Đoạn gen rpoB của 7 chủng M. tuberculosis
nghiên cứu thu nhận từ Viện Lao và Bệnh
phổi Trung ương đã được nhân lên thông qua
phản ứng PCR. Tách dòng, tạo vector tái tổ
hợp, tách chiết DNA plasmid có chứa đoạn
gen rpoB và xác định trình tự đã được thực
hiện thành công. Tiến hành xác định trình tự
và phát hiện đột biến trên gen rpoB 571 bp
của 6 chủng vi khuẩn lao kháng thuốc thì có
chủng TB02-111 xuất hiện dạng đột biến thay
thế một nucleotid tại codon 516 Asp→Val, và
đột biến tại codon 531 Ser →Leu ở 4 chủng
TB02-115, TB02-116, TB02-117, TB02-122
của gen rpoB. Điều này cũng phù hợp với
những công bố thường gặp nhất về đột biến
sai nghĩa tại codon 516 và codon 531 của các
tác giả trong nước và trên thế giới
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 606 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Xác định các đột biến trên gen RPOB liên quan đến tính kháng Rifampicin của một số chủng vi khuẩn lao thu thập tại miền Bắc Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
97
XÁC ĐỊNH CÁC ĐỘT BIẾN TRÊN GEN RPOB LIÊN QUAN ĐẾN TÍNH KHÁNG
RIFAMPICIN CỦA MỘT SỐ CHỦNG VI KHUẨN LAO THU THẬP
TẠI MIỀN BẮC VIỆT NAM
Nghiêm Ngọc Minh1*, Nguyễn Văn Bắc1, Vũ Thị Mai1, Cung Thị Ngọc Mai1,
Vũ Thị Thanh1, Nguyễn Thái Sơn2
1Viện Công nghệ sinh học - Viện KH&CN Việt Nam, 2Bệnh viện 103 - Học viện Quân y
TÓM TẮT
Nhiễm vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis, MTB) là một trong những nhiễm trùng phổ biến
nhất ở loài người. Tuy nhiên, tỷ lệ phát hiện chỉ đạt 37% số bệnh nhân ước tính. Hiện nay, bệnh
lao đang trở nên nghiêm trọng hơn với sự xuất hiện của nhiều chủng vi khuẩn lao với đặc trưng là
kháng đa thuốc, lao kháng thuốc phổ rộng và lao đồng nhiễm HIV/AIDS. Những chủng vi khuẩn
lao kháng rifampicin (RIF) đồng thời cũng kháng với nhiều kháng sinh chống lao khác. Phương
pháp sinh học phân tử cho phép chẩn đoán nhanh và chính xác các trường hợp bệnh nhân bị nhiễm
vi khuẩn lao kháng thuốc. Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng cặp mồi rpoB-F1 và rpoB-R1
đã được thiết kế nhằm khuếch đại đoạn gen rpoB gồm 27 codon nằm gần trung tâm của gen rpoB
(còn gọi là “the mutation hot spot region”). Sau khi PCR nhân gen rpoB ở 7 chủng vi khuẩn lao
thu thập tại Viện Lao và Bệnh phổi Trung ương, phân tích trình tự đoạn gen rpoB của chúng thấy
xuất hiện các đột biến sai nghĩa xảy ra tại codon 516 (GAC→GTC) (20%) và codon 531
(TCG→TTG) (66,67%) có liên quan đến kháng RIF. Kết quả này có ý nghĩa rất lớn trong việc thay
đổi phác đồ điều trị và kiểm soát bệnh lao ở một nước có mức độ bệnh nhân lao cao như nước ta.
Từ khóa: Gen rpoB, lao kháng đa thuốc, rifampicin, vi khuẩn lao
∗
MỞ ĐẦU
Vi khuẩn lao (Mycobacterium tuberculosis,
MTB) thuộc giống Mycobacterium, họ
Mycobacteriaceae [7]. Đây là vi khuẩn truyền
nhiễm được tổ chức y tế thế giới (WHO)
khuyến cáo về tình trạng khẩn cấp toàn cầu
bởi mức độ lây lan và hậu quả nghiêm trọng
của chúng gây ra đối với sức khỏe con người.
Theo ước tính của WHO trên thế giới có
khoảng 42 vạn người mắc lao đa kháng thuốc,
chiếm số lượng lớn nhất là ở khu vực Tây
Thái Bình Dương có 15 vạn trường hợp, kế
đến là khu vực Đông Nam Á và sau đó là khu
vực Châu Phi và Đông Âu. Ở Việt Nam mỗi
năm có khoảng 100.000 người mắc bệnh lao
và 20.000 người chết đứng thứ 12 trong tổng
số 22 quốc gia có số bệnh nhân lao cao [2].
Ngày nay, bệnh lao càng trở nên nghiêm
trọng hơn khi xuất hiện các chủng vi khuẩn
lao kháng đa thuốc (Multi-Drugs Resistant –
MDR), kháng thuốc phổ rộng (Extensively
∗
Tel:
Drug Resistance – XDR) và đồng nhiễm
HIV/AIDS. Vì vậy, việc nghiên cứu chẩn
đoán vi khuẩn lao kháng thuốc có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với y học cũng như sức khỏe
con người.
Hai phương pháp chẩn đoán lao kháng thuốc
được sử dụng rộng rãi hiện nay là phương
pháp xác định kiểu hình và phương pháp xác
định kiểu gen. Trong đó, phương pháp xác
định kiểu hình dựa trên khả năng phát triển
của vi khuẩn lao trong môi trường nuôi cấy có
kháng sinh phải mất 4 – 8 tuần và đòi hỏi
nồng độ của mẫu cao, nên độ nhạy của phản
ứng thấp. Khắc phục những nhược điểm trên,
phương pháp xác định kiểu gen dựa trên cơ sở
xác định đột biến ở các gen có liên quan
kháng thuốc tương ứng như giải trình tự gen,
lai trên pha rắn, real-time PCR[13]. Trong
đó giải trình tự gen vẫn là phương pháp cơ
bản, xác định MDR trong các mẫu bệnh phẩm
lâm sàng chính xác và rõ ràng nhất.
Genome của M. tuberculosis được giải trình
tự, phân tích và công bố năm 1998 gồm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
98
4.411.529 bp, chứa 65% guanine và cytosine.
Trên 90% tổng số gen được dự đoán là có mã
hóa cho protein và chỉ có 6 gen giả
(pseudogene) [8]. Gen rpoB là một đoạn DNA
có kích thước 3519 bp, nằm trên nhiễm sắc thể
của vi khuẩn lao và chịu trách nhiệm mã hóa
tiểu đơn vị β của enzyme RNA polymerase
[12]. Thông qua enzyme này, RIF gây tác dụng
lên chức năng phiên mã tạo RNA thông tin
(mRNA) ở vi khuẩn lao. Người ta nhận thấy có
khoảng 95% các chủng vi khuẩn lao kháng
RIF có đột biến trên gen này [7, 12]. Trong đó,
các đột biến sai nghĩa làm thay đổi amino acid
Ser→Leu, His→Arg, Arg→Val tương ứng với
vị trí đột biến tại codon 531 (TCG→TTG),
codon 526 (CAC→GAC), và codon 516
(GAC→GTC) [6,12].
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Vật liệu nghiên cứu
Nguồn DNA tổng số của vi khuẩn lao
DNA tổng số được tách chiết và tinh sạch từ
các chủng vi khuẩn lao có trong các mẫu bệnh
phẩm ở Viện Lao và Bệnh phổi Trung ương
theo phương pháp phenol/chloroform/isoamyl
alcohol [9].
Các sinh phẩm hóa chất chính
Hóa chất dùng cho phản ứng PCR
(Fermentas), kit tách chiết plasmid (Qiagen),
vector nhân dòng pBT, chủng vi khuẩn E.coli
DH5α (Fermentas) và một hóa chất khác như:
cao nấm men, peptone từ ICN (Mỹ), các
enzyme BamHI, T4 ligase từ Fermentas.
Các chủng M. tuberculosis được nuôi cấy trên
môi trường Lowenstein-Jensen. Các chủng E.
coli được nuôi cấy trong môi trường LB lỏng
(10 g/l Bacto-tryptone; 5 g/l Yeast extract; 10
g/l NaCl; pH 7,2).
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế mồi
Các cặp mồi được thiết kế tại những vùng có
độ bảo thủ cao nhất và phải chứa vùng
“nóng” - “hot-spot region” gồm 27 codon
nằm gần trung tâm của gen rpoB của chủng
dại H37Rv. Trên cơ sở đó, các cặp mồi đặc
hiệu rpoB-F1 (5’-GCC ACC ATC GAA TAT
CTG GT-3’) và rpoB-R1 (5’-ACA CGA TCT
CGT CGC TAA CC-3’) được thiết kế để
nhân vùng gen 571 bp của gen rpoB.
Tách chiết DNA và khuếch đại gen
DNA tổng số của M. tuberculosis được tách chiết
theo phương pháp phenol/chlorofrom/isoamyl
alcohol [9]. Phản ứng PCR nhân đoạn gen
rpoB đặc hiệu với thể tích 25 µl gồm: 2,5 µl
đệm PCR 10X; 2 µl MgCl2 25 mM; 2,5 µl
dNTP 2,5 mM; 1 µl mỗi loại mồi rpoB-F1 và
rpoB-R1 10 pmoles/µl; 0,25 µl Taq DNA
polymerase 5 U/µl; 3 µl mẫu DNA tổng số,
12,75 µl nước deion và theo chu trình nhiệt như
sau: 01 chu kỳ 950C/5 phút; 32 chu kỳ (940C/1
phút; 560C/45 giây; 720C/1 phút); 01 chu kỳ
720C/10 phút; và giữ ở 40C đến khi phân tích.
Dòng hóa rpoB vào vector pBT
Sau khi khuếch đại, tinh sạch bằng bộ kit
AccuPrep PCR Purification của hãng Bioneer,
đoạn gen rpoB tiếp tục được dòng hóa vào
vector pBT để tạo vector tái tổ hợp mang gen
rpoB (ký hiệu : pBrpoB). Hỗn hợp phản ứng nối
ghép 10 µl (1 µl dung dịch đệm 10X T4 ligase;
1 µl vector pBT; 5 µl sản phẩm PCR; 1 µl T4
ligase; 2 µl nước deion), hỗn hợp phản ứng
được ủ ở 220C trong 1 giờ. Mix 5 µl sản phẩm
nối ghép với tế bào khả biến E. coli DH5α và
sốc nhiệt ở 420C trong 70 giây. Sản phẩm biến
nạp được bổ sung 200 µl LB lỏng, lắc 220
vòng/phút 370C trong 1 giờ và hút 100 µl dịch
khuẩn đã nuôi lắc cấy trải trên đĩa thạch LB đặc
có bổ sung carbenicillin 100 mg/l, IPTG
100mg/l và X-gal 200 mg/l. Đĩa thạch được ủ
qua đêm ở 370C. Khi trên đĩa thạch xuất hiện
các khuẩn lạc xanh trắng, lựa chọn khuẩn lạc
trắng nuôi qua đêm trong môi trường LB lỏng
có bổ sung kháng sinh carbenicillin 100 mg/l.
Tách chiết DNA plasmid theo hướng dẫn của
hãng Qiagen để kiểm tra gen rpoB có gắn thành
công vào vector pBT hay không bằng phản ứng
cắt bằng enzyme hạn chế BamHI. Plasmid cho
kết quả dương tính tiếp tục phục vụ cho quá
trình giải trình tự gen.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
99
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Tách chiết DNA và khuếch đại gen
DNA tách từ các chủng M. Tuberculosis được
chạy điện di kiểm tra trên gel agarose 1%
(không minh họa kết quả). DNA tinh sạch
được dùng làm khuôn để nhân gen rpoB bằng
phản ứng PCR với cặp mồi rpoB-F1 và rpoB-
R1. Kết quả điện di sản phẩm PCR trên gel
agarose 1% (Hình 1) đã thu được một băng
DNA đặc hiệu, có kích thước 571 bp tương
ứng với kích thước dự đoán khi thiết kế mồi.
Do vậy, sản phẩm PCR tiếp tục được dùng để
dòng hóa và xác định trình tự.
Hình 1. Điện di sản phẩm PCR nhân đoạn gen
rpoB bằng cặp mồi rpoB-F1 và rpoB-R1.
M: thang chuẩn DNA 1 kb; 1-7 các chủng tương
ứng TB02-111, TB02-115, TB02-116, TB02-117,
TB02-118, TB02-122; 8 đối chứng âm.
Hình 2. Điện di sản phẩm cắt DNA plasmid tái tổ
hợp gen rpoB bằng enzyme BamHI.
M: thang chuẩn DNA 1 kb; 1-7 các chủng tương
ứng TB02-111, TB02-115, TB02-116, TB02-117,
TB02-118, TB02-122.
Sản phẩm PCR được chèn vào vector nhân
dòng pBT thành vector tái tổ hợp pBrpoB và
biến nạp vào E. Coli DH5α. Khuẩn lạc trắng
(do có đoạn DNA quan tâm chèn vào giữa
gen β-galactosidase) mọc trên đĩa thạch được
chọn để nuôi cấy và tách plasmid kiểm tra.
Để xác định chính xác gen chèn, plasmid được
cắt bằng enzyme cắt giới hạn BamHI. Kết quả
điện di kiểm tra cho một băng có kích thước
tương ứng với đoạn gen rpoB (∼ 571 bp) các
băng còn lại là pBT đã bị cắt (∼ 2,7 kb) hoặc
pBrpoB chưa cắt hết
Hình 2 Điều đó cho thấy đoạn gen rpoB đã
được chèn vào vector pBT. Các vector tái tổ
hợp này được chọn để xác định trình tự gen.
Đọc trình tự và phân tích gen
Đoạn gen rpoB của các chủng vi khuẩn lao
nghiên cứu sau khi đọc trình tự được xử lý kết
quả qua phần mềm tin sinh học BioEdit. So
sánh trình tự nucleotide và acid amin từ các
mẫu nghiên cứu với trình tự nucleotide và
acid amin của chủng dại H37Rv chúng tôi
thấy xuất hiện các đột biến khác nhau trên các
chủng lao kháng thuốc, kết quả được thể hiện
ở hình 3 và hình 4.
Trong số 6 chủng kháng thuốc RIF có chủng
TB02-111 xảy ra đột biến tại codon 516
(GAC→GTC) (20%) làm thay đổi amino acid
Asp→Val. Có 4 chủng TB02-115, TB02-116,
TB02-117, TB02-122 xảy ra đột biến tại 531
(TCG→TTG) (66,67%) làm thay đổi amino
acid Ser →Leu. Chủng nhạy cảm với RIF
không phát hiện thấy đột biến nào trên đoạn
gen này.
Nhiều quan sát về đột biến ở vùng nóng 81 bp
của gen rpoB đã được công bố [1, 3, 4],
khoảng 96% các chủng lao kháng RIF có đột
biến ở vùng này của gen rpoB. Đột biến chủ
yếu xảy ra ở các vị trí codon 516, 526, 531.
Năm 2008, Gonul Aslan và cộng sự đã tiến
hành thu thập 30 mẫu bệnh phẩm tại nhiều
vùng khác nhau của Châu Á. Kết quả thu
đươc 14 mẫu kháng RIF có đột biến tại codon
531 (64,2%), 516 (7,1%) [5].
Tại Việt Nam, Caws và các đồng tác giả
(2006) đã xác định đột biến liên quan đến tính
kháng đa thuốc trên 131 chủng vi khuẩn lao
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
100
được phân lập tại bệnh viện Phạm Ngọc
Thạch. Kết quả đã xác định được 100 chủng
có đột biến trên gen rpoB tại codon 531
(43%), 526 (31%), 516 (15%) [3].
Những kết quả nghiên cứu trên thế giới đều
cho rằng đột biến ở gen rpoB chủ yếu là thay
thế một nucleotide, ít có các đột biến phức tạp
[12, 4]. Theo tác giả Lishi Qian và cộng sự
năm 2002 đã nghiên cứu đột biến ở RRDR
(rifampin resistance determining region –
vùng quyết định kháng RIF) của gen rpoB
trên 66 chủng vi khuẩn lao được thu thập ở 4
nước Đông Á là Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn
Quốc và Đài Loan. Trong số các chủng vi
khuẩn lao đó có 59/66 (89,4%) được xác định
là có đột biến.
Ở các chủng đột biến đã xác định trình tự cho
thấy mỗi chủng chỉ có một đột biến điểm ở
một codon. Có 58/59 trường hợp là đột biến
thay thế, chỉ có 1 trường hợp duy nhất là đột
biến thêm nucleotide [10] Như vậy, các mẫu
lao kháng thuốc được thu thập từ nhiều nơi
trên thế giới có đặc điểm chung đó là xảy ra
đột biến tại codon 516, 531 với dạng đột biến
điển hình là 531 Ser→Leu với một tần suất
rất cao (66,67%). Như vậy, nghiên cứu của
chúng tôi hoàn toàn thống nhất với các công
bố trong và ngoài nước.
Hình 3. So sánh trình tự nucleotide các chủng nghiên cứu với trình tự nucleotide của chủng dại H37Rv
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
101
Hình 4. So sánh trình tự acid amin các chủng nghiên cứu với trình tự acid amin của chủng dại H37Rv
KẾT LUẬN
Đoạn gen rpoB của 7 chủng M. tuberculosis
nghiên cứu thu nhận từ Viện Lao và Bệnh
phổi Trung ương đã được nhân lên thông qua
phản ứng PCR. Tách dòng, tạo vector tái tổ
hợp, tách chiết DNA plasmid có chứa đoạn
gen rpoB và xác định trình tự đã được thực
hiện thành công. Tiến hành xác định trình tự
và phát hiện đột biến trên gen rpoB 571 bp
của 6 chủng vi khuẩn lao kháng thuốc thì có
chủng TB02-111 xuất hiện dạng đột biến thay
thế một nucleotid tại codon 516 Asp→Val, và
đột biến tại codon 531 Ser →Leu ở 4 chủng
TB02-115, TB02-116, TB02-117, TB02-122
của gen rpoB. Điều này cũng phù hợp với
những công bố thường gặp nhất về đột biến
sai nghĩa tại codon 516 và codon 531 của các
tác giả trong nước và trên thế giới.
Lời cảm ơn
Công trình này được hoàn thành với sự hỗ trợ
kinh phí của đề tài nhánh “Nghiên cứu tối ưu
hóa quy trình xác định nhanh các chủng vi
khuẩn lao và lao kháng thuốc bằng kỹ thuật
sinh học phân tử” thuộc chương trình
KC10/06-10. Một số kết quả xác định trình tự
được thực hiên trên các thiết bị của phòng thí
nghiệm trọng điểm công nghệ gen thuộc Viện
Công nghệ sinh học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Andréia Rosane M. Valim, Maria Lucia R., et
al (2000), “Mutations in rpoB Gene of Multidrug
Resistant Mycobacterium tuberculosis isolates
from Brazil”, J. Clin. Microbiol, 38: 3119-3122.
[2]. Bộ Y Tế, Trung tâm phòng chống lao quốc gia
(2006), Báo cáo tổng kết Chương trình chống lao
quốc gia 2005, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
[3]. Caws, M., Duy, P. M., Tho, D. Q., Lan, N. T.
N., Hoa, D. V., Farrar, J. (2006), “Mutations
Prevalent among Rifampin and Isoniazid Resistant
Mycobacterium tuberculosis Isolate from a
Hospital in Vietnam”, J. Clin. Microbiol. 44:
2333-2337
[4]. Cavusoglu, C., Hilmioglu, et al (2002),
“Characterization of rpoB mutations in rifampin-
resistant clinial isolates of Mycobacterium tuberculosis
from Turkey by DNA sequencing and Line Probe
Assay”, J. Clin. Microbiol. 40: 4435-4438.
[5]. Gonul Aslan and et al (2008), “Genotypic
analysis of isoniazid and rifampicin resistance in
drug resistant clinical mycobacterium tuberculosis
complex isolates in southern Tukey”, Jpn. J.
Infect. Dis., 61, 255-260
[6]. James M (1995) Antimicrobial agent
resistance in Mycobacteria: Molecular Genetic
Insights. Clinical Microbiol Rev 8: 496-514.
[7]. Nguyễn Đình Bảng (1992), Vi Sinh Vật Y
học, Nhà Xuất bản Học viện Quân Y, Hà Nội.
[8]. Palomino, J.C., Leao, S.C., Ritacco, V.
(2007), Tuberculosis 2007 – from basic science to
patient care, www.tuberculosistextbook.com
[9]. Phạm Hùng Vân (2007) Các quy trình kỹ
thuật sinh học phân tử thường được sử dụng trong
chẩn đoán và nghiên cứu y sinh học.
(http:www.nk-biotek.com.vn).
[10]. Qian, L., Abe, C., Lin, T.P., Lin, T.P., Yu,
M.C., Cho, S.N., Wang, S., Douglas, J.T. (2002),
“rpoB genotypes of Mycobacterium tuberculosis
Beijing family isolates from East Asian countries”
J. Clin. Microbiol., 40, pp. 1091-1094.
[11]. Tuberculosis (2007), External gene search
for ‘Rv0667’,
[12]. Telenti, A., Imboden, P., Marchesi, F.,
Lowrie, D., Cole, S., Colston, M.J., Matter, L.,
Schopfer, K., Bodmer, T. (1993), “ Detection of
rifampicin-resistance mutations in Mycobacterium
tuberculosis”, Lancet 341, pp. 647-650.
13. Trần Văn Sáng (1999), Vi khuẩn lao kháng
thuốc cách phòng và điều trị, Nhà xuất bản Giáo
dục, Hà Nội.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Nghiêm Ngọc Minh và đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 82(06): 97 - 102
102
SUMMARY
DEFINITION OF MUTATION IN THE RPOB GENE CONCERNING WITH
RIFAMPICIN RESISTANCE OF MYCOBACTERIUM TUBERCULOSIS
COLLECTED IN NORTHERN VIETNAM
Nghiem Ngoc Minh1∗, Nguyen Van Bac1, Vu Thi Mai1,
Cung Thi Ngoc Mai1, Nguyen Thai Son2
1Institute of Biotechnology, 2Hospital 103 – Vietnam Military Medical University
Mycobacterium tuberculosis (MTB) is a pathogenic bacterial species in the genus of
Mycobacterium causing most cases of tuberculosis. As reported by WHO tuberculosis threatens
the health of one third of the world’s population. The most facing problem which makes
tuberculosis become more seriously is the appearance of antibiotic-resistant TB strains classified
as Multi-drug Resistant TB (MDR-TB), Extensively Drug Resistant (XDR) and TB co-infected
with HIV/AIDS. screening and detecting drug-resistant strains would help the treatment and
diagnosis for tuberculosis more effective in patients. Advantages in molecular biological
techniques such as PCR allow researchers rapidly, exactly identify the drug-resistant M.
Tuberculosis strains isolated from patients. In this study, primer pairs rpoB-F1 and rpoB-R1 were
designed to amplify the rifampicin resistance determining region (RRDR) including 27 codon of
the rpoB gene. After amplified sequences of Mycobacterium tuberculosis strains isolated from 7
patients of the Tuberculosis and Lung hospital in Hanoi, they were frowarded for sequencing. The
results of sequence analysis showed that a mutation at the codon 516 (GAC→GTC) and
531(TCG→TTG ) were detected. And this result was useful method to change the treatment for
these patients.
Key words: Gen rpoB, multi-drug resistant, Mycrobacterium tuberculosis, rifampicin.
∗
Tel:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33427_37248_7920129106tap8200015_0406_2052314.pdf