In the brilliant achievements of the national language prose in various genre before the year of 1945, short
stories played an important role in their unique placement. In general, we can see the innovations of prose
during the period from 1940 to 1945 were in a continuous process of renewal of general literature. The
process that began in early twentieth century has the major orientation of modernization, democratization and nationalization. And the short stories (1940_1945) acted the role to complete the process of modernization of the genre of short stories and the whole national language prose. The modernization was reflected in increased markedly novel substance characterized by the pages of fiction, in the access, dominated from the perspective of people's privacy, in the process of development from simple to complex of some forms of art such as structure, character and narrative method. Particularly, it is the smooth in the
combination of genres as well as of art methods.
8 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xu hướng vận động, đổi mới của hình thức thể loại truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 22
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG, ĐỔI MỚI CỦA HÌNH THỨC THỂ LOẠI TRUYỆN NGẮN
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1940 – 1945
Đinh Thị Cẩm Lê*
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
TÓM TẮT
Trong thành tựu có thể nói là phong phú, rực rỡ của văn xuôi quốc ngữ gồm nhiều thể loại trƣớc
1945, truyện ngắn có tầm quan trọng và vị trí riêng. Nhìn một cách tổng quát, có thể thấy những cách
tân của văn xuôi 1940-1945 nằm trong quá trình đổi mới liên tục của văn học nói chung. Quá trình ấy
đƣợc bắt đầu từ đầu thế kỷ XX với định hƣớng lớn là hiện đại hoá, dân chủ hoá và dân tộc hoá. Trong
đó, truyện ngắn 1940-1945 giữ vai trò hoàn kết quá trình hiện đại hoá, chẳng những của thể loại, mà
còn là của toàn bộ nền văn xuôi quốc ngữ. Sự hiện đại ấy thể hiện ở việc gia tăng rõ rệt của chất tiểu
thuyết bằng những trang viết đậm chất văn xuôi, ở việc tiếp cận, chiếm lĩnh con ngƣời từ góc độ đời
tƣ, ở quá trình phát triển từ đơn giản đến phức tạp của một số hình thức nghệ thuật nhƣ kết cấu, nhân
vật, phƣơng thức trần thuật. Đặc biệt là ở kết hợp nhuần nhị của các thể loại cũng nhƣ các phƣơng
thức nghệ thuật.
Từ khóa: Truyện ngắn, hình tượng nhân vật, hình thức nghệ thuật, thể loại, miêu tả
Bƣớc sang thế kỷ XX, văn học Việt Nam dần
chuyển mạnh sang quỹ đạo hiện đại. Quá
trình hiện đại hoá ấy diễn ra liên tục và ngày
càng mạnh mẽ để rồi hoàn kết khá viên mãn ở
chặng cuối, giai đoạn 1940 - 1945.
Trong số những thể loại góp phần tạo nên
thành tựu có thể nói là phong phú, rực rỡ đó,
truyện ngắn có một tầm quan trọng, một vị trí
riêng. Để vƣơn tới sự thành thục, hoàn thiện,
truyện ngắn đã trải qua nhiều chặng phát triển
với những bƣớc ngoặt có tính quy luật. Mỗi
giai đoạn là một chặng, một khâu, có vị trí
nhất định trong cả quá trình phát triển đó. Và
truyện ngắn giai đoạn 1940 - 1945 cũng là một
chặng nhƣ thế. Đánh giá về truyện ngắn giai
đoạn này, nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Mạnh
cho rằng thể tài truyện ngắn “đã được nâng
lên mức độ có thể nói là hoàn thiện” [3]. Sự
“hoàn thiện” ấy đƣợc thể hiện trƣớc hết ở
hình thức thể loại.
SỰ GIA TĂNG RÕ RỆT CHẤT TIỂU THUYẾT
Trong cách hiểu rộng rãi hiện nay, khái niệm
truyện ngắn có hai nội hàm. Nội hàm thứ nhất,
xem truyện ngắn cũng là tiểu thuyết, nhƣng
đƣợc viết ngắn gọn (đoản thiên tiểu thuyết);
nội hàm thứ hai, xem truyện ngắn và tiểu
thuyết là hai thể loại độc lập; tuy cả hai đều là
văn xuôi nghệ thuật và có nhiều điểm chung,
nhƣng ở mỗi loại đều có những đặc trƣng
riêng, khác nhau, chứ không chỉ có sự khác
nhau về độ dài ngắn. Đó còn là sự khác nhau về
thi pháp đặc thù, về tƣ duy thể loại. Đây là cách
hiểu hầu nhƣ chỉ dành cho giới chuyên môn.
Cả hai cách hiểu trên đều có lý và có phạm vi
sử dụng riêng. Vì vậy, nhiều khi có thể sử
dụng cả hai. Ở đây, với cách hiểu chặt chẽ thứ
hai, ngƣời viết muốn nói đến chất tiểu thuyết
đậm đặc trong truyện ngắn 1940-1945. Đó
chính là sự thể hiện sâu sắc và bao quát nhất của
tính hiện đại trong truyện ngắn giai đoạn này.
Biểu hiện rõ nét nhất của sự gia tăng chất tiểu
thuyết trong thể loại truyện ngắn 1940-1945 là
sự gia tăng của chất văn xuôi. Giầu chất văn
xuôi chính là một đặc điểm quan trọng của tiểu
thuyết. Đó là việc nhà văn tiếp cận cuộc sống
nhƣ một thực tại cùng thời, đang sinh thành,
đang diễn ra xung quanh với những bề bộn, dở
dang, không toàn vẹn. Ở đó chất chứa tất cả
những ngổn ngang, phức tạp của cuộc sống,
bao gồm cả cái cao cả và cái tầm thƣờng, cái bi
và cái hài, cái lớn và cái nhỏNhiều khi nhà
văn sẵn sàng cắt bỏ những tình tiết, biến cố
(khác với truyện truyền thống) để đƣa vào đầy
ắp trong tác phẩm các chi tiết đời sống và các
nét tâm lý đời thƣờng. Nhƣng điều đó không
làm cho các cây bút truyện ngắn 1940-1945 bị
rơi vào lối miêu tả tự nhiên chủ nghĩa, hay sa
vào những cái tầm thƣờng, xám xịt, nhạt nhẽo,
bởi tất cả đều đƣợc soi rọi dƣới ánh sáng của
tƣ tƣởng và thể hiện bằng ngòi bút phân tích.
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 23
Có thể nói, các nhà văn giai đoạn này đã tìm
mọi cách để tiếp xúc tối đa với hiện thực gần
gũi đang mở ra xung quanh. Chƣa bao giờ
cuộc sống hiện tại, đƣơng đại lại đƣợc phản
ánh cụ thể, đậm nét và phong phú nhƣ vậy. Ở
đó, nhịp đập của đời sống thực tại nhƣ đang cất
lên rộn rã, những hình ảnh sống động, rõ nét
nhƣ chính những gì đang hiện hữu ngoài
kiaTất cả đều mang sắc thái rất mực chân
thực, nhƣ vốn có. Bởi, các nhà văn luôn mong
muốn đạt tới sự chân thực cao nhất, không chỉ
trong những khái quát sâu sắc, mà còn trong cả
việc miêu tả các chi tiết “vụn vặt”, “tầm
thường” của đời sống hiện thực đƣơng thời.
Việc gia tăng chất tiểu thuyết thể hiện tập
trung ở việc tiếp cận, chiếm lĩnh con ngƣời từ
góc độ đời tƣ. Tức là nhìn con ngƣời nhƣ một
cá thể riêng lẻ, có số phận, có đời sống tâm lý
riêng, rất cụ thể, chứ không phải là con ngƣời
đại diện cho một mẫu hình lý tƣởng hay một
loại hình xã hội nào đó. Vì vậy, mỗi truyện là
một mảnh đời, một số phận riêng, không
giống nhau. Điều này đƣợc thể hiện rất rõ
trong hàng loạt tác phẩm giai đoạn này: Ông
giăng không biết nói, Lụa (Tô Hoài), Dì
Hảo, Ở hiền (Nam Cao); Mợ Du, Người con
gái (Nguyên Hồng); Đập đất, Vè Hai Ngọ,
Sắm mã (Tam Kính), Chị Yên, Người chị
dâu tôi, Người anh cả, Anh Đỏ Phụ (Hồ
Dzếnh), Cơn giông (Thanh Châu); Yên hoa
(Ngọc Giao)
Trƣớc đây, khi Ngô Tất Tố xây dựng hình
tƣợng nhân vật chị Dậu, điều mà nhà văn quan
tâm là miêu tả ngƣời phụ nữ nông dân trong sự
áp bức bất công của xã hội, nên hình ảnh nhân
vật chị Dậu là điển hình chung cho tất cả
những ngƣời phụ nữ nông dân khác.
Đến giai đoạn 1940-1945, các nhà văn vẫn tiếp
tục xây dựng những hình tƣợng nhân vật ngƣời
nông dân nhƣ: lão Hạc (Lão Hạc), Nhu (Ở
hiền), dì Hảo (Dì Hảo), anh Phúc (Điếu văn)-
Nam Cao; chị Yên (Chị Yên), anh Đỏ Phụ
(Anh Đỏ Phụ)- Hồ Dzếnh Họ là những
ngƣời có cùng tầng lớp xuất thân, nhƣng dƣới
góc nhìn đời tƣ của nhà văn, mỗi nhân vật lại
là một con ngƣời cụ thể, có hoàn cảnh, tính
cách và số phận riêng. Chẳng hạn, cũng là
ngƣời thuộc tầng lớp nông dân, nhƣng hoàn
cảnh và số phận anh Phúc (Điếu văn) không
giống với những ngƣời nông dân khác. Từ
nhỏ anh đã phải đi ở cho ngƣời ta. Ho hen,
ốm yếu là thế, nhƣng anh vẫn lấy vợ và cố
gắng hết sức mình để tận tuỵ, yêu chiều cô ta.
Thế rồi bệnh tật và sự vất vả đã khiến anh sức
cùng, lực kiệt. Anh chết trong trong tức tƣởi,
bỏ lại hai đứa con gày gò, ốm yếu; Nhu (Ở
hiền) thì đƣợc sinh ra trong một gia đình
đông con, hiền lành, nhu mì từ bé, nên Nhu
thƣờng bị bắt nạt và phải nhịn nhƣờng các
anh chị em trong gia đình. Đi lấy chồng, Nhu
cũng chẳng đƣợc sung sƣớng hơn, vì chồng
Nhu lấy vợ bé về bắt Nhu phải hầu hạ. Nhu
vẫn nhẫn nhịn chấp nhận việc đó và “sống
như một con vú trong nhà chúng”. Khác với
anh Phúc và Nhu, chị Yên (Chị Yên- Hồ
Dzếnh) lại có hoàn cảnh và số phận khác. Chị
Yên đƣợc mua về làm con nuôi trong một
năm lụt lội, đói kém. Là ngƣời có “lòng tử
tế” và “trung thành”, lại chăm chỉ, hay lam
hay làm, nhƣng cuộc đời chị không may mắn.
Chị có ngƣời yêu, khi hai ngƣời chuẩn bị làm
đám cƣới thì chị bị ngƣời ta làm nhục. Đau
đớn, tủi hổ, chị bỏ nhà vào tận Thanh Hoá và
lấy chồng trong đó. Nhƣng rồi, bi kịch vẫn
không buông tha chị, chị chết, một tháng sau
chồng và hai tháng trƣớc đứa con trai. Rõ
ràng, cùng thuộc tầng lớp nông dân, nhƣng
mỗi nhân vật lại có một cuộc sống, một số
phận riêng không giống nhau.
Quan tâm tới đời sống riêng của mỗi con ngƣời
cụ thể và khám phá nó dƣới nhiều góc độ khác
nhau, để nhận thức rõ hơn về đời sống, hiện
thực, truyện ngắn 1940-1945 đã thể hiện một
trong những đặc trƣng tiêu biểu của tiểu thuyết.
Vì vậy, có thể nói rằng, yếu tố đời tƣ càng phát
triển thì chất tiểu thuyết càng gia tăng.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TỪ ĐƠN GIẢN
ĐẾN PHỨC TẠP CỦA MỘT SỐ HÌNH
THỨC NGHỆ THUẬT
Quá trình hiện đại hoá văn học, xét ở phƣơng
diện nào đấy, là quá trình đi từ sự đơn giản
đến phức tạp trong kết cấu, nhân vật và
phƣơng thức trần thuật.
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 24
Trong những năm 1940-1945, truyện ngắn có
nhiều lớp nghĩa trở nên phổ biến. Một loạt tác
phẩm của Nam Cao nhƣ Nước mắt, Tư cách
mõ, Lão Hạc, Lang Rận, Trăng sáng, Đời
thừa... có kết cấu nhƣ vậy. Nhƣng, không chỉ
Nam Cao, kết cấu ấy còn xuất hiện trong
những truyện nhiều dƣ vị của Nguyễn Tuân:
Một người không đập vỡ đàn, Đôi tri kỉ
gượng; hay các truyện: Ốm, Hai anh học trò
có vợ, Người chồng gầy, Cái đồng hồ... của
Bùi Hiển; Sợi tóc.. của Thạch Lam; Truyện
gã chuột bạch củaTô Hoài; Hình bóng, Tội
lỗi ngoài ngưỡng cửa...của Ngọc Giao...
Trong truyện Chí Phèo, Nam Cao đã tạo nên
hai cốt truyện cùng song song tồn tại trong kết
cấu tác phẩm. Tuyến cốt truyện thứ nhất là
xung đột giữa Chí Phèo - Bá Kiến và tuyến cốt
truyện thứ hai là mối tình của Chí Phèo với Thị
Nở. Nếu tuyến Chí Phèo-Bá Kiến gắn với quá
trình bị huỷ diệt linh hồn của Chí Phèo, thì
tuyến thứ hai (Chí Phèo- Thị Nở) gắn với sự
thức tỉnh linh hồn của nhân vật chính. Có thể
nói, nếu tuyến thứ nhất là chủ đề xã hội, thì
tuyến thứ hai lại tập trung vào chủ đề con
ngƣời. Cả hai tuyến cốt truyện đều có những
diễn biến nhất định với những tình tiết, biến cố
và đều đƣợc giải quyết, song nó lại có liên
quan, gắn bó mật thiết với nhau trong trục
chung của tác phẩm. Đây là điều trƣớc đây ít
có trong truyện ngắn. Nó tạo hứng thú cho
ngƣời đọc, bởi rõ ràng, trong truyện ngắn Chí
Phèo, Nam Cao đã không chỉ đề cập tới vấn đề
xã hội với xung đột, mâu thuẫn giai cấp, mà
ông còn đi sâu vào đề tài thế sự, đời tƣ để đặt
ra vấn đề quyền sống, quyền đƣợc yêu và hạnh
phúc, một vấn đề mang tính nhân bản sâu sắc.
Với kiểu kết cấu này, các nhà văn sẽ bao quát
cuộc sống ở nhiều phƣơng diện phức tạp hơn,
nội dung tác phẩm cũng sẽ đƣợc khám phá ở bề
sâu, bề sau, tƣ tƣởng mà tác giả gửi gắm, vì thế,
cũng đƣợc nhận thức sâu sắc và thấm thía hơn.
Về phƣơng diện xây dựng nhân vật, truyện
ngắn 1940-1945 cũng đã thể hiện những bƣớc
phát triển mới để đi đến sự hoàn thiện. Với
cách nhìn con ngƣời không một chiều, nhất
phiến, cách xây dựng nhân vật trong các truyện
ngắn giai đoạn này cũng có những thay đổi.
Các nhà văn thƣờng đi vào miêu tả những nét
tiêu biểu trong tính cách nhân vật trong sự đa
diện, đa chiều. Nhân vật lão Hạc (Lão Hạc)
của nhà văn Nam Cao, bề ngoài có vẻ lẩm
cẩm, gàn dở, nhƣng thực ra lão vừa là ngƣời
cha tận tuỵ, hết lòng hy sinh vì con, vừa là
ngƣời nông dân có phẩm chất thanh cao hiếm
có. Nhân vật Mão Chột trong truyện ngắn
Người mẹ không con (Nguyên Hồng) cũng
là người có những biểu hiện hết sức trái
ngƣợc trong tính cách. Bề ngoài, hắn là ngƣời
chồng thô bạo, cục cằn, thƣờng đánh chửi vợ
mỗi khi thua bạc, nhƣng hắn cũng là một
ngƣời chồng rất thƣơng vợ. Cái cách hắn thể
hiện tình thƣơng với vợ vừa trìu mến, tha
thiết lại vừa thô mộc nhƣ chính con ngƣời hắn
vậy. Hắn “gắt gỏng” khi vợ nhất định
nhƣờng cho những thứ ngon lành, khiến hắn
phải “ép”, phải “san sẻ ”cho vợ nhƣ ngƣời
khách lạ, hắn còn cảm thấy “uất ức” khi thấy
vợ cứ cho hắn độc hƣởng sự sung sƣớng. Hắn
nhủ lòng rằng : “Không, hắn đã khổ sở, hắn
đã cơ cực, thì những lúc làm được đồng tiền
hay cờ bạc gỡ gạc được chút ít, hắn cũng
muốn cho vợ hắn cũng như hắn, ăn uống tiêu
pha thật thoả thuê để quên mọi sự đi”. Rõ
ràng, tính cách nhân vật Mão Chột đƣợc xây
dựng không hề đơn giản, sơ lƣợc theo công
thức chính diện, phản diện thông thƣờng, mà
đó là một nhân vật có tính cách phức tạp, ít
nhiều có chiều sâu.
Nếu nhƣ nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan thƣờng đƣợc miêu tả cặn kẽ về
diện mạo và hành vi bên ngoài (thƣờng đƣợc
nhà văn đặt vào trong những quan hệ xung đột
bên ngoài), thì nhân vật truyện ngắn 1940-
1945 lại đƣợc soi sáng chủ yếu từ bên trong
với những xung đột nội tâm quyết liệt, căng
thẳng. Lúc này, đời sống tâm lý của nhân vật
cũng trở thành đối tƣợng để nhà văn tập trung
tìm hiểu, nghiên cứu. Nhân vật thƣờng đƣợc
miêu tả trong chiều sâu suy nghĩ. Vì vậy, họ
hay một mình để lắng nghe tâm trạng, hoài
niệm về quá khứ, để dằn vặt, tự vấn lƣơng tâm,
hoặc chìm đắm trong những nghiền ngẫm, suy
tƣ về sự sống, con ngƣời và xã hội.
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 25
Dùng ngòi bút để thâm nhập sâu vào trong thế
giới bí ẩn và phức tạp đó, nhà văn không chỉ
miêu tả quá trình nhận thức của nhân vật nhƣ
trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, mà còn
phát hiện quá trình tự nhận thức ở họ. Phần
nhiều, đó là những con ngƣời hƣớng nội, luôn
mổ xẻ, phân tích bản thân mình để tự nhận
thức và phê phán: Hộ - Đời thừa; Điền- Trăng
sáng, Điền- Nước mắt, lão Hạc - Lão Hạc
(Nam Cao); Nguyễn - Đôi tri kỉ gượng
(Nguyễn Tuân); Sinh - Đói (Thạch Lam);
Hƣng- Miếng bánh (Nguyên Hồng)....Trong
số đó, có những nhân vật, mà bề dầy tâm lý
không thua kém gì nhân vật tiểu thuyết. Đây là
biểu hiện quan trọng của sự hiện đại trong
truyện ngắn giai đoạn này, so với trƣớc. Bởi,
nhƣ Hoàng Ngọc Hiến đã nhận định: “Trong
lịch sử phát triển của tiểu thuyết, những bước
tiến quan trọng thường gắn liền với sự phát
triển khả năng và kỹ thuật bộc lộ quá trình tự
nhận thức của nhân vật, từ đó mở rộng khả
năng đi sâu vào đời sống tâm lý và thế giới nội
tâm của con người” [4]
Có thể nói, dù tiếp cận tâm lý con ngƣời ở
những mức độ khác nhau, nhƣng sáng tác của
các nhà văn giai đoạn này đều lấy tâm lý con
ngƣời làm đối tƣợng để phản ánh, phân tích.
Thông qua chân dung tinh thần của nhân vật,
thông qua những xung động, biến đổi tâm lý,
những giây phút trăn trở, dằn vặt, hay cả quá
trình diễn biến tâm lý phức tạp và đầy mâu
thuẫn, các nhà văn đều thể hiện chung một
mong muốn, đó là phản ánh, nghiền ngẫm và
phân tích hiện thực của cuộc sống, xã hội, con
ngƣời với tất cả sự chân thực và chiều sâu
vốn có của nó.
Về phƣơng diện trần thuật, truyện ngắn đã đi
từ lối kể truyện đơn giản, có đầu có cuối đơn
điệu theo góc nhìn của tác giả (Nguyễn Bá
Học, Phạm Duy Tốn...), đến lối nhập vai vào
nhân vật và thuật kể linh hoạt, theo giọng điệu
nhân vật từ nhiều điểm nhìn khác nhau. Các
cây bút truyện ngắn 1940-1945 đã xoá bỏ
khoảng cách giữa ngƣời trần thuật và nội dung
trần thuật để miêu tả hiện thực nhƣ cái hiện tại
đƣơng thời của ngƣời trần thuật. Với giọng
điệu kể luôn thay đổi, mỗi nhân vật có một
ngôn ngữ, cách nói riêng và mỗi điểm nhìn sẽ
gắn liền với một sự trải nghiệm, vì vậy, hiện
thực sẽ đƣợc đánh giá theo nhiều cách. Ở đó
mỗi nhân vật là một ý thức, một bản ngã và
một thái độ tự do, độc lập với lập trƣờng tác
giả. Tác giả không còn là ngƣời phán truyền
chân lý, ngƣời biết trƣớc tất cả và luôn luôn
đúng để có thể kể lại mọi sự đi, đứng của nhân
vật một cách thản nhiên, trầm tĩnh, mà nói nhƣ
nhà văn Xô Viết Antônôv, họ đã “trao ngòi
bút cho nhân vật, để nhân vật tự viết lấy với
giọng điệu riêng của nó”[2]. Điều này cho
phép ngƣời trần thuật có thể tiếp xúc, đối thoại
và nhìn nhận nhân vật một cách gần gũi nhƣ
những ngƣời bình thƣờng, có thể hiểu họ bằng
kinh nghiệm của mình, đồng thời, có thể cùng
họ quan sát, phân tích và suy ngẫm. Còn nhân
vật, họ có quyền nói lên tiếng nói của mình với
những lí lẽ và lẽ phải của riêng họ. Biểu hiện ấy
cho thấy vị trí của ngƣời trần thuật và nhân vật
là bình đẳng, và đây chính là một bằng chứng rõ
nét của tính dân chủ trong truyện ngắn giai đoạn
này. Và, thể loại truyện ngắn tạo đƣợc một bƣớc
tiến quan trọng trong phƣơng thức trần thuật,
khi dần từ lối trần thuật độc điệu, đơn giản để
tiến đến sự đa dạng, linh hoạt và phức điệu
trong nghệ thuật trần thuật.
Có thể nói, từ Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học
đến Nguyễn Công Hoan, rồi đến Nam Cao,
Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Nguyên Hồng, Tô
Hoài, Bùi Hiển... việc xây dựng kết cấu, xây
dựng nhân vật, phƣơng thức trần thuật của
truyện ngắn đã có những bƣớc vận động, phát
triển mạnh mẽ, từ đơn giản đến phức tạp. Đó
cũng là một biểu hiện của quá trình vận động
có tính quy luật của thể loại trên con đƣờng
tiến tới thật sự hiện đại.
SỰ TỔNG HỢP CỦA CÁC THỂ LOẠI VÀ
CÁC PHƢƠNG THỨC NGHỆ THUẬT
Truyện ngắn những năm 30 của thế kỷ XX
đƣợc khẳng định, trƣớc hết bởi hai tên tuổi nổi
bật: Nguyễn Công Hoan và Thạch Lam. Họ
đều là những bậc thầy truyện ngắn, đều nổi
tiếng. Nhƣng đáng chú ý là họ rất khác nhau,
mỗi ngƣời một phong cách rất riêng. Nguyễn
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 26
Công Hoan đƣợc xem là bậc thầy của truyện
ngắn trào phúng, và ông chỉ đứng đƣợc với
loại truyện trào phúng, còn Thạch Lam là bậc
thầy của truyện ngắn trữ tình và cũng chỉ viết
hay ở loại truyện trữ tình.
Đến giai đoạn 1940-1945, Nam Cao nổi lên
nhƣ một tài năng kiệt xuất trong thể loại truyện
ngắn, nhƣng rất khó có thể xác định ông là cây
bút trào phúng, trữ tình, hay tâm lý, triết lý, bởi
tất cả những yếu tố trào phúng, trữ tình, tâm lý,
triết lý... đều hiện diện đậm nét trong ngòi bút
của ông, và thƣờng hoà hợp với nhau tới mức
nhuần nhuyễn để làm nên một phong cách
truyện ngắn mang tính tổng hợp của nhiều thể
loại, bút pháp, đồng thời vẫn hết sức độc đáo.
Có thể xem sự tổng hợp của nhiều thể loại là
một biểu hiện quan trọng của tính hiện đại trong
truyện ngắn Nam Cao. Hoàng Ngọc Hiến từng
cho rằng: “Truyện ngắn hiện đại là sự tổng hợp
của hai thể loại: giai thoại và ngụ ngôn. Giai
thoại có truyện hấp dẫn nhưng không có hàm
nghĩa sâu xa, ngụ ngôn có hàm nghĩa sâu xa,
nhưng truyện không hấp dẫn. Xét về phương
diện tổng hợp giai thoại và ngụ ngôn, thì Nam
Cao có nhiều truyện ngắn đạt hơn cả”[3]. Ở
đây, thực chất nhà nghiên cứu muốn nói tới sự
kết hợp giữa tính hấp dẫn và sự sâu sắc trong
các sáng tác truyện ngắn hiện đại, điều mà trƣớc
đây truyện ngắn ít có. Bởi các nhà văn lớp trƣớc
thƣờng chỉ tập trung tạo ra những tác phẩm có
cốt truyện hấp dẫn, mà ít quan tâm tới nội dung
tƣ tƣởng sâu sắc chứa đựng trong đó.
Nam Cao là một cây bút hiện thực tỉnh táo,
nghiêm ngặt, nhƣng trong tác phẩm của nhà
văn vẫn có thể nhận thấy sắc thái trữ tình thắm
thiết. Ông thƣờng viết về những ngƣời thân
yêu, ruột thịt với chứa chan tình cảm thƣơng
yêu, trân trọng. Nhiều truyện của ông mang
tính tự truyện, và lắm khi, giữa những câu văn
tự sự, khi không thể kìm chế đƣợc lòng mình,
ông đã để mặc cho cảm xúc cuốn đi, ông cất
tiếng gọi tên nhân vật với giọng điệu đầy thiết
tha, xúc động:“Lão Hạc ơi! Lão hãy yên lòng
mà nhắm mắt! Lão đừng lo cho cái vườn của
lão . Tôi sẽ cố giữ gìn cho lão. Đến khi con trai
lão về, tôi sẽ trao lại cho hắn và bảo hắn: “
Đây là cái vườn mà ông cụ thân sinh ra anh đã
cố để lại cho anh trọn vẹn: cụ thà chết chứa
không chịu bán đi một sào” (Lão Hạc).
Thậm chí, ngay cả khi Nam Cao miêu tả khách
quan, thì chất trữ tình cũng toát ra từ những
hình ảnh, giọng điệu, lời văn để khơi gợi trong
lòng độc giả biết bao cảm xúc: “ Ninh nắm lấy
bàn tay của bu, chỉ còn rặt những xương, mà
giá lạnh. Nó lỏng la, lỏng lẻo. Những ngón
trông rõ từng đốt, từng đốt một. Những đường
gân xanh nổi thày lày lên” (Từ ngày mẹ chết).
Trong ngòi bút Nguyên Hồng cũng có sự kết
hợp của hai yếu tố tự sự và trữ tình. Nhƣng,
khác với Nam Cao, yếu tố trữ tình ở ngòi bút
của Nguyên Hồng thƣờng đƣợc bộc lộ rõ nét
và mạnh mẽ trong những lời văn và hình ảnh
mà ông miêu tả. Tƣởng nhƣ nhà văn đã dồn tất
cả cảm xúc, lòng yêu thƣơng của mình vào
trong đó để đốt cháy tâm can ngƣời đọc. Cuộc
đời bất hạnh của những ngƣời nhƣ mụ Mão
(Người đàn bà không con), mợ Du (Mợ Du),
Lệ Hà (Người con gái), Thạo bé (Giọt máu)...
đƣợc nhà văn kể lại bằng giọng điệu dƣng
dƣng cảm động và xót xa. Hãy xem ông miêu
tả hình ảnh Thạo bé, sau khi vƣờn ngô cô bé
trồng bị mụ chủ nhà phá nát: “Cả buổi chiều
hôm ấy, chẳng nón áo gì, Thạo bé cứ luẩn
quẩn hết gốc ngô này sang gốc ngô khác vuốt,
chắp chắp, nối nối, và khóc. Nó khóc chỉ có
tiếng nức nở chứ không thấy nước mắt. Nước
mắt của nó bị nhoà hẳn dưới những trận mưa
đổ rào rào xuống người nó run cầm cập và
xám ngắt” (Giọt máu)
Bên cạnh sự kết hợp của yếu tố tự sự - trữ tình,
truyện ngắn 1940-1945 còn tạo ra một sự kết
hợp khác đầy thú vị, đó là sự kết hợp của yếu
tố trào phúng với yếu tố trữ tình. Giờ đây, tuy
không còn có những “cây” trào phúng nhƣ
Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, nhƣng
lại có thể tìm thấy chất trào phúng- trữ tình
đƣợc kết hợp, đan xen trong truyện của Nam
Cao, Nguyễn Tuân, Phan Du, Bùi Hiển,
Hƣớng Minh. Và, những Quên điều độ, Cái
mặt không chơi được, Những truyện không
muốn viết, Cười, Nhỏ nhen của Nam Cao;
Cái đồng hồ, Hai anh học trò có vợ, Ốm,
Người chồng gầy của Bùi Hiển; Thằng bơ
của Hƣớng Minh; Nhà Nguyễn, Đôi tri kỷ
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 27
gượng của Nguyễn Tuân; Sống gởi của Phan
Du...là những minh chứng tiêu biểu.
Đặc biệt, có nhiều tác phẩm, tuy là truyện
ngắn nhƣng đƣợc viết dƣới dạng hồi ký- tự
truyện, hoặc đƣợc viết dƣới dạng tuỳ bút. Ở
truyện ngắn mang dáng dấp hồi ký- tự truyện,
câu chuyện đƣợc nhà văn sáng tạo thông qua
những hồi tƣởng về quá khứ. Đó là những kỉ
niệm vui buồn mà họ đã trải qua và thấm thía
sâu sắc. Trong tác phẩm của Nam Cao luôn
thấy trở đi, trở lại những hồi ức về ngôi làng
Đại Hoàng, quê hƣơng ông và những ngƣời
thân yêu của ông: bà ngoại vất vả, lam lũ
(Nhìn người ta sung sướng), ngƣời dì nuôi
hiền lành (Dì Hảo), nhẫn nhịn, ngƣời vợ tảo
tần (Trăng sáng, Cười, Bài học quét nhà...)
và những ngƣời nông dân chất phác, thật thà
(Lão Hạc, Ở hiền, Điếu văn...).
Tập Chân trời cũ của Hồ Dzếnh cũng vậy.
Có thể gọi đây là những truyện ngắn-hồi ký,
vì những kỉ niệm về tuổi thơ bên cạnh những
ngƣời ruột thịt chính là nguồn cảm hứng và
chất liệu chính trong tác phẩm này. Còn
truyện ngắn Tôi đi học của Thanh Tịnh thì
thật sự là một cuốn hồi ký: “truyện” kể lại kỉ
niệm của buổi đầu tiên đi học của một cậu bé,
với những cảm xúc mới mẻ và trong trẻo, qua
sự hồi tƣởng của nhân vật “tôi” khi bắt đầu
bƣớc chân vào lớp một...
Ở những truyện đƣợc viết dƣới dạng tuỳ bút,
nhà văn không chỉ ghi chép về những con
ngƣời và sự kiện cụ thể, mà còn chú trọng đến
việc bộc lộ cảm xúc, suy tƣ và nhận thức đánh
giá của mình về con ngƣời và cuộc sống hiện
tại. Chính điều này khiến cho các sáng tác
truyện ngắn - tuỳ bút giai đoạn 1940-1945
vừa giầu chất trữ tình, lại vừa mang đậm yếu
tố suy tƣởng, triết lý. Ở truyện ngắn Đôi tri kỉ
gượng của Nguyễn Tuân, qua hình ảnh nhân
vật Nguyễn, ngƣời đọc có thể bắt gặp một
Nguyễn Tuân đầy cá tính, luôn “kiêu hãnh”,
“kênh kiệu”, ngƣời “được sinh ra để mà thờ
Nghệ Thuật”. Con ngƣời ấy luôn khao khát
sống một cuộc sống thực sự có ý nghĩa, chứ
không phải là một cuộc sống “lèm nhèm, lẹt
đẹt, lờ mờ, luộm thuộm và bằng lòng của tất
cả chung quanh”. Trong tác phẩm, Nguyễn
thƣờng xuất hiện với dáng vẻ trầm ngâm, suy
tƣ. Suy tƣ về ý nghĩa, giá trị cuộc sống, về
những mối quan hệ giữa con ngƣời với con
ngƣời...để rồi chàng nhận ra rằng: “Người ta
không quen nhau, không được đánh bạn với
nhau nhiều khi thì lại là hay. Đã không chơi
với nhau thì có bao giờ phải nói đến hai chữ
phụ nhau. Cái lầm của nhiều người là cứ đi
vét lấy những linh hồn bầu bạn để rồi về sau
lại làm đau khổ lẫn nhau, phụ lẫn nhau”. Nếu
có thể thay tên nhân vật chính- Nguyễn- và có
một cách tiếp cận các truyện trong tập sách
bằng “tôi”, thì tập truyện ngắn sẽ hoàn toàn
trở thành một tập tuỳ bút, bên cạnh Tuỳ bút I,
Tuỳ bút II của nhà văn.
Ở giai đoạn này cũng có những truyện ngắn rất
gần với thơ. Chất thơ ấy toát lên từ cảm xúc sâu
lắng, dịu dàng của tác giả. Đọc những truyện
ngắn gần nhƣ thơ ấy, có thể thấy chất trữ tình
nhƣ thấm đƣợm trong từng hình ảnh, chi tiết,
giọng điệu, lời văn và dƣ âm của nó nhƣ vẫn
còn lan toả mãi trong tâm hồn ngƣời đọc, cho
dù trang sách đã khép lại. Có thể kể: Dưới bóng
hoàng lan (Thạch Lam), Tình trong câu hát,
Bến nứa, Tình thư (Thanh Tịnh), Nhặt cánh
hoa tàn (Nam Cao)... Trong những truyện ngắn
này, ý nghĩa của nó không nằm ở cốt truyện, mà
ở không khí, cảm xúc, tâm trạng bàng bạc trong
truyện. Ngay trong Chí Phèo của Nam Cao,
một ngòi bút tự sự nhiều khi khách quan đến
lạnh lùng, vẫn có thể tìm thấy chất thơ ẩn chứa
ở trong đó. Khi Chí Phèo (Chí Phèo) tỉnh rƣợu,
âm thanh đầu tiên mà hắn nghe thấy là những
âm thanh của cuộc sống đời thƣờng, quen
thuộc. Đó là tiếng chim hót, tiếng cƣời nói của
những ngƣời đi chợ, tiếng anh thuyền chài gõ
mái chèo đuổi cá, tất cả là“chất thơ được cất
lên từ cuộc sống hàng ngày lam lũ” (lời
Nguyễn Đăng Mạnh), thế nhƣng cũng đủ để
làm lay động tâm hồn ngƣời đọc, bởi nó đƣợc
chắt ra từ tình yêu thiết tha với quê hƣơng, với
con ngƣời Việt Nam của nhà văn. Ngoài ra,
trong truyện ngắn giai đoạn này còn có những
sự kết hợp, đan xen khác: truyện ngắn với
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 28
phóng sự (Phi Vân, Kim Lân) hoặc truyện ngắn
đƣợc viết dƣới dạng những bức thƣ (tập Cuộc
sống của Nguyên Hồng, các truyện Ngày mai tôi
sẽ chết của Vũ Bằng, Gia đình của Hƣớng Minh
). Những kết hợp mới mẻ, sáng tạo đó đã tạo
nên những sắc thái mới, đa dạng cho truyện ngắn,
đồng thời mang đến cho thể loại này những cách
thể hiện độc đáo và đặc sắc.
Do đâu mà thể loại truyện ngắn ở chặng cuối của
quá trình hiện đại hoá lại có sự tổng hợp nhƣ vậy?
Phải chăng đó chính là biểu hiện của sự thức tỉnh
mạnh mẽ của ý thức cá nhân. Các nhà văn giai
đoạn này muốn đƣợc sống thật, sống sâu sắc với
những suy nghĩ, tƣ tƣởng của chính mình. Cùng
với đó, xu hƣớng chung của họ lúc này là bám sát
đời sống, tiếp xúc tối đa với đời sống và số phận,
tâm hồn con ngƣời, nên họ không thể viết một
cách công thức theo kiểu ƣớc lệ, sơ đồ, mà phải
sáng tạo, linh hoạt để đáp ứng đƣợc cao nhất với
việc thể hiện chân thực, sâu sắc cuộc sống muôn
mầu, muôn vẻ, lại luôn luôn vận động, biến đổi
không ngừng, đồng thời, nhận biết, khám phá sự
phức tạp, đa chiều bên trong mỗi con ngƣời. Để có
thể làm đƣợc nhƣ vậy, hình thức thể loại cũng cần
phải đa dạng và có khả năng vƣợt ra khỏi ranh giới
của chính nó, để ôm trùm đƣợc tất cả những biểu
hiện ấy.
Có thể nói, cùng với những tiến bộ về nội dung, tƣ
tƣởng, sự đổi mới của hình thức thể loại truyện
ngắn 1940-1945 đã soi sáng phần nào con đƣờng
phát triển ngoạn mục của truyện ngắn quốc ngữ
nói riêng và của nền văn xuôi mới nói chung.
Theo thời gian, nhiều giá trị có thể bị lu mờ,
nhƣng những giá trị đích thực của thể loại truyện
ngắn giai đoạn này thì vẫn luôn toả sáng. Những
giá trị của một thời ấy là những giá trị mà các thế
hệ nhà văn hôm nay vẫn tiếp tục kế thừa, phát
triển, để tạo nên sự vận động và đổi mới không
ngừng của dòng chảy văn học dân tộc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Hoành Khung (1973), Nam Cao trong Lịch
sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
[2]. Vƣơng Trí Nhàn (1980), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Tác
phẩm mới, Hội nhà văn, Hà Nội.
[3]. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khải luận - Tổng tập Văn
học Việt Nam, tập 30A, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
[4]. Hoàng Ngọc Hiến (2003), Nhập môn văn học và
phân tích thể loại, Nxb Đà Nẵng.
SUMMARY
MOBILITY TRENDS, INNOVATIVE FORMS OF VIET NAM SHORT STORY
CATEGORY FOR THE PERIOD 1940 – 1945
Dinh Thi Cam Le
Hanoi National University of Education
In the brilliant achievements of the national language prose in various genre before the year of 1945, short
stories played an important role in their unique placement. In general, we can see the innovations of prose
during the period from 1940 to 1945 were in a continuous process of renewal of general literature. The
process that began in early twentieth century has the major orientation of modernization, democratization and
nationalization. And the short stories (1940_1945) acted the role to complete the process of modernization of
the genre of short stories and the whole national language prose. The modernization was reflected in
increased markedly novel substance characterized by the pages of fiction, in the access, dominated from the
perspective of people's privacy, in the process of development from simple to complex of some
forms of art such as structure, character and narrative method. Particularly, it is the smooth in the
combination of genres as well as of art methods.
Key words: Short stories, iconic characters, art form, genre, description.
Đinh Thị Cẩm Lê Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 72(10): 22 - 28
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32703_36533_20820121037302228_6693_2052713.pdf