phẳng, thêm tính năng mới Dưới bàn tay nhào nặn của Jony Ive, iOS 7 là sự thay đổi lớn nhất mà Apple từng thực hiện trên iOS. Hệ điều hành mới của Apple chuyển từ phong cách đồ họa mô phỏng thực tế cầu kỳ sang phong cách phẳng, đơn giản và trẻ trung hơn. Đi kèm với đó là các tính năng mới hứa hẹn đem đến trải nghiệm tốt và tiện dụng hơn cho người dùng. Đó là Control Center (hệ thống tùy chỉnh nhanh khá giống của Android), hỗ trợ đa nhiệm trực quan hơn, nâng cấp Safari, chia sẻ nội dung qua AirDrop, nâng cấp ứng dụng camera bằng việc tích hợp thêm các bộ lọc, ứng dụng Photos mới cho phép sắp xếp ảnh theo địa điểm/thời gian, tự động cập nhật ứng dụng… Bên cạnh đó, Apple cũng chính thức giới thiệu dịch vụ khám phá và chia sẻ âm nhạc mới iTunes Radio. iOS 7 sẽ hỗ trợ tốt cho iPhone 4, 4S, 5, iPad từ đời 2 trở lên cùng với iPod Touch Gen 5. Vẫn còn quá sớm để có thể đánh giá iOS 7 là một sản phẩm thành công hay thất bại bởi người dùng phổ thông sẽ phải chờ tới mùa thu để được nâng cấp chính thức. Nhưng chúng ta vẫn hoan nghênh sự thay đổi của Apple vì đây có thể trở thành khởi đầu cho một cuộc cách mạng sâu sắc trên nền tảng iOS nhằm cạnh tranh với các thế lực đến từ Android như Samsung, HTC hay sự trỗi dậy của Nokia với Windows Phone 8. Theo H.A (Genk)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxseo_kienthuc_2595.docx