3. KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, xói lở bờ sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng
Tháp đang diễn ra rất phổ biến với cường độ mạnh, phạm vi rộng lớn và quy mô ngày
càng gia tăng. Thực trạng xói lở bờ sông Tiền chảy qua tỉnh Đồng Tháp như vậy là do
sự tác động tổng thể của các nhân tố (tự nhiên và KT - XH) tạo điều kiện thuận lợi cho
xói lở trên toàn lưu vực và tại địa phương thông qua mối quan hệ giữa lòng dẫn, vật
chất cấu tạo lòng dẫn và dòng chảy của sông.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân gây xói lở bờ sông Tiền, theo
chúng tôi để hạn chế sự biến đổi bờ sông Tiền, đảm bảo phát triển sản xuất, ổn định đời
sống, ngoài những giải pháp phải thực hiện đồng bộ trên toàn hệ thống sông thì tại đoạn
bờ sông Tiền thuộc địa phận tỉnh Đồng Tháp cần thực thi tổng thể các giải pháp đã định
hướng ở trên.
11 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 694 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xói lở bờ sông tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp thực trạng, nguyên nhân và giải pháp - Trịnh Phi Hoành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế
ISSN 1859-1612, Số 04(20)/2011: tr. 56-66
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP
THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ GIẢI PHÁP
TRỊNH PHI HOÀNH
Trường Đại học Đồng Tháp
LÊ VĂN ÂN
Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế
Tóm tắt: Tai biến xói lở bờ sông đã và đang xảy ra phổ biến ở sông Tiền
đoạn chảy qua lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp với cường độ mạnh, phạm vi rộng
lớn. Thực trạng xói lở bờ sông Tiền chảy qua tỉnh Đồng Tháp như vậy là do
sự tác động tổng thể của các nhân tố tự nhiên và kinh tế - xã hội trên toàn
lưu vực và tại địa phương thông qua mối quan hệ giữa lòng dẫn tự nhiên và
dòng chảy của sông... Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích nguyên
nhân gây xói lở, chúng tôi đề xuất ba nhóm giải pháp để phòng tránh, giảm
nhẹ thiệt hại bao gồm nhóm giải pháp phòng ngừa, giải pháp né tránh và
nhóm giải pháp kháng vệ.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phần hạ lưu sông Mê Kông chảy qua lãnh thổ Việt Nam được gọi là sông Cửu Long.
Sông Cửu Long có hình dạng như một bím tóc tỏa rộng, lòng sông chỗ thì phình ra, chỗ
thì thu hẹp. Với chiều dài dòng chính khoảng 230km (chiếm 5,1% tổng chiều dài sông
chính) tính từ biên giới Việt Nam - Campuchia tới Biển Đông. Sông Cửu Long bao gồm
hai nhánh chính là sông Tiền và sông Hậu. Sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp
dài 129km (biên giới Việt Nam - Campuchia đến cầu Mỹ Thuận). Bề rộng của sông
Tiền biến đổi nhiều lần, hẹp nhất ở An Long (Tam Nông) 450m, nơi rộng nhất ở đầu
cồn Long Khánh 2,2km (huyện Hồng Ngự), độ sâu trung bình khoảng 10-15m. Sông
Tiền chiếm khoảng 83% tổng lưu lượng nước của sông Cửu Long, có nhiều đoạn cong
nên hoạt động xói lở, bồi lắng rất mạnh [3]. Sông Cửu Long có vai trò rất quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội (KT - XH) khu vực Đồng bằng sông Cửu Long
(ĐBSCL) vì thế hầu hết các đô thị lớn đều nằm cạnh sông (ở tỉnh Đồng Tháp cả 3 đô thị
đều nằm trên trục sông Tiền), các hoạt động KT - XH gắn liền với sông rạch
Tuy nhiên, trong những năm gần đây do sự thay đổi của hệ thống tự nhiên địa cầu, đặc
biệt là biến đổi khí hậu và hoạt động KT - XH trên lưu vực đã làm cho bờ sông khu vực
hạ lưu nhất là đoạn sông Tiền chảy qua tỉnh Đồng Tháp đang biến động phức tạp và gây
hậu quả nghiêm trọng ở địa phương. Nghiên cứu, đánh giá thực trạng và nguyên nhân
gây xói lở bờ sông Tiền thuộc địa phận tỉnh Đồng Tháp làm cơ sở đề xuất các giải pháp
phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại, ổn định xã hội và phát triển sản xuất đang là vấn đề đặt
ra cấp thiết.
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP...
57
2. XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA LÃNH THỔ TỈNH ĐỒNG THÁP
2.1. Thực trạng xói lở
2.1.1. Thực trạng xói lở theo không gian
Xói lở bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp diễn ra rất phổ biến, hầu hết các huyện của tỉnh có
sông Tiền chảy qua đều xảy ra hiện tượng xói lở. Qua điều tra, khảo sát kết hợp với kết
quả nghiên cứu của các tác giả [1], [3], [4], [5], [6] cho thấy, riêng đoạn bờ sông Tiền
chảy qua lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp đã có hơn 53 điểm lớn nhỏ. Các khu vực xói lở bờ có
chiều dài lớn nhất là 9.000m ở xã Mỹ Xương (huyện Cao Lãnh); 3.000-4.000m ở các
điểm xói lở bờ thuộc xã Thường Phước (Hồng Ngự), xã An Phong, Tân Thạnh (Thanh
Bình), xã An Hiệp (Châu Thành); chiều rộng ăn sâu nhất vào từ trên 1.000m ở Phường
3, 4 (Sa Đéc).
Bảng 1. Quy mô xói lở ở một số khu vực trọng điểm trên sông Tiền tỉnh Đồng Tháp
Khu vực Chiều dài xói lở (km)
Chiều rộng xói
lở sâu nhất vào
bờ (m)
Vị trí
sông
Tốc độ xói lở
trung bình
năm (m)
Tốc độ dịch
chuyển tâm
(m/năm)
Thường Phước –
Thường Thới Tiền 6 1.492 Trái 34,7 33,3
TX. Hồng Ngự 8 131 Trái 3,1 3,5
Sa Đéc – Châu
Thành – Mỹ Thuận 10 1.433 Phải 33,3 38,1
Nguồn: [5], [6], [8] và bổ sung.
Trong các điểm xói lở được xác định, có những khu vực phạm vi xói lở lớn (thể hiện ở
bảng 1), chiều dài 6-10km, chiều rộng lớn nhất hơn 1km, cường độ mạnh, diễn biến
phức tạp, gây ra hoặc có nguy cơ gây ra nhiều thiệt hại về tính mạng, kinh tế của người
dân như sau:
a) Xói lở bờ sông Tiền khu vực huyện Hồng Ngự
Xói lở mạnh nhất ở các xã Thường Phước 1, Thường Phước 2 và xã Thường Thới Tiền
(thị trấn Thường Thới, năm 2010) huyện Hồng Ngự. Khu vực xói lở này nằm phía tả
ngạn sông Tiền, cách biên giới Campuchia khoảng 13km, cách thị trấn Tân Châu (An
Giang) khoảng 2 km, cách Biển Đông khoảng 230km. Đoạn xói lở này liên quan mật
thiết với khu vực xói lở phía hữu ngạn thuộc thị trấn Tân Châu (An Giang). Xói lở khu
vực này, có tốc độ vào loại mạnh nhất ở ĐBSCL. Đoạn xói lở này kéo dài với phạm vi
khoảng 6km và ăn sâu vào bờ lớn nhất là 1.492m, tốc độ xói lở trung bình năm (giai
đoạn 1965-2009) khoảng 30-40m/năm, làm biến đổi mạnh mẽ bờ sông trong khu vực.
b) Xói lở bờ sông Tiền đoạn thị xã Hồng Ngự
Xói lở ở bờ trái sông Tiền khu vực thị xã Hồng Ngự, cách Biển Đông khoảng 225km
theo chiều dài dòng chảy chính qua cửa Đại. Hiện tượng này xảy ra tại khu vực ven
sông Tiền, ngay tại đoạn bờ cửa sông Sở Thượng đổ vào. Trong những năm 1994, 1995
TRỊNH PHI HOÀNH – LÊ VĂN ÂN
58
và 1997 khu vực thị xã Hồng Ngự có hàng chục điểm xói lở, kéo dài trên 10km. Những
năm lũ nhỏ 1998, 1999 hiện tượng xói lở bờ sông khu vực này có giảm. Đoạn xói lở
thuộc thị xã Hồng Ngự được xem là trọng điểm về xói lở vì khu vực bờ có dân cư đông
đúc, nhiều công trình xây dựng nên khi xói lở bờ sông xảy ra ảnh hưởng lớn đến cuộc
sống người dân.
c) Xói lở bờ sông Tiền khu vực thị xã Sa Đéc
Hiện tượng xói lở bờ sông Tiền khu vực Sa Đéc đã kéo dài trong nhiều năm với phạm
vi dài hơn 10km, tiến sát vào bờ trung bình 1-3km ở khu vực phường 3, 4 với tốc độ 30-
50m/năm. Vì thế, năm 1998, tỉnh Đồng Tháp đã phải đầu tư xây dựng một hệ thống
công trình bảo vệ bờ sông gồm một đập ngăn rạch Nhà Thương dài 100m, cao 8m ngăn
dòng chảy từ sông Tiền tác dụng trực tiếp vào khu phố chợ, một tuyến kè dài 944m và
một kênh đào rộng 80m dài 478m. Hiện nay, từ rạch Ông Thung đến rạch Thông Lưu đã
ổn định nhờ tác dụng của cồn Cái Bè, từ rạch Thông Lưu đến đập khóa Sa Đéc đang đi
vào thế ổn định mặc dù hiện nay xói lở với quy mô nhỏ. Xói lở nghiêm trọng nhất là
khu vực từ rạch Nhà Thương (phường 4) đến xã An Hiệp (Châu Thành); phường Tân
Quy Đông đang bị xói lở với quy mô lớn.
Ngoài ba khu vực xói lở trọng điểm nêu trên thì ở Đồng Tháp, xói lở bờ sông Tiền còn
diễn ra ở các khu vực thuộc huyện Tam Nông, Thanh Bình, Cao Lãnh, Lấp Vò, Lai
Vung, Châu Thành và thành phố Cao Lãnh. Ở phía bờ hữu sông Tiền, tại cù lao Tây
(Tân Bình, Tân Quới, huyện Thanh Bình) xói lở xảy ra mạnh khu vực bến đò Ấp 3 xã
Tân Qưới, sâu vào bờ từ 8-10m/năm. Tại xã An Hiệp (Châu Thành) xói lở kéo dài 2-
3km, tốc độ xói lở sâu vào bờ tới 30m/năm. Các khu vực bị xói lở nhỏ hơn 20m/năm
như Bình Thạnh, Mỹ Xương (Cao Lãnh)
Hình 1. Xói lở bờ sông Tiền xã
Long Thuận, huyện Hồng Ngự
Hình 2. Xói lở bờ sông Tiền phá
vỡ bậc kè thị xã Hồng Ngự
Hình 3. Xói lở bờ sông Tiền đầu
cù lao Chải, thành phố Cao Lãnh
2.1.2. Thực trạng xói lở theo thời gian
Xói lở bờ sông ở ĐBSCL nói chung và trên sông Tiền đoạn chảy qua lãnh thổ tỉnh
Đồng Tháp nói riêng có xu hướng gia tăng cả về số lượng và quy mô các điểm xói lở
lẫn tốc độ xói lở. Giai đoạn 1895-2004, các hố xói tại Sa Đéc đều phát triển sâu thêm,
hố xói tại khúc cong thị xã Sa Đéc đã được dòng chảy đào sâu thêm 15m trong khoảng
thời gian 1895-2000, hố xói tại Mỹ Thuận sâu thêm 28,45m (1895-2003) [1], [4]. Trước
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP...
59
năm 2000, sông Tiền mới có 16 điểm xói lở thì đến nay đã có hơn 53 điểm xói lở được
xác định.
Các khu vực xói lở sông Tiền tỉnh Đồng Tháp vẫn được dự báo tiếp tục xảy ra xói lở
với nhiều mức độ khác nhau, quy mô lớn. Trong đó, tốc độ trung bình giai đoạn 1966–
2008 mạnh nhất thuộc các khu vực Thường Phước – Thường Thới Tiền (Hồng Ngự) với
34,7m/năm và khu vực Sa Đéc 33,3m/năm. Các khu vực còn lại có tốc độ xói lở dưới
10m/năm.
Xói lở bờ sông diễn ra cả về mùa lũ lẫn mùa kiệt. Tuy nhiên, vào mùa lũ tốc độ xói lở
diễn ra nhanh và mạnh hơn. Sau các tháng mùa lũ, tình hình xói lở xảy ra nghiêm trọng
hơn so với các tháng mùa kiệt. Đồng thời, những năm lũ lớn như năm 2000, hiện tượng
xói lở bờ sông Tiền thêm phức tạp và phạm vi rộng lớn hơn ở các khu vực Thường
Phước; Hồng Ngự, Sa Đéc, những năm lũ nhỏ 1998, 1999 thì xói lở xảy ra ở mức độ ít
hơn cả về quy mô lẫn phạm vi. Đầu mùa mưa, lũ năm 2011, xói lở đã xảy ra mạnh ở
đoạn sông Tiền xã Long Thuận (huyện Hồng Ngự), xã Tân Quới (huyện Thanh Bình)
và xã An Hiệp (huyện Châu Thành).
Trong những năm 90 (XX), tình trạng xói lở bờ sông chủ yếu xảy ra trong mùa lũ
nhưng hiện nay, xói lở diễn ra cả trong mùa lũ lẫn mùa kiệt. Năm 1994, sau mùa lũ xuất
hiện thêm 4 điểm xói lở mới, còn trong mùa kiệt chỉ có thêm 1 điểm xói lở mới. Năm
2000 – năm lũ lịch sử ở ĐBSCL, sau mùa lũ xuất hiện 7 điểm, mùa kiệt có 2 điểm xói
lở mới thì đến năm 2009, trong mùa lũ có 6 điểm và mùa kiệt có 4 điểm xói lở mới.
Xét trên toàn tuyến sông Cửu Long nói chung và ở sông Tiền tỉnh Đồng Tháp nói riêng
cho thấy, những đoạn sông chịu ảnh hưởng chính của thủy triều hiện tượng xói lở bờ chỉ
xảy ra chủ yếu vào thời kỳ triều cường, cuối mùa gió chướng hay sau những trận bão
lớn. Những đoạn sông chịu ảnh hưởng của dòng chảy thượng nguồn là chính, xói lở
thường xảy ra vào các tháng cuối mùa lũ và các tháng đầu mùa khô [3].
2.2. Nhân tố tác động gây xói lở bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp
Nguyên nhân gây xói lở bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp là sự tương tác giữa lòng dẫn, vật
chất cấu tạo lòng dẫn và dòng chảy sông nên những nhân tố làm thay đổi chúng này sẽ
tác động đến hoạt động xói lở bờ sông [1], [2], [4], [7].
2.2.1. Nhóm nhân tố tự nhiên
a) Nhân tố địa chất
Lịch sử phát triển địa chất của tỉnh Đồng Tháp có cùng chung lịch sử phát triển với
vùng ĐBSCL với sự thành tạo của phù sa cổ (trầm tích Pleistocen) và phù sa mới (trầm
tích Holocen) qua quá trình bồi lắng trầm tích biển và phù sa của sông Cửu Long. Ở
Đồng Tháp, cấu trúc địa chất thổ nhưỡng vùng ven bờ sông Tiền thuộc trầm tích
Holocen chủ yếu là trầm tích sông - đầm lầy (ab1Q42-3, phân bố dọc theo sông, nằm sau
các đê tự nhiên, được hình thành do lũ lụt với vật liệu chính là sét) và trầm tích sông của
đê tự nhiên (a2Q42-3, được hình thành do lũ lụt hàng năm khi nước sông tràn qua bờ, phù
sa tích đọng lại).
TRỊNH PHI HOÀNH – LÊ VĂN ÂN
60
Sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng Tháp cắt qua các trầm tích bở rời với hai tập trầm
tích: (i) tập trên là sét bột hoặc bột sét pha cát, dày 18-21m, tập này có tính ổn định cơ
học thấp (giá trị dung trọng tự nhiên rất thấp: 1,5g/cm3, dung trọng khô nhỏ hơn
1,0g/cm3, lực kết dính nhỏ 0,1kg/cm2, góc ma sát trong lớn nhất đạt 7-80) dễ bị mất liên
kết trong môi trường nước do tính tan rã cao và dễ nhạy cảm với tác động bên ngoài vì
tính xúc biến; (ii) tập dưới là cát dày 13-25m, tầng này chứa nước tương đối, có áp lực
thấm và quan hệ thủy lực với nước sông Tiền, khi chế nước chảy sông Tiền thay đổi,
tầng nước ngầm trong cát cũng sẽ thay đổi, cát hạt cát bị xáo động dễ phát sinh hiện
tượng cát chảy dẫn đến xói lở bờ sông; mặt khác, khi bị tác động của dòng nước có vận
tốc 0,5-3,0m/s, các tập cát này bị rửa trôi nhanh hơn so với tập sét phía trên (do vận tốc
cho phép xói thấp), tạo nên các hàm ếch, tiềm ẩn nguy cơ sụp lở bờ khi chịu tác động
gia tải mép bờ sông.
Sông Tiền chảy theo một đứt gãy dạng vòm (ôm lấy rìa khối nâng vòm Đông Nam Bộ),
lòng sông uốn khúc, đổi dòng liên tục lại bị phức tạp hóa bởi các đứt gãy cục bộ hướng
á kinh tuyến, á vĩ tuyến, tây bắc - đông nam và đông bắc - tây nam. Sự uốn khúc, đổi
dòng của sông Tiền đã tạo nên hiện tượng diễn biến lòng sông và xói lở bờ sông nhất là
những đoạn sông co hẹp và khu vực đỉnh cong.
b) Nhân tố địa hình – địa mạo
Sông Tiền tỉnh Đồng Tháp nằm ở vùng hạ châu thổ của hệ thống sông Mê Kông nên
nhìn chung có địa hình lưu vực khá bằng phẳng (độ cao biến đổi từ 1-5m, bình quân
2m), chênh lệch độ dốc không lớn (độ dốc đồng bằng trung bình là 1,0cm/km). Độ dốc
của sông Tiền thay đổi theo từng đoạn, độ dốc bình quân khoảng 2,5cm/km [1]. Trắc
diện dọc của sông Tiền cho thấy rất nhiều sự biến đổi đột ngột về độ sâu của đáy do sự
sắp xếp luân phiên của các vực sâu và bãi nông, sự sắp xếp này rất phù hợp với hình
thái của sông. Các vực sâu thường thấy ở các lòng sông chính đoạn uốn khúc, dòng
nước ở đây mang tính chất chảy rối, đặc biệt vào mùa lũ. Độ sâu của sông ở các khu vực
này nhiều nơi đạt 30-40 m.
Những đặc điểm trên của địa hình – địa mạo đã góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho xói
lở bờ sông, bồi lắng lòng dẫn phát triển mạnh ở sông Tiền tỉnh Đồng Tháp (địa hình
bằng phẳng làm tăng cường dòng chảy ngang; sự tồn tại nhiều cù lao như cù lao Long
Khánh, cù lao Giêng, cù lao Chải... làm thay đổi kết cấu dòng chảy; sự tồn tại nhiều
khúc uốn là điều kiện lý tưởng cho xói bồi xảy ra do hợp lực của dòng chảy sẽ hướng về
bờ lõm tạo nên dòng chảy ngang kết hợp với vật chất cấu tạo bờ sông Tiền bở rời và
mềm yếu) do sự thay đổi luân phiên vai trò của các tác nhân (mùa mưa do lũ là chính;
mùa cạn ảnh hưởng của triều là chủ yếu).
c) Nhân tố khí hậu
Lưu vực sông Mê Kông chủ yếu nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, có
mùa mưa, khô rõ rệt. Lượng mưa hàng năm khá lớn (trên 1.670mm) nhưng phân bố
không đều theo không gian và thời gian, lượng mưa nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn vào
hoạt động của gió mùa Tây Nam mạnh hay yếu. ĐBSCL nói chung và Đồng Tháp nói
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP...
61
riêng nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, có hai mùa mưa, khô rõ rệt. Mùa mưa với
gió mùa Tây Nam từ tháng V-XI, mùa khô với gió mùa Đông Bắc từ tháng XII-IV năm
sau. Vì thế, các đặc điểm khí hậu: nhiệt độ trung bình các tháng trong năm khoảng
270C; lượng mưa trung bình năm khoảng 1.500mm (mùa mưa chiếm trên 90% tổng
lượng mưa năm); độ ẩm không khí khoảng 83%; lượng bốc hơi bình quân 3,1mm/ngày
cũng đều phân hóa sâu sắc theo mùa [7].
Sự phân hóa sâu sắc theo mùa của khí hậu ảnh hưởng trực tiếp đến xói lở bờ sông Tiền
tỉnh Đồng Tháp thông qua tác dụng làm phong hóa hóa học đất bờ sông (làm cho đất bị
thiếu nước, dễ nứt vỡ; mùa mưa dễ làm đất chảy nhào) và gió thổi ở các vùng cửa sông
(ở các cửa sông có mặt nước rộng trên 1km, gió có vận tốc khá lớn - vận tốc trung bình
20m/s, duy trì trong thời gian dài từ tháng IX-IV năm sau, đã tạo nên áp lực và vận tốc
dòng chảy lớn, làm bùn cát tách ra khỏi bộ phận bờ sông và vận chuyển đi nơi khác),
vừa ảnh hưởng gián tiếp thông qua chế độ thủy văn mà cụ thể là dòng nước của sông.
d) Nhân tố thủy văn
Đặc điểm thủy văn của ĐBSCL chịu sự chi phối của lũ, mưa nội đồng và thủy triều nên
hàng năm hình thành hai mùa: mùa lũ gần trùng với mùa mưa và mùa kiệt trùng với
mùa khô. Mùa lũ xuất hiện ở Đồng Tháp từ tháng VII-XI vào loại sớm nhất của vùng
ĐBSCL. Trong mùa lũ thường gây xói lở lớn do mùa lũ ở ĐBSCL thường kéo dài 2-3
tháng và lưu lượng khá lớn (lưu lượng mùa lũ trung bình nhiều năm khoảng 20.000-
26.000m3/s), mùa lũ vận tốc dòng chảy tại Tân Châu là 2,7m/s gấp năm lần vận tốc cho
phép không xói của bờ; ở Mỹ Thuận là 2,45m/s vượt gấp bốn lần vận tốc cho phép
không xói của bờ sông. Mùa kiệt nối tiếp sau mùa lũ từ khoảng tháng XII-VI (năm sau),
vận tốc dòng chảy mùa này cũng vượt mức cho phép không xói 2,5 lần ở Sa Đéc là
1,1m/s; Mỹ Thuận đạt 1,2m/s (bảng 2).
Bảng 2. Vận tốc dòng chảy sông Tiền và vận tốc cho phép không xói của bờ sông (Đơn vị: m/s)
Vị trí bờ
Mùa lũ Mùa kiệt
Vận tốc trung bình
dòng chảy sông
Vận tốc cho phép
không xói bờ sông
Vận tốc trung bình
dòng chảy sông
Vận tốc cho phép
không xói bờ sông
Tân Châu 2,70 0,58
Sa Đéc 2,40 0,58 1,10 0,58
Mỹ Thuận 2,45 0,55 1,20 0,64
Nguồn: [4]
Ngoài ra, sông còn chịu ảnh hưởng của chế độ bán nhật triều Biển Đông và chế độ nhật
triều không đều của vịnh Thái Lan (trong mùa kiệt tốc độ truyền triều trên sông Tiền từ
Biển Đông đến Hồng Ngự khoảng 25-30km/giờ, biên độ triều trung bình 20-25cm (lớn
nhất có thể đạt 100 cm); ảnh hưởng của biến đổi khí hậu, nước biển dâng càng làm cho
chế độ thủy văn thêm phức tạp (tăng cường dòng chảy rối, đặc biệt khu vực tranh chấp
giữa dòng chảy thượng nguồn và triều như ở thành phố Cao Lãnh, thị xã Sa Đéc, Mỹ
Thuận), góp phần gia tăng cường độ, phạm vi xói lở bờ sông Tiền; diễn ra cả trong mùa
lũ lẫn mùa kiệt.
TRỊNH PHI HOÀNH – LÊ VĂN ÂN
62
e) Nhân tố thảm thực vật
Thực vật trong lưu vực gồm hai nhóm chính là rừng thường xanh và rừng rụng lá. Ở
ĐBSCL, chủ yếu là rừng ngập mặn (cây chính là đước, mắm) và rừng ngập chua phèn
(tiêu biểu là tràm). Ngoài ra, tùy dạng địa hình, mức độ ngập triều hay nhiễm mặn còn
có thể gặp nhiều quần thể thực vật khác. Thực vật tỉnh Đồng Tháp chỉ chiếm diện tích
nhỏ (chủ yếu là thực vật thứ sinh, nhân tác). Năm 2006, diện tích lâm nghiệp là
16.514ha (chiếm 4,89% diện tích tự nhiên, trong đó đất có rừng là 10.872ha chiếm
3,22% diện tích tự nhiên) và đang có xu hướng giảm (diện tích rừng năm 2008 là
8.975ha, năm 2010 còn 7.593ha [7]. Cây trồng chính là tràm, bạch đàn, phân bố chủ yếu
ở các huyện Tam Nông, Tháp Mười, Tân Hồng.
Thảm thực vật như vậy nên khả năng điều tiết nguồn nước hạn chế, mùa lũ nước tập
trung nhanh, lại bị ngập lâu ngày nên đất bờ sông dễ bị tan rã, khả năng cản giữ vật chất
bờ và giảm tác động trực tiếp của nước mưa bị suy giảm; mùa khô khả năng cung cấp
nước ít nên đất ven bờ thiếu nước bị nứt vỡ nên dễ gây xói lở bờ sông.
2.2.2. Nhóm nhân tố kinh tế - xã hội
Hoạt động kinh tế, nhất là các ngành nông nghiệp (nuôi trồng thủy sản), dịch vụ (giao
thông vận tải đường sông), công nghiệp – xây dựng (hoạt động khai thác cát sạn) và các
hoạt động dân sinh khác cũng tác động mạnh mẽ, góp phần tăng cường mức độ và quy
mô xói lở.
a) Hoạt động giao thông vận tải đường sông
Năm 2005, tỉnh có 4.695 ghe vận tải có năng lực 57.672 tấn; 395 ghe thuyền có 10.813
ghe chở khách và một số xà lan, tàu kéo, thuyền máy; có trên 150 bến tàu, bến phà [7].
Qua tính toán ở một số sông vùng ĐBSCL cho thấy các loại ghe tàu có tải trọng trên 5
tấn khi chạy trên sông đều gây ra dòng chảy ngược có tốc độ dòng chảy lớn hơn vận tốc
khởi động bùn cát của lòng dẫn (Vkđ = 0,3-0,6m/s). Đối với dòng chảy ngược, tàu có tải
trọng từ lớn hơn 15 tấn có tốc độ lớn nhất gần bờ gấp 1,5-5,0 lần so với vận tốc khởi
động bùn cát lòng dẫn.
Nhìn chung, sóng do tàu thuyền gây ra xói lở bờ sông thường có khối lượng nhỏ bé, ít
nguy hiểm nhưng diễn ra liên tục vì thế cũng ảnh hưởng đáng kể như bồi lấp nâng cao
đáy sông tại chỗ; Xói lở, bồi lắng xuống tại vị trí lòng dẫn...
b) Các công trình nhân tạo trên và ven sông
Nuôi trồng thủy sản rất phát triển ở Đồng Tháp. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2010
là 4.483 ha, dự kiến năm 2020 ổn định khoảng 15.350 và 1.850 bè nuôi và 1.500
phương tiện với tổng công suất 12.750 tấn, trong đó diện tích nuôi trồng trên sông Tiền
là khá lớn [7].
Nuôi bè cá thiếu quy hoạch trên sông vùng ĐBSCL nói chung và trên sông Tiền nói
riêng cũng thuộc loại tác động gây hại cho bờ sông. Việc đặt các bè cá có chiều dài
khoảng 15-20m, rộng 5-10m giữa sông Tiền đã thu hẹp mặt cắt thủy lực, cản và chuyển
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP...
63
hướng dòng chảy, góp phần gây xói lở bờ sông ở một số vị trí. Trường hợp đặt ở cửa
sông, tác dụng bè cá như một mỏ hàn mềm lái dòng một cách không mong muốn, gây
xói lở bờ đối diện.
Ngoài ra, các đô thị lớn của tỉnh Đồng Tháp đều nằm cạnh sông Tiền (do quá trình đô
thị hóa, dân số tăng nhanh mặt khác khu vực ven sông thuận lợi cho hoạt động giao lưu,
buôn bán nên khu vực ven bờ sông Tiền mật độ dân cư khá đông đúc) nên nhiều khu
vực người dân xây dựng các công trình sát mép bờ sông, lấn chiếm lòng sông làm gia
tăng tải trọng lên mép bờ, thúc đẩy quá trình xói lở xảy ra.
c) Hoạt động khai thác cát sạn
Cát sạn là vật liệu xây dựng không thể thiếu ở ĐBSCL, nhất là giai đoạn làm móng do
nền địa chất chưa ổn định, đó là chưa kể khai thác cát sạn để xuất khẩu. Vì thế, hoạt
động khai thác cát sạn diễn ra mạnh mẽ trên sông Tiền tỉnh Đồng Tháp. Với hàng trăm
ghe thuyền khai thác cát sạn mỗi ngày và công suất của các doanh nghiệp được cấp
phép khai thác cát sạn ở Đồng Tháp trung bình 5.133m3/năm. Đó là chưa kể nhiều hoạt
động khai thác cát sạn không được cấp phép ngày đêm vẫn khai thác cát sạn trên sông
Tiền, nhất là khu vực biên giới Campuchia. Lượng cát bùn khai thác lớn sẽ làm thay đổi
hình thái lòng dẫn, dẫn đến thay đổi chế độ nước và vì thế diễn biến lòng dẫn là không
tránh khỏi. Khai thác cát đầu cù lao sẽ làm thay đổi tỷ lệ phân lưu dòng chảy cũng gây
xói bồi. Khai thác cát sạn đầu cù lao Long Khánh, theo tính toán cũng như quan trắc
thực tế gây xói bồi.
d) Các hoạt động dân sinh khác
Các hoạt động dân sinh khác như sử dụng nguồn nước lớn (sản xuất và đời sống) trong
mùa khô kiệt; khai thác đất ở khu vực xói lở hoặc có nguy cơ xói lở; hoạt động giao
thông và sản xuất ven sông (quốc lộ 30 chạy dọc theo sông Tiền đoạn thành phố Cao
Lãnh – Hồng Ngự) làm thay đổi kết cấu và hướng dòng chảy, gia tăng tải trọng mép
bờ sông, tạo điều kiện thuận lợi cho xói lở xảy ra.
2.3. Định hướng giải pháp phòng tránh, giảm nhẹ thiệt hại do xói lở bờ sông Tiền
tỉnh Đồng Tháp
Từ kết quả nghiên cứu thực trạng và nguyên nhân gây xói lở bờ và quán triệt các
nguyên tắc (tôn trọng tự nhiên, tổng hợp, phù hợp thực tiễn và hiệu quả kinh tế) đồng
thời kế thừa giải pháp của các nhà khoa học trong và ngoài nước với điều kiện thực tế
địa phương theo chúng tôi, để hạn chế biến động bờ và giảm nhẹ thiệt hại do xói lở bờ
sông Tiền thì tỉnh Đồng Tháp phải thực thi tổng thể các giải pháp sau:
2.3.1. Nhóm giải pháp phòng ngừa
Mục đích của giải pháp phòng ngừa là nhằm hạn chế sự bất lợi của dòng chảy gây ra,
nhằm giảm mức độ tập trung nước nhanh, lưu tốc lớn cũng như cảnh báo sớm tác hại và
cách phòng tránh cho người dân. Giải pháp ngăn ngừa thường bao gồm các biện pháp sau:
TRỊNH PHI HOÀNH – LÊ VĂN ÂN
64
- Giáo dục nâng cao nhận thức của chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư
sống ven sông Tiền về nguyên nhân, mức độ thiệt hại và cách phòng tránh, xử lý
xói lở bờ sông.
- Trồng và bảo vệ rừng, nhất là ở những khu vực ngập nước chua phèn. Bên cạnh
đó, những khu vực xói lở nhỏ, dân cư tập trung ít như các khu vực xói lở ở huyện
Cao Lãnh, Lấp Vò, xã An Nhơn (Châu Thành) tăng cường trồng thảm thực vật
như bèo, đước, dừa nước
- Tiến hành quy hoạch các tuyến luồng chạy tàu, không gia tải quá mức lên mép sông.
- Hoàn thiện hệ thống pháp luật để là hạn chế tình trạng khai thác cát sạn quá mức,
nuôi trồng thủy sản thiếu quy hoạch
- Tăng cường hợp tác (giữa các địa phương trong khu vực, giữa các quốc gia có
chung lưu vực) trong khai thác và sử dụng sông Mê Kông nói chung và sông Tiền
tỉnh Đồng Tháp theo hướng đảm bảo lợi ích hài hòa và phát triển bền vững cũng
như trong nghiên cứu, xử lý xói lở bờ sông (giữa chính quyền địa phương, nhân
dân và giữa các nhà khoa học).
2.3.2. Nhóm giải pháp né tránh
Bao gồm các biện pháp: dự báo hành lang, cảnh báo nguy cơ xói lở; di dời người dân ra
khỏi khu vực có nguy cơ xói lở và quy hoạch phát triển phù hợp.
- Phạm vi an toàn để né tránh xói lở bờ sông Tiền tỉnh Đồng Tháp được nhiều tác
giả xác định như sau: (i) phạm vi an toàn ≥ 20m đối với sông sâu h < 10m và hệ
số mái dốc ≥ 2; (ii) phạm vi an toàn ≥ 25m đối với sông sâu 10m ≥ h ≤ 15m và hệ
số mái dốc ≥ 2; (iii) phạm vi an toàn lớn ≥ 30m đối với sông sâu > 15m và hệ số
mái dốc ≥ 2 [4]. Vì thế, tỉnh Đồng Tháp cần có kế hoạch di dời người dân ở khu
vực các xã đầu cù lao huyện Hồng Ngự (Long Thuận, Long Khánh); xã Tân Quới,
An Phong (Thanh Bình); xã An Hiệp (Châu Thành) ra khỏi khu vực có nguy cơ
xói lở cao.
- Dựa trên thực trạng xói lở, sự biến thiên các nhân tố gây xói lở theo chúng tôi
trong quy hoạch phát triển các đô thị cần có sự thay đổi như sau: (i) thị trấn
Thường Thời huyện Hồng Ngự nằm ở bờ trái sông Tiền cần sớm có kè bảo vệ; (ii)
thị xã Hồng Ngự cần dịch chuyển về phía bắc cách bờ trái sông Tiền 1.000m và
cách bờ phải kênh Hồng Ngự - Long An 500m; (iii) thị xã Sa Đéc tiếp tục phát
triển theo hướng quốc lộ, cách rạch Sa Đéc khoảng 800m.
2.3.3. Nhóm giải pháp kháng vệ
Giải pháp kháng vệ (kháng đỡ và bảo vệ) thực chất là các giải pháp công trình thực thi
tại các vùng xói lở hoặc có nguy cơ xói lở cao. Giải pháp kháng vệ bao gồm các biện
pháp sau:
- Gia cố bờ có thể sử dụng các biện pháp thảm thực vật (cây dừa, cây mắm, đước,
bần, các loài bèo, thảm lục bình... rất phù hợp với tỉnh Đồng Tháp ở những khu
XÓI LỞ BỜ SÔNG TIỀN ĐOẠN CHẢY QUA TỈNH ĐỒNG THÁP...
65
vực huyện Tam Nông, Thanh Bình, Cao Lãnh); kè lát mái (kè lát mái, kè đá xây,
kè rọ đá); tường chắn (cọc kè thường bằng bê tông hoặc cây gỗ như tràm, tre kết
hợp với thảm thực vật) nhằm tăng cường khả năng cố kết của bờ, giảm sức chịu
tải của mép bờ. Các phương pháp này được sử dụng khá phổ biến và có hiệu quả
cho bờ sông tỉnh Đồng Tháp trong đó bờ kè là giải pháp hiệu quả nhất nhưng khó
khăn là nguồn kinh phí và sự ổn định lâu dài của công trình.
- Kênh, rạch phân dòng có tác dụng phân bớt dòng chảy vào kênh, dòng chảy qua
khu vực xói lở giảm. Kênh thường được đào ở phía bờ lồi, cửa vào sông thuận
dòng ở phía thượng lưu khu vực xói lở bờ. Thi công kênh chỉ cần đào rãnh nhỏ,
khơi sâu dòng, sau đó dòng chảy tự mở rộng mặt cắt. Kênh phân dòng có thể sử
dụng ở đoạn sông Tiền phía trên thị xã Hồng Ngự.
- Mỏ hàn là loại công trình được sử dụng rộng rãi nhất trong chỉnh trị sông. Bao
gồm hai loại là mỏ hàn dài và mỏ hàn ngắn. Mỏ hàn dài có tác dụng thu hẹp lòng
sông, làm thay đổi vị trí của trục động lực, còn mỏ hàn ngắn chỉ để đón đỡ chủ
lưu, bảo vệ bờ bãi. Vật liệu làm mỏ hàn thông dụng nhất là đá đổ, bao tải cát cùng
lớp rọ đá để bảo vệ hay hàng cọc bê tông. Mỏ hàn có thể sử dụng để chỉnh trị sông
Tiền khu vực thị xã Hồng Ngự, Sa Đéc, Mỹ Thuận.
- Đập thuận dòng là công trình theo phương dọc có chức năng thu hẹp dòng sông,
điều chỉnh hướng dòng chảy, điều chỉnh đường bờ. Đập thuận dòng thường bố trí
tại các đoạn quá độ có dòng chảy phân tán, vùng phân lưu hoặc hợp lưu của đoạn
sông phân lạch, đuôi bờ lõm và vùng cửa sông. Đập thuận dòng có thể bố trí ở
đoạn thị xã Hồng Ngự nơi sông Sở Thượng đổ vào sông Tiền, đoạn sông Tiền
chia nước cho sông Sa Đéc, đầu cù cù lao Long Khánh
- Phao hướng dòng có tác dụng lái dòng chảy, ngăn dòng chảy có lưu tốc lớn tác động
trực tiếp vào khu vực bờ bị xói lở. Phao hướng dòng là một loại công nghệ mới có
nhiều ưu điểm (sử dụng hiệu quả trong điều kiện chỉnh trị dòng chảy theo hai chiều,
có khả năng sử dụng nhiều lần, ở nhiều vị trí và có khả năng tháo lắp dễ dàng).
3. KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên cho thấy, xói lở bờ sông Tiền đoạn chảy qua tỉnh Đồng
Tháp đang diễn ra rất phổ biến với cường độ mạnh, phạm vi rộng lớn và quy mô ngày
càng gia tăng. Thực trạng xói lở bờ sông Tiền chảy qua tỉnh Đồng Tháp như vậy là do
sự tác động tổng thể của các nhân tố (tự nhiên và KT - XH) tạo điều kiện thuận lợi cho
xói lở trên toàn lưu vực và tại địa phương thông qua mối quan hệ giữa lòng dẫn, vật
chất cấu tạo lòng dẫn và dòng chảy của sông.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng và phân tích nguyên nhân gây xói lở bờ sông Tiền, theo
chúng tôi để hạn chế sự biến đổi bờ sông Tiền, đảm bảo phát triển sản xuất, ổn định đời
sống, ngoài những giải pháp phải thực hiện đồng bộ trên toàn hệ thống sông thì tại đoạn
bờ sông Tiền thuộc địa phận tỉnh Đồng Tháp cần thực thi tổng thể các giải pháp đã định
hướng ở trên.
TRỊNH PHI HOÀNH – LÊ VĂN ÂN
66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Ngọc Bích (2008). Một số vấn đề về động lực học sông, chỉnh trị sông và bảo vệ
bờ biển - tuyển tập các bài viết và công trình nghiên cứu (1964–2008), NXB Nông
Nghiệp.
[2] Trịnh Phi Hoành (2011). Các nhân tố tác động xói lở bờ sông Tiền đoạn chảy qua
lãnh thổ tỉnh Đồng Tháp. Thông tin khoa học, Trường Đại học Đồng Tháp, (01)/2011.
[3] Lê Mạnh Hùng, Đinh Công Sản (2002). Xói lở bờ sông Cửu Long và giải pháp phòng
tránh cho các khu vực trọng điểm. NXB Nông nghiệp.
[4] Lê Mạnh Hùng (2008). Xói bồi hệ thống sông rạch vùng ĐBSCL. NXB Nông Nghiệp.
[5] Le Manh Hung, Hitoshi Tanaka, Nguyen Trong Tu, Nguyen Trung Viet (2006).
Prediction of riverbank erosion in the lower Mekong river delta. Vietnam – Japan
Estuary workshop, Hanoi, Vietnam.
[6] Lam Dao Nguyen, Nguyen Thanh Minh, Pham Thi Mai Thy, Hoang Thi Phung,
Hoang Van Huan (2010). Analysis of changes in riverbank of Mekong river, Vietnam
by using multi - temporal remote sensing data. 29/03/2011.
[7] UBND tỉnh Đồng Tháp, Viện Quy hoạch Thủy lợi miền Nam (2008). Báo cáo Quy
hoạch nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Đồng Tháp đến năm 2020. TP. HCM.
[8] Pham Bach Viet, Lam Dao Nguyen and Ho Dinh Duan (2002). Using remotely
sensed data to detect changes of riverbank in Mekong river, Vietnam.
29/03/2011.
Title: RIVERBANK EROSION OF TIEN RIVER FLOWING INTO DONG THAP
PROVINCE. REAL SITUATION, CAUSES AND SOLUTIONS
Abstract: Riverbank erosion hazard has occurred commonly in Tien river which flows through
the territorial of Dong Thap province with strong intensity and huge range. Causes of the real
situation are impact of natural and economic - social factors in the basin and the local through
the relationship between river bed and river flows On the basis of evaluating the real situation
and analysing the causes of riverbank erosion, we propose three overall groups of solution for
preventing and mitigating damage, including: group of prevention solution, group of avoidance
solution, group of protection solution.
ThS. TRỊNH PHI HOÀNH
Trường Đại học Đồng Tháp
Điện thoại: 0987.45.1234. Email: tphoanh.geography.vn@gmail.com
TS. LÊ VĂN ÂN
Khoa Địa lý, Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 13_181_trinhphihoanh_levanan_11_trinh_phi_hoanh_dia_tn_467_2020964.pdf