Ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

For the people of Vietnam, since the early years of the twentieth century, the theory of Marxism - Leninism has come to us as the light of dawn. The first Vietnamese approached to Marxism – Leninism was Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh. Since then the people of Vietnam began to walk out of the long night of slavery, join in the cascade of revolutionary era. Come to Marxism - Leninism, Ho Chi Minh has found the way of national liberation: Going up to socialism. Being a faithful disciple of Lenin, Ho Chi Minh has applied theories of Lenin on the specific conditions of Vietnam innovatively and successfully. The socialist revolutionary career and construction have proved the correctness of the creative thinking of President Ho Chi Minh in applying the doctrine of Marxism - Leninism to the revolutionary Vietnam.

pdf5 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 549 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 73 - 77 73 Ý NGHĨA DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA THỜI ĐẠI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM Vũ Thị Thuỷ*, Phạm Thị Huyền Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Đối với cả dân tộc Việt Nam, ngay từ những năm đầu của thế kỷ XX, học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đến với nhân dân ta như tia sáng của bình minh. Người Việt Nam đầu tiên đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Từ đó dân tộc Việt Nam bắt đầu bước ra khỏi đêm dài nô lệ, hòa vào dòng thác cách mạng của thời đại. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy con đường giải phóng dân tộc: tiến lên chủ nghĩa xã hội. Là học trò trung thành của Lênin, Người đã vận dụng một cách sáng tạo và thành công học thuyết của Lênin vào những điều kiện cụ thể của Việt Nam. Sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiến hành đã và đang chứng minh sự đúng đắn trong tư duy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vận dụng học thuyết chủ nghĩa Mác - Lênin vào cách mạng Việt Nam. Từ khóa: Tư tưởng Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ, chủ nghĩa xã hội, dân tộc, thời đại. ĐẶT VẤN ĐỀ* Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một nội dung lớn trong di sản của Người và là bộ phận quan trọng của cách mạng Việt nam. Xuất phát từ lý luận về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận đó vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đưa nước ta “từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [8, 13]. Tư tưởng của Người tiếp tục được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học, trong khi nhấn mạnh tính khách quan của sự vận lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, đã đề cập đến tính tất yếu của thời kỳ quá độ. Trong tác * ĐT: 0982.633.373; Email: vuthuy.dhsptn@gmail.com phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta”, Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ nghĩa là một thời kỳ, thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị và nhà nước của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản” [3, 260]. Đây chính là quan điểm của Mác nói đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội xuất phát từ điều kiện của các nước tư bản phát triển ở Tâu Âu, cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đã được chuẩn bị tương đối đầy đủ. Trong quá trình nghiên cứu và hoạt động chính trị của mình, Mác cũng đã tìm hiểu về lịch sử phát triển của nước Nga và ông cũng đã tỏ ra tán thành quan điểm của một số nhà dân chủ cách mạng Nga và Mác cho rằng: “Nước Nga có thể không cần phải trải qua những đau khổ của chế độ đó - tức là chế độ tư bản chủ nghĩa, mà vẫn chiếm đoạt mọi thành quả của chế độ ấy”. [4, 636]. Lịch sử trôi qua với thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã làm cho lý luận về thời kỳ quá độ có một sự phát triển mới. Cái mới là ở chỗ, cách mạng xã hội chủ nghĩa nổ ra trước tiên ở Nga, một nước tư bản phát triển trung bình. Nước Nga bước và thời kỳ quá độ từ điểm xuất phát thấp hơn các nước tư bản Tây Âu về kinh tế - xã hội, giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ còn thấp trong dân Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 73 - 77 74 cư và nước Nga cách mạng còn đang vận động trong một biển những người tiểu nông. Từ trong thất bại của “chính sách cộng sản thời chiến”, muốn quá độ thẳng, quá độ nhanh chóng, trực tiếp lên chủ nghĩa xã hội, Lênin đã nhận ra rằng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Nga là một thời kỳ lịch sử tương đối dài, Nó cần thiết phải thực hiện những bước quá độ nhỏ, những nhịp cầu nhỏ, những hình thức kinh tế trung gian để dần dần lôi cuốn nhân dân Nga, mà đa số là tiểu nông, đi lên chủ nghĩa xã hội, tức là phải thực hiện bước quá độ gián tiếp. Lênin đã từng viết trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô: “nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói rằng chúng ta đang ở vào thời kỳ quá độ trong thời kỳ quá độ”, “phải tiến cực kỳ chậm, vô cùng chậm hơn mức mà trước kia chúng ta đã mơ tưởng, phải tiến làm sao cho tất cả quần chúng nhân dân đều thật sự tiến lên cùng chúng ta” [2, 260]. Bên cạnh đó, Lênin cũng đã nêu lên tư tưởng về sự phát triển bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa đi lên chủ nghĩa xã hội (xuất phát từ đặc thù của nước Nga, đối với những nước mà đa số dân cư là nông dân với nền sản xuất nhỏ tiền tư bản). Theo Lênin: “với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xô viết và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa” [1, 295]. Tóm lại , theo quan điểm của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước lạc hậu không thể là con đường quá độ trực tiếp mà là quá độ gián tiếp qua nhiều bước trung gian, đồng thời cũng vạch ra khả năng các nước đó có thể đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Ở trường hợp các nước bỏ qua tư bản chủ nghĩa quá độ thẳng lên chủ nghĩa xã hội, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin vạch rõ: Nó chỉ có thể thực hiện được với điều kiện có sự giúp đỡ của một nước công nghiệp tiên tiến đã làm cho cách mạng xã hội chủ nghĩa thành công và phải có sự lãnh đạo của một chính đảng vô sản kiên trì đưa đất nước đi theo con đường của chủ nghĩa xã hội. QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI THEO QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH - Lịch sử dân tộc Việt Nam diễn ra theo tiến trình không hoàn toàn giống như các nước phương Tây. Vận dụng lý luận về cách mạng vô sản, về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa của các nhà kinh điển, Hồ Chí Minh đã xuất phát từ tình hình thực tiễn của xã hội Việt Nam, một nước thuộc địa nửa phong kiến, nền nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu để khẳng định con đường cách mạng Việt Nam là: tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội. Ở đây, Hồ Chí đã nhấn mạnh hai điểm: Thứ nhất, chúng ta lựa chọn con đường phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa; thứ hai, vì nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu (tiền tư bản) cho nên, phải trải qua một thời kỳ quá độ. Từ quan niệm đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi đến phân tích đặc điểm của thời kỳ quá độ ở nước ta. Quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, từ đặc điểm này đã cho thấy, mâu thuẫn cơ bản trong thời kỳ quá độ ở nước ta là mâu thuẫn: giữa một bên là yêu cầu phải tiến lên xây dựng một chế độ xã hội mới có “công nghiệp, nông nghiệp hiện đại, văn hóa khoa học kỹ thuật tiên tiến” [8, 13] với một bên là tình trạng lạc hậu kém phát triển và lại phải đối phó với những lực cản, phá hoại mục tiêu của chúng ta. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, để tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa trong điều kiện một nước tiền tư bản với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, manh mún như nước ta đòi hỏi cả một quá trình biến đổi khó khăn và sâu sắc nhất. Người vạch rõ: chúng ta đã đánh thắng thực dân, phong kiến. Hiện nay, chúng ta đang làm cách mạng chủ nghĩa xã hội, một cuộc cách mạng tuy trường kỳ gian khổ, song nhất định thắng Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 73 - 77 75 lợi, chí phải đổ mồ hôi mà không đổ máu, một cuộc cách mạng nhằm đánh thắng lạc hậu và bần cùng, để xây dựng hạnh phúc muôn đời cho nhân dân ta, con cháu ta. - Khi nói về thời kỳ quá độ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cập tới hai nhiệm vụ lịch sử của thời kỳ quá độ. Thứ nhất, theo Hồ Chí Minh nhiệm vụ quan trọng nhất là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội để biến nước ta thành một nước công nghiệp, nông nghiệp hiện đại. Thứ hai, phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới. Nói cách khác, chúng ta phải có thời gian để tạo lập cơ sở vật chất, cơ sở chính trị - xã hội, văn hóa - tư tưởng, đạo đức lối sống cho chủ nghĩa xã hội. Với một nước tiền tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội thì nhiệm vụ của chúng ta hết sức nặng nề, cho nên đây là cuộc đấu tranh rất gay go giữa cái cũ và cái mới, giữa hai con đường- con đường xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa trên các phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. - Về bước đi và cách làm chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Trong khi lý giải đặc điểm, mâu thuẫn, tính chất của thời kỳ quá độ ở Việt Nam, Hồ Chí Minh cũng đặt ra vấn đề là phải tìm cho được những bước đi và cách làm thích hợp trong điều kiện, hoàn cảnh của nước ta. Theo Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ ở Việt Nam phải qua nhiều bước “Bước ngắn, bước dài tùy theo hoàn cảnh của mỗi nước” [6, 538]. Khi nói về bước đi ở nông thôn Hồ Chí Minh cho rằng: “Lúc đầu là cải cách ruộng đất, sau tiến lên một bước là tổ chức tổ đổi công cho tốt, cho khắp, lại tiến lên hình thức hợp tác xã dễ dàng, rồi tiến lên hợp tác xã cao hơn” [7, 226]. Còn bước đi ở thành thị, Người viết: “ta khuyên các nhà tư sản - không phải bắt ép mà giáo dục thuyết phục họ - chung vốn với Chính phủ” [7, 527] và “các nhà tư sản sẽ hợp tác với Chính phủ để sản xuất dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân” [7, 527]. Để đề phòng những tư tưởng mệnh lệnh, cưỡng ép, Hồ Chí Minh đã đưa ra những nguyên tắc hợp tác hóa như sau: Một là, không được cưỡng ép ai hết; hai là, làm cho mọi người đều có lợi; ba là, quản trị phải dân chủ. Như vậy, Hồ Chí Minh đã thấy được hình thứ quá độ gián tiếp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta từ một nước tiểu nông chính là một quá trình phấn đấu quanh co, lâu dài và phức tạp. Người đã kiên trì đấu tranh chống lại mọi biểu hiện chủ quan, nóng vội, ảo tưởng, mệnh lệnh, gò ép. - Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, ở mỗi nước khác nhau thì có cách làm chủ nghĩa xã hội không giống nhau, khi bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Người đã nêu vấn đề: “Chúng ta phải dùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi theo tốc độ nào để tiến dần lên chủ nghĩa xã hội” [7, 494] và Người đã trả lời “Muốn đỡ bớt mò mẫm, muốn đỡ phạm sai lầm thì chúng ta phải học kinh nghiệm của các nước anh em” [7, 494]. Nhưng Người cũng nhấn mạnh là phải biết “áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo... Như thế phải học tập” [7, 494]. Bởi vì, chúng ta mới bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chúng ta phải học tập những kinh nghiệm của các nước anh em, nhưng phải vận dụng nó một cách sáng tạo, không được vay mượn, sao chép, dập khuôn. Từ đó Hồ Chí Minh cho rằng: “ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác, ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội” [7, 227]. Hồ Chí Minh cho rằng: không thể cấm bổ sung cơ sở lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác và Ăngghen ở thời mình không có được. Nhưng để tiến lên chủ nghĩa xã hội và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội là hai việc khác nhau. Cái thứ nhất suy cho cũng là nghiêng về tiền đề, cái thứ hai mới là mục đích. Hồ Chí Minh từng cho rằng thắng đế quốc và phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc hậu là khó hơn nhiều, cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng vĩ đại, vẻ vang nhất nhưng cũng là cuộc cách mạng gay go nhất, phức tạp nhất và khó khăn nhất; là cuộc chiến khổng lồ chống lại những gì chủ Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 73 - 77 76 nghĩa xã hội cũ kỹ, lạc hậu, hư hỏng để tạo ra những cái mới mẻ, tốt tươi. Con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội theo Hồ Chí Minh là gian khổ, lâu dài và phức tạp. Thời kỳ xây dựng nền tảng cơ bản, chủ yếu cho một xã hội xã hội chủ nghĩa vững chắc sau này. Qua thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong những năm qua, chúng ta càng thấm thía tư tưởng sáng suốt, sâu sắc và sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình vận dụng tư tưởng của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin. Ý NGHĨA DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CON ĐƯỜNG QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY * Ý nghĩa dân tộc - Tư tưởng lý luận Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là sản phẩm của cả cuộc đời và sự nghiệp của Người, là tấm lòng của Người đối với dân với nước. Trong tư tưởng và lý luận đó có hơi thở sống động của thực tiễn, có cái tinh tuý của chủ nghĩa Mác - Lênin, có cốt lõi tinh hoa văn hoá và truyền thống dân tộc, có điểm tương đồng của văn hoá Đông - Tây Vì vậy, sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh còn sống mãi với dân tộc, với thời đại. Hiện nay, loài người đã bước sang thiên niên kỉ mới, ánh sáng của tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn đang soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vì độc lập tự do của dân tộc, vì cơm no, áo ấm, vì công bằng hạnh phúc cho mọi người. Sự hấp dẫn của tư tưởng Hồ Chí Minh chính là ở đặc điểm đó. - Với quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu cho dân tộc, chủ nghĩa xã hội ngày nay trên thế giới không còn tồn tại như một hệ thống từ khi mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu bị sụp đổ. Nhưng Đảng và nhân dân ta vẫn từng bước đi theo con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, mỗi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước không hề tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh. Công cuộc đổi mới do Đảng và nhân dân ta khởi xướng đang được Đảng ta lãnh đạo thực hiện thực sự đã trở thành một cuộc cách mạng có một tầm vóc to lớn nhưng lại hết sức dung dị với cuộc sống con người. Vì rõ ràng chính cuộc cách mạng đó đã trở về với cội nguồn, tư tưởng, quan niệm của Hồ Chí Minh về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và điều đó đã khơi dậy trong mỗi con người bản chất say mê, sáng tạo. Hơn lúc nào hết, tư tưởng Hồ Chí Minh vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh đã và đang được thể hiện một cách mạnh mẽ thông qua các chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Nó chứng thực cho sự trở về bản chất đích thực của chủ nghĩa xã hội mà hơn gần một thế kỷ qua học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập tới. * Ý nghĩa thời đại - Lựa chọn quá độ lên chủ nghĩa xã hội bằng phương thức quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, chứng tỏ Hồ Chí Minh đã nắm vững học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin, tiếp nhận và sáng tạo nó ở thực tiễn Việt Nam. - Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời ký quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam không những có giá trị dân tộc mà còn có ý nghĩa to lớn đối với thời đại. Những vấn đề lý luận ấy của Hồ Chí Minh đã được Đảng và nhân dân Việt Nam vận dụng và đã trở thành kinh nghiệm không những ở cách mạng Việt Nam mà còn cả kinh nghiệm cho cách mạng thế giới. - Đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế: Hồ Chí Minh và dân tộc Việt Nam đã để lại kinh nghiệm của một dân tộc thuộc địa có thể làm cách mạng vô sản, tham gia vào xu thế chung thắng lợi tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Một dân tộc nhỏ, nếu biết đoàn kết, có Đảng lãnh đạo, có đường lối đúng thì cũng có thể thắng kẻ thù lớn, mạnh hơn mình gấp nhiều lần. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được Đảng và nhân dân Việt Nam vận dụng vào thực tiễn. Hồ Chí Minh đã đưa Việt Nam theo tư tưởng xây Vũ Thị Thủy và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 112(12)/1: 73 - 77 77 dựng chủ nghĩa xã hội gắn liền với độc lập dân tộc đã trở thành ngọn cờ đầu trong phong trào giải phóng dân tộc. Điều đó đã để lại bài học kinh nghiệm quý báu đối với các nước có hoàn cảnh tương tự như Việt Nam. Như vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phát hiện ra nhiều yếu tố đặc sắc trong phát triển lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở một nước kém phát triển. Chính sự bổ sung đúng chỗ vào những luận điểm mới đã tạo cho lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin luôn nằm trong trạng thái động, có sức hấp dẫn và không lạc hậu so với cuộc sống. Với những ý nghĩa đó, sẽ là không công bằng và khoa học nếu cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đơn thuần là sự vận dụng thuần tuý chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh có sự tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, Tập 41, Nxb tiến bộ Matxcơva. [2]. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, Tập 42, Nxb tiến bộ Matxcơva. [3]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 19, Chính trị quốc gia, Hà Nội. [4]. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, Tập 22, Chính trị quốc gia, Hà Nội. [5]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [6]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [7]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. [8]. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. SUMMARY NATIONAL AND AGE MEANING OF THE HO CHI MINH IDEOLOGY ON THE WAY OF TRANSLATE TO SOCIALIST IN VIETNAM Vu Thi Thuy*, Pham Thi Huyen College of Education – TNU For the people of Vietnam, since the early years of the twentieth century, the theory of Marxism - Leninism has come to us as the light of dawn. The first Vietnamese approached to Marxism – Leninism was Nguyen Ai Quoc - Ho Chi Minh. Since then the people of Vietnam began to walk out of the long night of slavery, join in the cascade of revolutionary era. Come to Marxism - Leninism, Ho Chi Minh has found the way of national liberation: Going up to socialism. Being a faithful disciple of Lenin, Ho Chi Minh has applied theories of Lenin on the specific conditions of Vietnam innovatively and successfully. The socialist revolutionary career and construction have proved the correctness of the creative thinking of President Ho Chi Minh in applying the doctrine of Marxism - Leninism to the revolutionary Vietnam. Key words: Ho Chi Minh Thought, the period of transition, socialism, nation, age. Phản biện khoa học: TS. Ngô Thị Lan Anh – Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên * ĐT: 0982.633.373; Email: vuthuy.dhsptn@gmail.com

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfbrief_41481_45252_85201415421214_2379_2048511.pdf
Tài liệu liên quan