Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả Guy M và cộng sự
(2009), Wahbeh AM và cộng sự (2009) [3].
Khi chia các mức protein niệu ra 3 mức >
0,15 g/24 giờ, > 0,20 g/24 giờ và > 0,30 g/24
giờ, tác giả cũng thấy rằng khả năng phù hợp
chần đoán của 2 phương pháp cũng khá cao
với độ nhạy từ 76 – 92 %, độ đặc hiệu cao từ
70 – 93%, giá trị dự báo dương tính từ 69 –
96% và giá trị dự báo âm tính từ 62 – 94%
Như vậy, tỉ số P/C với độ tin cậy cao so với
phương pháp tham chiếu, có ưu điểm là sử
dụng nước tiểu bãi, tránh được các phiền
phức và sai số do việc lấy mẫu nước tiểu 24
giờ gây ra. Đặc biệt nếu như chỉ số này được
làm trên máy tự động thì sẽ nhanh chóng,
tiện lợi và kinh tế hơn nhiều và rõ ràng đó là 1
chỉ số hết sức cần thiết đối với các nhà lâm
sàng trong việc sàng lọc protein niệu cũng
như đánh giá, theo dõi quá trình điều trị bệnh
nhân có tổn thương thận. Với điều kiện của
BVĐKTW Thái Nguyên hiện nay, chúng tôi
kiến nghị nên đưa chỉ số P/C vào xét nghiệm
thường quy đề chẩn đoán sớm và theo dõi
điều trị các bệnh thận
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định protein niệu bằng tỉ số protein/creatinin nước tiểu bãi trên bệnh nhân các khoa nội Bv ĐKTƯ Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Văn Tỉnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 135 - 139
135
XÁC ĐỊNH PROTEIN NIỆU BẰNG TỈ SỐ PROTEIN/CREATININ
NƯỚC TIỂU BÃI TRÊN BỆNH NHÂN CÁC KHOA NỘI
BV ĐKTƯ THÁI NGUYÊN
Nguyễn Văn Tỉnh 1*, Nguyễn Tiến Dũng2, Nguyễn Thị Kim Yến1
1Trường ĐH Y-Dược TN
2Bệnh viện ĐKTWTN
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá độ tin cậy cậy của phương pháp xác định protein niệu bằng tí sô' P/C nước
tiểu bãi.
Phương pháp nghiên cứu: mô tả.
Kết quả và kết luận: phương pháp này phù hợp chẩn đoán với phương pháp tham chiếu ở mức độ
cao (hệ số kappa = 0,81). Độ nhạy là 92%, độ đặc hiệu 81%, giá trị dự báo dương tính là 87%, giá
trị dự báo âm tính là 88%.
Từ khoá: protein niệu, tỉ số protein/creatinin, nước tiều 24 giờ, nước tiểu bãi.
ĐẶT VẤN ĐỀ*
Protein niệu là một xét nghiệm dùng để xác
định tổn thương thực thể của thận, rất quan
trọng trong chần đoán ban đầu và tiên lượng
các giai đoạn tiếp theo của bệnh lý cầu thận
và một số bệnh ngoài thận.
Phương pháp phát hiện protein niệu được
dùng phổ biến hiện nay là que thử với mẫu
nước tiểu ngẫu nhiên, có thể phát hiện protein
ở ngưỡng 15-30 mg/dl. Đây chỉ là phương
pháp bán định lượng có giá trị sàng lọc ban
đầu, độ nhạy và độ đặc hiệu thấp do sự bài
tiết nước tiểu thay đổi trong ngày và nồng độ
protein phụ thuộc vào độ đậm đặc của nước
tiểu. Việc theo dõi và điều trị cho đến nay vẫn
phải dựa vào tiêu chuẩn vàng là định lượng
protein niệu 24 giờ. Tuy nhiên, việc thu thập
nước tiều 24 giờ có nhiều bất tiện, đặc biệt là
đối với bệnh nhân ngoại trú, bệnh nhân là trẻ
em, các bệnh nhân vô niệu... Thêm vào đó,
quá trình thu thập nước tiểu 24 giờ có nhiều
yếu tố có thể gây sai số [3].
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh nồng độ
creatinin nước tiểu có thề dùng đề hiệu chỉnh
sự thay đổi độ đậm đặc của các mẫu nước tiều
ngẫu nhiên, bởi sự bài tiết creatinin hằng ngày
là tương đối hằng định. Theo nhiều nghiên
cứu và hướng dẫn thực hành lâm sàng trong
thời gian gần đây, tỉ số protein/creatinin (P/C)
*
của nước tiếu ngẫu nhiên là một chỉ số có thể
dùng để ước tính lượng protein bài tiết qua
nước tiều trong 24 giờ [1], [4], [5], [6], [7].
Để đánh giá khả năng phù hợp chần đoán của
tỉ số P/C nước tiều bãi so với phương pháp
tham chiếu (định lượng protein nước tiều 24
giờ), đồng thời giới thiệu với các bác sỹ thông
số mới P/C để đánh giá mức protein niệu - tin
cậy, chính xác, tiện lợi có thề phát hiện sớm
và theo dõi điều trị cũng như tiên lượng các
bệnh về thận, chúng tôi tiến hành đề tài này
với mục tiêu:
Đánh giá độ tin cậy của phương pháp xác
định protein niệu bằng tí sô'P/C nước tiểu bãi
ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP
Đối tượng nghiên cứu
Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bệnh nhân có nhiều
nguy cơ có protein niệu ở các mức độ khác
nhau (tăng huyết áp, đái tháo đường, viêm
cầu thận mạn có hội chứng thận hư hoặc
không) đang điều trị tại các khoa Nội -
BVĐKTƯ Thái Nguyên .
- Tiêu chuẩn loại trừ: Loại trừ các mẫu nước
tiểu của những bệnh nhân sau:
+ Có thai hoặc đang hành kinh.
+ Đái ít
2000ml/ngày.
+ Viêm đường tiết niệu.
+ Các trường hợp đang dùng các thuốc có thể
gây protein niệu dương tính giả.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Văn Tỉnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 135 - 139
136
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp lấy mẫu nghiên cứu
- Lấy mẫu nước tiểu 24 giờ: Vào 6h sáng
bệnh nhân ngủ dậy đi tiểu hết bãi, loại bỏ hết
mẫu nước tiểu này. Từ đó trở đi đến 6 giờ
sáng hôm sau, gom toàn bộ nước tiểu (kể cả
nước tiểu khi đi đại tiện, khi tắm) vào một
bình sạch có nắp đậy để chỗ mát. Đúng 6 giờ
sáng hôm sau, đi tiểu hết bãi bỏ vào bình.
Trộn đều nước tiểu trong bình và lấy khoảng
10ml nước tiểu để làm xét nghiệm.
- Lấy mẫu nước tiểu ngẫu nhiên: Lấy nước
tiểu buổi sáng sớm ngày hôm sau.
Các chỉ số nghiên cứu
- Đối với mẫu nước tiểu ngẫu nhiên:Sử dụng
máy đo quang phổ kế BTS 310 để:
+ Bán định lượng protein ở ngưỡng >30mg/dl
bằng chất chỉ thị tetrabromuaphenol và ở mức
>8mg/dl bằng thuốc thử (313"-diiodo-4',4"-
dihydroxy-5',5"-dinitrophenyl)-3,4,5,6-
tetrabromosulfonephthalein).
+ Bán định lượng creatinin dựa vào hoạt tính
peroxidase của phức hợp đồng và creatinin.
+ Tính toán tỉ lệ P/C: kết quả P/C >150mg/g,
>300mg/g, >500mg/g là protein niệu dương
tính.
- Đối với mẫu nước tiều 24 giờ:
+ Định lượng protein niệu bằng phương pháp
pyrogallol red-molybdate (PRl\4) trên máy
Olympus Au 400.
+ Định lượng microalbumin niệu bằng
phương pháp miễn dịch đo độ đục trên máy
Olympus AU 400 đối với những mẫu nước
tiếu 24 giờ có protein niệu < 200mg/ngày.
Mẫu nước tiểu được được xác định là protein
niệu âm tính khi đồng thời có protein < 0,2
g/24 giờ và microalbumin < 30 mg/24 giờ.
Phương pháp xử lý số liệu
Sử dụng phương pháp so sánh khả năng phù
hợp chẩn đoán của 2 nghiệm pháp, sử dụng
bảng chéo 2x2 và 4x4 tính:
- Độ nhạy (Sn), độ đặc hiệu (Sp ), giá trị dự
báo âm tính (NPV) và giá trị dự báo dương
tính (PPV).
- Độ phù hợp quan sát (Pa), độ phù hợp ngẫu
nhiên (Pe), hệ số Kappa (K)
KẾT QUẢ, BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm có 62 bệnh nhân.
Bảng 1. Phân bố theo tuổi và giới của nhóm đối
tượng nghiên cứu (n =62)
Nhóm tuổi
(năm) Nam Nữ Tổng
31- 40 1 1 2
41- 50 12 6 18
51- 60 15 2 17
61-70 8 5 13
> 70 7 5 12
Tổng 43 19 62
Số bệnh nhân nữ là 69 (%) và nam là 31 (%).
Tuổi của nhóm nghiên cứu từ 35- 85, tuổi
trung bình là 57± 11,6.
Bảng 2. Phân bố theo mặt bệnh đối tượng nghiên
cứu (n = 62)
Chẩn đoán Số trường hợp Tỷ lệ %
ĐTĐ 17 27
THA 20 32
VCTM 11 18
STGĐ 2 và 3 14 23
Tổng 62 100
Có 62 bệnh nhân thuộc các đối tượng: Tăng
huyết áp (32%), đái tháo đường (27%), viêm
cầu thận mạn có hoặc không có hội chứng
thận hư (18%), suy thận giai đoạn 2 và 3
(23%). Đây là các đối tượng có nhiều nguy cơ
có protein niệu dao động trong dải lớn. Điều này
giúp cho việc đánh giá độ tin cậy của phương
pháp được chính xác và khách quan hơn.
Đánh giá độ tin cậy của phương pháp xác
định protein niêu bằng tỉ số P/C theo hai
mức chẩn đoán dương tính và âm tính
Protein niệu được đánh giá theo 2 mức âm
tính và dương tính. Điểm cắt giữa âm tính và
dương tính là 150mg/g đối với P/C, là protein
toàn phần âm tính (< 200mg/ngày) và
microalbumin âm tính (<30 mg/ngày) đối với
phương pháp định lượng protein niệu 24 giờ.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Văn Tỉnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 135 - 139
137
Bảng 3. Phân bố theo mặt bệnh đối tượng nghiên cứu (n = 62)
Chỉ số
Protein niệu 24h
Tổng
Dương tính Âm tính
P/C
Dương tính 33 5 38
Âm tính 3 21 24
Tổng 36 26 62
Bảng 4. So sánh tỉ số P/C nước tiểu bãi và protein niệu 24 giờ (n= 62)
Sn (%) Sp (%) PPV (%) PNV (%) Pa (%) Pe (%) κ
92 81 87 88 87 31,5 81
Để xác định khả năng phù hợp chẩn đoán
giữa 2 phương pháp, người ta thường sử dụng
bảng 2x2, tức là chỉ chia 2 mức “có bệnh”
không có bệnh” hay “dương tính” và “âm
tính” [2]. Kết quả P/C nước tiều bãi và
protein niệu 24 giờ được trình bày ở bảng 3.
Từ bảng kết quả này, chúng tôi đưa ra kết quả
ở bảng 4.
Trong thực tế, có gần tới 10% mẫu nước tiểu
là quá loãng. Chỉ số P/C phát hiện được
những mẫu bệnh phẩm quá loãng khi nồng độ
creatinin bé hơn 10mg/dl. Các trường hợp kết
quả P/C âm tính ở những mẫu nước tiểu quá
loãng (normal –dilution) là không chính xác
và bị loại bỏ. Với đặc tính như vậy, P/C nước
tiểu bãi loại trừ được phần lớn các kết quả âm
tính giả nên có độ đậm hiệu cao. Kết quả
nghiên cứu ở bảng 3 cho thấy phương pháp
xác định lượng protein niệu 24 giờ có độ
nhạy, độ đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính,
giá trị báo âm tính cao đều cao. Tỷ lệ âm tính
giả và tỷ lệ dương tính giả đều thấp. Độ phù
hợp chẩn đoán theo 2 mức dương tính và âm
tính ở mức độ khá ( κ = 81).
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng phù
hợp với các nghiên cứu khác của nước ngoài.
Cùng phương pháp định lượng P/C, nghiên
cứu của các tác giả Guy M và cộng sự năm
2009 [4] cho thấy tỉ lệ P/C nước tiểu bãi buổi
sáng sớm so với phương pháp tham chiếu là
định lượng protein niệu 24 giờ có độ nhạy, độ
đặc hiệu, giá trị dự báo dương tính, giá trị dự
báo âm tính rất cao tương ứng là 92,3%,
80,9%, 80%, 92,7% với mức protein niệu
>0,3 g/ngày.
Kết quả này còn phù hợp với nghiên cứu của
Phan Thị Thanh Hải và cộng sự (2010), trên
56 bệnh nhân bằng phương pháp bán định
lượng P/C bằng que thử Multistix PRO12 với
độ nhạy là 94%, độ đặc hiệu 74%, giá trị dự
báo dương tính là 89%, giá trị dự báo âm tính
là 90%, hệ số kappa = 0,87 [3].
Như vậy, với các kết quả thu được chứng tỏ tỉ
số P/C nước tiểu bãi là một chỉ số tin cậy để
phát hiện sớm tổn thương thận trên các đối
tượng có nguy cơ cao, đặc biệt là đối với các
bệnh nhân đái tháo đường, tăng huyết áp và
người già.
Đánh giá độ tin cậy của phương pháp xác
định protein niệu bằng tỉ số P/C theo bốn
mức kết quả P/C
Vì khoảng dao động của protein niệu “dương
tính” là lớn: từ >0,2 g/ngày ở bệnh nhân
THA, ĐTĐ giai đoạn sớm cho tới hàng chục
g/ngày ở bệnh nhân VCTM có HCTH. Vì
vậy, chúng tôi lập bảng chéo 4x4 ứng với 4
mức kết quả định lượng P/C của máy BTS310
tương ứng với 4 mức protein niệu 24 giờ
nhằm đánh giá 1 cách chính xác hơn độ phù
hợp của phương pháp mới này so với phương
pháp chuẩn.
Bảng 5. P/C nước tiểu bãi và protein niệu 24 giờ
theo nhiều mức (n =62)
Chỉ số
Protein niệu 24h
N <
200
200 –
300
300 –
500 > 500
P/C
(mg/)
Normal 20 1 0 0 21
150 2 1 2 1 6
300 1 2 5 3 11
>500 1 2 5 18 26
Tổng 24 6 12 22 62
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Văn Tỉnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 135 - 139
138
Từ bảng 5 chúng tôi tính được khả năng khả
năng phù hợp chẩn đoán của 2 phương pháp
cũng khá cao với độ nhạy từ 70 – 91 %, độ
đặc hiệu cao từ 65 – 89%, giá trị dự báo
dương tính từ 67 – 94% và giá trị dự báo âm
tính từ 70 – 90%
Kết quả này của chúng tôi cũng phù hợp với
nghiên cứu của các tác giả Guy M và cộng sự
(2009), Wahbeh AM và cộng sự (2009) [3].
Khi chia các mức protein niệu ra 3 mức >
0,15 g/24 giờ, > 0,20 g/24 giờ và > 0,30 g/24
giờ, tác giả cũng thấy rằng khả năng phù hợp
chần đoán của 2 phương pháp cũng khá cao
với độ nhạy từ 76 – 92 %, độ đặc hiệu cao từ
70 – 93%, giá trị dự báo dương tính từ 69 –
96% và giá trị dự báo âm tính từ 62 – 94%
Như vậy, tỉ số P/C với độ tin cậy cao so với
phương pháp tham chiếu, có ưu điểm là sử
dụng nước tiểu bãi, tránh được các phiền
phức và sai số do việc lấy mẫu nước tiểu 24
giờ gây ra. Đặc biệt nếu như chỉ số này được
làm trên máy tự động thì sẽ nhanh chóng,
tiện lợi và kinh tế hơn nhiều và rõ ràng đó là 1
chỉ số hết sức cần thiết đối với các nhà lâm
sàng trong việc sàng lọc protein niệu cũng
như đánh giá, theo dõi quá trình điều trị bệnh
nhân có tổn thương thận. Với điều kiện của
BVĐKTW Thái Nguyên hiện nay, chúng tôi
kiến nghị nên đưa chỉ số P/C vào xét nghiệm
thường quy đề chẩn đoán sớm và theo dõi
điều trị các bệnh thận.
KẾT LUẬN
Kết quả đánh giá độ tin cậy cậy của phương
pháp xác định protein niệu bằng tỉ số P/C
nước tiểu bãi: Độ nhạy là: 92%; Độ đặc hiệu
là: 81%; Giá trị dự báo dương tính là: 87%;
Giá trị dự báo âm tính tương ứng là: 88%; Hệ
số kappa = 0,81.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Phạm Như Nghĩa (2009), "Tỷ lệ
albumin/creatinin và protein/creatinin trong mẫu
nước tiểu ngẫu nhiên để ước lượng đạm niệu 24
giờ", Y học thực hành (656), Số 4/2009.
[2]. Dương Đình Thiện (1998), "Đánh giá một
nghiệm pháp chẩn đoán”, Phương pháp nghiên
cứu khoa học y học, Nhà xuất bản Y học Hà Nội
tr.167- 188.
[3]. Phan Thị Thanh Hải, Lê Thị Thu, Nguyễn
Đức Ngọ (2010), “Xác định protein niệu thông
qua tỉ số protein/creatinin nước tiểu bãi”, Y dược
lâm sàng , 108 (5), tr.189-194.
[4]. Guy M, Newall R, Borzomato J, Kalra PA and
Price C (2009), Use of a first-line urine protein-
to- creatinine ratio strip test on random urines to
rule out proteinuria in patients with chronic
kidney disease, Mephrol Dial Transplant , 24:
1189-1193 doi: 10.1093/ndt/gfn612.
[5]. Khan DA, Ahmad TM, Qureshi AH,
Halim A, Mumtaz Ahmad M, Afzal S (2005),
"Assessment of Proteinuria by using Protein:
Creatinine Index in Random Urine Sample", J Pak
Med Assoc 2005, 55 (10).
[6]. Wahbeh AM, Ewais MH, Elsharif ME
(2009), "Comparision of 24 hburse urinary
protein and protein - to - creatinine ratio in the
assessment of proteinuria", Saudia J Kidney Dis
Transplant 2009, 20 (3),pp. 443-447.
[7]. Wang JM, Chi-Yu Lin CY, Tsai FA, Chen JY,
Koa YC (2009), "Test Dipstick for Determination
of Urinary Protein, Creatinine and
Protein/Creatinine Ratio", J Biomed Lab Sci ,
21 (1).
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Văn Tỉnh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 89(01/2): 135 - 139
139
SUMMARY
DETERMINING PROTEINURIA BY PROTEIN –TO-CREATININE RATIO IN
SPOT URINE SAMPLE IN PATIENTS AT DEPARTMENTS OF INTERNAL
MEDICINES IN THAI NGUYEN NATIONAL GENERAL HOSPITAL
Nguyen Van Tỉnh1*, Nguyen Tien Dung2, Nguyen Thi Kim Yen1
1Thai Nguyen University of Medicine & Pharmacy
2Thai Nguyen National General Hospital
Objective: To evaluate a reliability of method measuring proteinuria by protein –to-creatinine
ratio in spot urine sample ( measurement of 24 hour- urinary protein ).
Method: A discriptive study.
Results and conclusion:The results showed this method was consistent with diasgnosis as
compared to reference method (Kappa coefficient = 0,81). Sensitivity was 92%, specificity was
81%, positive predictive value was 87%, negative predictive value was 88%.
Keywords: proteinuria, protein/creatinine ratio, 24 - hour urine, spot urine sample.
*
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33162_36989_308201291617892_split_23_7079_2052461.pdf