The litterfall is an important link of the chain to transport organic carbon and mineral substances
from the vegetation into the soil in forest ecosystem. The study of the carbon stock in litterfall
takes part to clear the carbon cycle and the nutritive cycle in forest ecosystem. It also defines the
ability to carbon cumulate of the vegetation into the forest soil.
Four permanent plots were choosed to collect litterfall samples in the natural-recovered secondary
forest at The Me Linh Station for Biodiversity, Vinh Phuc Province. The litterfall samples were
collected monthly in 3 random distributed traps with dimension of 1 m2 (1 m x 1m) in one year.
The carbon stock in litterfall was caculated by 47,5% of dry biomass.
The data showed that the carbon stock in litterfall of natural-recovered secondary forest was 3,91
ton.ha-1year-1 - 7,45 ton.ha-1year-1. The rate of C stock in leaves was from 74.30 % - 85.91 % and
the rate of other parts from 14.09% - 25.70% in total of carbon stock in litterfall in year. The
carbon stock in litterfall depended on the composition and the defoliated particularity of species in
the cummunities.
5 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định lượng các bon tích lũy thông qua lượng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đỗ Hoàng Chung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 7 - 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
XÁC ĐỊNH LƢỢNG CÁC BON TÍCH LŨY THÔNG QUA LƢỢNG RƠI CỦA
RỪNG THỨ SINH PHỤC HỒI TỰ NHIÊN TẠI TRẠM ĐA DẠNG SINH HỌC
MÊ LINH, TỈNH VĨNH PHÚC
Đỗ Hoàng Chung1*, Lê Đồng Tấn2
1Trường Đại học Nông Lâm – ĐH Thái Nguyên, 2Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật
TÓM TẮT
Lƣợng rơi đóng vai trò rất quan trọng trong dòng vận chuyển các bon hữu cơ và các chất dinh
dƣỡng từ thảm thực vật tới đất trong hệ sinh thái rừng. Nghiên cứu lƣợng các bon tích lũy
trong lƣợng rơi góp phần làm sáng tỏ vòng tuần hoàn các bon và tuần hoàn dinh dƣỡng trong
hệ sinh thái rừng. Qua đó cũng có thể xác định đƣợc khả năng tích lũy các bon của thảm thực
vật tới đất rừng.
Bốn ô định vị đã đƣợc thiết lập để thu mẫu lƣợng rơi tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh
Vĩnh Phúc. Lƣợng rơi đƣợc thu hàng tháng trên 3 bẫy, đƣợc bố trí ngẫu nhiên với kích thƣớc
1m2(1mx1m) trong một năm. Lƣợng các bon tích trữ trong lƣợng rơi đƣợc quy đổi bằng 47,5%
sinh khối khô tuyệt đối.
Số liệu thu đƣợc cho thấy lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi
tự nhiên tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh trung bình từ 3,91 – 7,45 tấn/ha/năm. Tỷ lệ lƣợng các
bon tích lũy trong lá rơi chiếm 74.30 % - 85.91 % và tỷ lệ của các phần khác chiếm 14.09% đến
25.70% so với tổng lƣợng các bon tích lũy trong lƣợng rơi trong năm. Lƣợng các bon tích lũy
thông qua lƣợng rơi phụ thuộc vào cấu trúc và thành phần rơi rụng của các loài trong quần xã.
Từ khóa: Lượng rơi, rừng thứ sinh, tích lũy, cácbon, Mê Linh, thực vật
MỞ ĐẦU
Rừng đóng vai trò rất quan trọng trong tích
lũy các bon của các hệ sinh thái cạn. “Bể
chứa” các bon chính trong hệ sinh thái rừng
nhiệt đới đó là sinh khối của tầng cây gỗ,
sinh khối tầng thảm tƣơi cây bụi và vật chất
hữu cơ không sống nhƣ lƣợng rơi (vật rơi
rụng), cây gỗ đổ và vật chất hữu cơ trong đất.
Lƣợng các bon chứa trong sinh khối trên mặt
đất của cây gỗ là “bể chứa” lớn nhất [5].
Một số nghiên cứu đã chỉ ra các bon tích lũy
trong gỗ chết hoặc lƣợng rơi (cây đổ, cây
đứng, cành khô, lá rụng) ƣớc tính chiếm
trung bình từ 10 – 20% lƣợng các bon tích lũy
trên mặt đất của rừng trƣởng thành [4].
Dòng các bon trả lại cho đất rừng bao gồm
lƣợng rơi (tán rừng và hệ rễ), nó bao gồm các
giai đoạn từ vật chất hữu cơ rắn đƣợc phân
hủy và các bon đƣợc tích tụ, chủ yếu là sự
lắng đọng các bon hữu cơ từ tán rừng. Vì thế,
lƣợng rơi đƣợc xem nhƣ là con đƣờng chính
vận chuyển các bon (và chất dinh dƣỡng) trả
lại cho đất rừng.
Tel : 0989.313.129; Email: dhchung.tuaf@gmai.com
Có rất nhiều phƣơng pháp xác định lƣợng các
bon tích lũy trong vật chất hữu cơ, tuy nhiên
phổ biến nhất là phƣơng pháp quy đổi qua hệ
số các bon. Đó là thu thập mẫu tiếp đó là sấy
khô và xác định trọng lƣợng khô tuyệt đối.
Khối lƣợng khô có thể đƣợc quy đổi ra lƣợng
các bon tích lũy bằng một phần hai lƣợng sinh
khối khô (các bon tích lũy ≈ 50% sinh khối
khô) [7].
Trong phạm vi bài báo này chúng tôi chỉ đề
cập tới lƣợng các bon tích lũy thông qua
lƣợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tại khu
vực nghiên cứu.
PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Chúng tôi đã nghiên cứu lƣợng rơi tại 4 ô định
vị có ký hiệu là ML1, ML2, ML3 và ML4.
Lƣợng rơi đƣợc thu thập theo phƣơng pháp
bẫy lƣợng rơi [1,2]. Theo phƣơng pháp, này
mỗi ô định vị đặt ngẫu nhiên 3 bẫy có kích
thƣớc 1m2 (1mx1m). Hàng tháng, thu toàn bộ
vật rơi trong bẫy và phân chia thành các bộ
phận: cành, lá và các bộ phận khác (chồi, hoa,
quả). Sau khi cân để xác định trọng lƣợng,
gộp từng bộ phận của 3 bẫy trên cùng một ô
định vị, trộn đều, lấy mỗi bộ phận 0,1-0,3kg
Đỗ Hoàng Chung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 7 - 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
để làm mẫu xác định trọng lƣợng khô tuyệt
đối và những phân tích tiếp theo Xác định
trọng lƣợng khô tuyệt đối: mẫu sau khi phơi
khô ở nhiệt độ phòng đƣợc sấy trong tủ sấy ở
nhiệt độ 1050C liên tục trong 4 giờ. Sau đó,
cứ 30 phút cân 1 lần; cân liên tục cho đến khi
trọng lƣợng không đổi.
Năng suất lƣợng rơi (tổng số, cành, lá) cả
năm đƣợc tính bằng g/m2/năm và quy đổi
thành tấn/ha/năm theo trọng lƣợng khô tuyệt
đối.. Lƣợng các bon tích lũy trong lƣợng rơi
đƣợc tính theo công thức:
C= 0.475*B (2.1) [6]
Trong đó: C là lƣợng các bon tích lũy theo
khối lƣợng; B là sinh khối khô tuyệt đối.
Số liệu đƣợc xử lý theo các phƣơng pháp
thống kê trong sinh học và sử dụng phần mềm
Excel để tính toán kết quả.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Điều kiện tự nhiên của vùng nghiên cứu
Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh thuộc Viện
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, nằm trên xã
Ngọc Thanh, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc; có tọa độ địa lý từ 21023’57’’ đến
21025’15’’ vĩ bắc và từ 105042’40’’ đến
105046’65’’ kinh đông, độ cao từ 100-500m
so với mặt biển.
Địa hình: khu vực nghiên cứu là một sƣờn núi
kéo dài theo hƣớng đông – nam của dãy núi
Tam Đảo. Ở độ cao từ 300m trở lên, có địa
hình dốc (độ dốc trung bình 250-300), có
nhiều đá lộ đầu. Dƣới 300m, địa hình bằng
phẳng hơn (độ dốc trung bình 150-200) và
chủ yếu là núi đất.
Thổ nhƣỡng: chiếm phần lớn diện tích là đất
pheralit mùn đỏ vàng ở độ cao trên 300m; tiếp
đến là đất pheralit vàng đỏ phát triển trên các
loại đá khác nhau ở độ cao dƣới 300m. Dọc
theo chân núi, ở độ cao dƣới 100m, là đất dốc
tụ phù sa.
Khí hậu: số liệu quan trắc tại Trạm khí tƣợng
thủy văn Vĩnh Yên cho thấy nhiệt độ trung
bình năm là 23,90C. (trung bình mùa hè là 27
– 290C, trung bình mùa đông 16 – 170C).
Lƣợng mƣa trung bình 1358,7mm/năm; mùa
mƣa từ tháng 4 đến tháng 10, chiếm 90%
lƣợng mƣa cả năm; mƣa tập trung từ tháng 6
đến tháng 9, cao nhất vào tháng 8; số ngày
mƣa khá nhiều, 142 ngày/năm. Độ ẩm trung
bình 83%, thấp vào tháng 2 (dƣới 80%).
Thảm thực vật: theo kết quả điều tra, toàn bộ
diện tích của Trạm trƣớc đây vốn đƣợc che
phủ bởi kiểu rừng kín thƣờng xanh mƣa mùa
nhiệt đới; cho đến nay nó đã bị phá huỷ hoàn
toàn và đƣợc thay thế bằng các trạng thái thứ
sinh nhân tác, bao gồm từ thảm cỏ đến thảm
cây bụi và rừng thứ sinh đang trong các giai
đoạn diễn thế đi lên.[3]. Cụ thể tại các ô
nghiên cứu, kết quả điều tra cho thấy:
ML 1 là rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên trên
đất sau khai thác gỗ củi quá mức, sau đó là xử
lý trắng để trồng rừng nhƣng không thành
công và đƣợc đƣa vào khoanh nuôi để phục
hồi rừng tự nhiên. Thời gian phục hồi 14 năm.
Độ cao 120m so với mặt biển, độ dốc 150, đất
feralit đỏ vàng. Thành phần cây gỗ ƣu thế là:
Sơn rừng – Toxicodendron succedanea (L.)
Mold., Trám chim – Canarium parvum
Leenh., Thành ngạnh – Cratoxylum
polyanthum (Kurz.) Kurz. Chiều cao cây và
đƣờng kính trung bình của cây gỗ là 7,40 m và
8,70 cm, mật độ 1350 cây/ha, độ tàn che 0,6.
ML 2 cũng là rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên
trên đất sau khai thác gỗ củi quá mức nhƣng
không bị xử lý trắng để trồng rừng. Thời gian
phục hồi 15 năm. Độ cao 230m so với mặt
biển, độ dốc 150, đất feralit đỏ vàng. Thành
phần cây gỗ ƣu thế có Bồ đề - Styrax
tonkinensis (Pierre) Craib. Ex Hartwiss, Ba
soi –Macaranga denticulata (Blume) Muell.-
Arg., Sơn rừng – Toxicodendron succedanea
(L.) Mold. Chiều cao cây và đƣờng kính trung
bình của cây gỗ là 12,50 m và 15,30 cm, mật
độ 1130 cây/ha, độ tàn che 0,7.
ML 3 là rừng nứa phục hồi tự nhiên sau khai
thác gỗ củi quá mức. Thời gian phục hồi
khoảng 20 năm. Phân bố trên độ cao 120m,
độ dốc trung bình 200, đất feralit đỏ vàng. Độ
tàn che 0,8; mật độ cây gỗ 200 cây/ha gồm có
Bồ đề - Styrax tonkinensis (Pierre) Craib. Ex
Hartwiss và Xoan nhừ - Choerospondias sp.
ML 4 là rừng thứ sinh trƣởng thành phục hồi
25 năm. Phân bố ở độ cao 285m, độ dốc trung
bình 200, đất feralit đỏ vàng. Thành phần loài
ƣu thế là Vàng anh – Saraca dives Pierre, Thị
Đỗ Hoàng Chung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 7 - 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
rừng – Diospyros sp., Nhội – Bischofia
javanica Blume. Chiều cao cây và đƣờng kính
trung bình của cây gỗ là 16,50 m và 20,20
cm, mật độ 950 cây/ha, độ tàn che 0,9.
Năng suất lƣợng rơi
Có 3 nhóm cấu thành lên lƣợng rơi gồm: lá,
cành và nhóm các các cơ quan sinh sản, chồi
và vỏ thân. Thực tế thì nhóm các cơ quan sinh
sản, chồi và vỏ thân chỉ chiếm một tỷ lệ rất
thấp (0,1-0,2% tổng lƣợng rơi hàng năm). Vì
vậy, chúng tôi không thống kê riêng nhóm
này mà gộp vào nhóm cành rơi.
Các số liệu trình bày trong bảng 1 cho thấy
các ô định vị có tổ thành loài cây ƣu thế khác
nhau thì có năng suất của lƣợng rơi khác
nhau. Tại ô định vị ML1 có tổ thành loài ƣu
thế là Sơn rừng – Toxicodendron succedanea,
Trám chim – Canarium parvum, Thành
ngạnh – Cratoxylum polyanthum năng suất
của lƣợng rơi đạt 8,24 tấn/ha/năm, thấp nhất
trong số 4 ô định vị . Tại ô ML2 có tổ thành
loài ƣu thế là Bồ đề - Styrax tonkinensis,
Trâm – Syzygium sp., Ba soi –Macaranga
denticulata, Sơn rừng – Toxicodendron
succedanea năng suất của lƣợng rơi đạt 9,47
tấn/ha/năm; tại ô ML3 là rừng Nứa –
Neohouzeaua dullooa năng suất của lƣợng
rơi đạt 13,06 tấn/ha/năm; tại ô ML4 có tổ
thành loài ƣu thế là Vàng anh – Saraca dives,
Thị rừng – Diospyros sp. Nhội – Bischofia
javanica năng suất của lƣợng rơi đạt 15,69
tấn/ha/năm.
Kết quả phân tích phƣơng sai cho thấy có sự
khác nhau về năng suất của lƣợng rơi tổng số
(F = 2,612 ; P = 0,0089) giữa các ô định vị.
Điều đó cho phép khẳng định năng suất của
lƣợng rơi trên các ô định vị tăng dần theo thứ
tự nhƣ sau: ML1 < ML2 < ML3 < ML4.
Nghĩa là tổ thành loài cây khác nhau thì có
năng suất của lƣợng rơi khác nhau; năng suất
lƣợng rơi tổng số tăng lên theo thời gian phục
hồi của thảm thực vật.
3. Lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi
Lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi
đƣợc quy đổi theo công thức 2.1 dựa trên kết
quả có đƣợc về năng suất lƣợng rơi .
Số liệu ở bảng 2 cho thấy, lƣợng các bon tích
lũy thông qua lƣợng rơi có xu hƣớng tăng lên
theo thời gian phục hồi của thảm thực vật. Cụ
thể, lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng
rơi trên ô ML1 có thời gian phục hồi 14 năm,
là 3,91tấn/ha/năm. Ô ML2 có thời gian phục
hồi 15 năm đạt 4,5tấn/ha/năm, ô ML3 có thời
gian phục hồi 20 năm, đạt mức tƣơng ứng là
6,20 tấn/ha/năm;. Ô ML4 có thời gian phục
hồi lâu nhất (25 năm), đạt 7,45 tấn/ha/năm.
Bảng 1. Năng suất lƣợng rơi (tấn/ha/năm) của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh
Ô định vị
Lƣợng rơi
Khối lƣợng lá Khối lƣợng cành và các bộ phận khác Tổng số
ML1 6,83 ± 0,82 1,41 ± 0,34 8,24 ± 0,94
ML2 7,75 ± 0,76 1,72 ± 0,43 9,47 ± 0,84
ML3 11,22 ± 1,33 1,84 ± 0,53 13,06 ± 1,55
ML4 11,65 ± 1,23 4,03 ± 1,06 15,69 ± 2,21
Bảng 2. Lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi (tấn/ha/năm) của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại
Trạm đa dạng sinh học Mê Linh
Ô định vị
Các bon tích lũy
C tích lũy trong lá rơi C tích lũy trong cành và các bộ phận khác C tích lũy tổng số
ML1 3,24 ± 0,39 0,67 ± 0,16 3,91 ± 0,45
ML2 3,68 ± 0,36 0,82 ± 0,20 4,50 ± 0,40
ML3 5,33± 0,63 0,87 ± 0,25 6,20 ± 0,74
ML4 5,53 ± 0,58 1,91 ± 0,50 7,45 ± 1,05
Đỗ Hoàng Chung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 7 - 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
Lƣợng các bon tích lũy trong cành rơi cũng
có xu hƣớng tăng lên theo thời gian. Tỷ lệ
lƣợng các bon tích lũy trong cành rơi trên ô
ML1 với thời gian phục hồi 14 năm là
17,11%; con số này tăng lên ở ô ML2 với thời
gian phục hồi 15 tƣơng ứng là 18,16%; ô
ML4 có thời gian phục hồi 25 năm, đạt tới
25,7%. (Hình 1).
KẾT LUẬN
1. Năng suất của lƣợng rơi của rừng thứ
sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm đa dạng
sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc đạt trung
bình từ 8,24 - 15,69 tấn/ha/năm, trong đó tỷ
lệ lá chiếm 71,04 - 85,89%, cành chiếm
14,09 - 25,70%. Các bộ phận sinh sản (hoa,
quả) chiếm tỷ lệ rất ít so với tổng lƣợng rơi
hàng năm.
2. Lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi
của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên tại Trạm
đa dạng sinh học Mê Linh đạt trung bình từ
3,91 – 7,45 tấn/ha/năm.
3. Tổ thành loài cây của ô định vị có ảnh
hƣởng đến lƣợng các bon tích lũy thông qua
lƣợng rơi. Điều đó đƣợc thể hiện qua số liệu
lƣợng các bon tích lũy thông qua lƣợng rơi
thu đƣợc trên các ô định vị. Thời gian phục
hồi của rừng càng lâu thì khả năng tích lũy
các bon thông qua lƣợng rơi. Lƣợng các bon
tích lũy thông qua lƣợng rơi trên các ô định vị
tăng dần theo thứ tự: ML1 < ML2 < ML3 <
ML4.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Hoàng Trí, 1986: Góp phần nghiên
cứu sinh khối và năng suất quần xã rừng đƣớc đôi
(Rhizophora apiculata Bl.) ở Cà Mau - tỉnh Minh
Hải (luận án phó tiến sỹ), 110 trang. Trƣờng đại
học Sƣ phạm Hà Nội I.
[2]. Hoàng Xuân Tý, 1988: Điều kiện đất trồng
rừng bồ đề (Styrax tonkinensis Pierre) làm nguyên
liệu giấy sợi và ảnh hƣởng của rừng bồ đề trồng
thuần loại đến độ phì của đất (luận án phó tiến sỹ),
197 trang. Viện Lâm nghiệp, Hà Nội .
[3]. Lê Đồng Tấn, Đỗ Hoàng Chung (2007): Năng
suất lƣợng rơi của rừng thứ sinh phục hồi tự nhiên
tại Trạm đa dạng sinh học Mê Linh, tỉnh Vĩnh
Phúc. Tạp chí Sinh học Số 29 ( tập 1), trang 40-46.
[4]. Achard F, Eva H D, Stibig H-J, Mayaux P,
Gallego J, Richards T and Malingreau J-P 2002
Determination of deforestation rates of the world’s
human tropical forests Science 297, pp 999–1002.
[5]. Post W M, Izaurralde R C, Mann L K and
Bliss N 1999 Monitoring and verification of soil
organic carbon sequestration Proc. Symp. Carbon
Sequestration in Soils Science, Monitoring and
Beyond (December) ed N J Rosenberg, R C
Izaurralde and E L Malone (Columbus, OH:
Batelle Press) p 41.
[6]. Schlesinger,W.H. 1991. Biogeochemistry, an
Analysis of Global Change. New York, USA,
Academic Press. 8
[7]. Westlake D F 1966 The biomass and
productivity of glyceria maxima: I. Seasonal
changes in biomass J. Ecol. 54 745–53. 9
Hình 1. Tỷ lệ (%) tích lũy các bon trong cành và lá của lƣợng rơi trong các trạng thái rừng thứ sinh
phục hồi tự nhiên tại Trạm Đa dạng sinh học Mê Linh
Đỗ Hoàng Chung và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 62(13): 7 - 11
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
SUMMARY
ESTIMATE CARBON STOCK THROUGH THE LITTERFALL OF THE
NATURAL-RECOVERED SECONDARY FOREST AT THE ME LINH STATION
FOR BIODIVERSITY, VINH PHUC PROVINCE
Do Hoang Chung
1
, Le Dong Tan
2
1College of Agriculture and Forestry – Thai Nguyen University –
2Institute of Ecology and Biological Resources
The litterfall is an important link of the chain to transport organic carbon and mineral substances
from the vegetation into the soil in forest ecosystem. The study of the carbon stock in litterfall
takes part to clear the carbon cycle and the nutritive cycle in forest ecosystem. It also defines the
ability to carbon cumulate of the vegetation into the forest soil.
Four permanent plots were choosed to collect litterfall samples in the natural-recovered secondary
forest at The Me Linh Station for Biodiversity, Vinh Phuc Province. The litterfall samples were
collected monthly in 3 random distributed traps with dimension of 1 m2 (1 m x 1m) in one year.
The carbon stock in litterfall was caculated by 47,5% of dry biomass.
The data showed that the carbon stock in litterfall of natural-recovered secondary forest was 3,91
ton.ha-1year-1 - 7,45 ton.ha-1year-1. The rate of C stock in leaves was from 74.30 % - 85.91 % and
the rate of other parts from 14.09% - 25.70% in total of carbon stock in litterfall in year. The
carbon stock in litterfall depended on the composition and the defoliated particularity of species in
the cummunities.
Key words: Litterfall, secondary forest, carbon stock, Me Linh, vegetation
Tel : 0989.313.129; Email: dhchung.tuaf@gmai.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_3392_9691_dohoangchung_9763_2052954.pdf