Khi tiến hành hoà giải, hoà giải viên cần thực hiện các nguyên tắc, phương pháp hoà giải, chú ý đề cao điều hay, lẽ phải. Phương pháp tiến hành hoà giải thường áp dụng là dùng uy tín của hoà giải viên để giải thích, thuyết phục, hướng dẫn, động viên các bên tranh chấp tự nguyện thoả thuận giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn với phương châm kiên trì và bền bỉ. Để hoà giải đạt kết quả, hoà giải viên cần hiểu rõ đặc điểm tâm lý, tính cách của từng đối tượng (phụ nữ, thanh niên, trẻ em vị thành niên, người già, người có công ) cũng như tính chất vụ việc (dân sự, hôn nhân gia đình, hình sự, hành chính, khiếu nại ) để áp dụng phương pháp và “nghệ thuật” hoà giải phù hợp, tránh vội vàng, nôn nóng, “chụp mũ” hoặc làm tổn hại đến danh dự, tự ái cá nhân của các bên.
Trong quá trình hòa giải, hoà giải viên có thể gặp gỡ, trao đổi với từng bên để tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân mâu thuẫn, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các bên, hướng dẫn, thuyết phục các bên ứng xử phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp.
39 trang |
Chia sẻ: thuychi20 | Lượt xem: 864 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Xã hội học - Hòa giải ở cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n.
- Trường hợp hòa giải thành thì hòa giải viên cần tiếp tục quan tâm, động viên, giúp đỡ, thăm hỏi, nhắc nhở các bên tự nguyện thực hiện thỏa thuận của mình, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt cam kết đó. Có thể biểu dương, động viên kịp thời việc thực hiện cam kết của các bên trong các cuộc họp thôn, tổ dân phố.
- Trong trường hợp việc hoà giải không thành, các bên không thể đạt được thoả thuận và việc tiếp tục hoà giải không thể đạt kết quả, thì tổ viên tổ hòa giải giải thích, hướng dẫn các bên tranh chấp làm thủ tục cần thiết đề nghị các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, tổ viên tổ hoà giải hướng dẫn cho các bên làm thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết.
Dù việc hoà giải thành hay không thành, tổ viên tổ hòa giải đều phải ghi chép nội dung tranh chấp và nội dung hoà giải vào sổ công tác về hoà giải để phục vụ cho việc thống kê báo cáo và tổ chức họp trao đổi kinh nghiệm trong tổ hoà giải, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm về thành công hay thất bại hoặc đề đạt xin ý kiến hướng dẫn của tư pháp cấp xã.
7. Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành hoà giải
7.1. Cần hiểu rõ tâm lý và cách ứng xử của các bên tranh chấp
Trong thực tiễn, phần lớn các bên tranh chấp thường biểu hiện dưới hai dạng sau đây:
- Dạng thứ nhất là các bên tranh chấp thường mang nặng suy nghĩ chủ quan, có nghĩa là luôn cho rằng mình đúng, còn bên kia thì luôn luôn sai. Khi gặp gỡ các bên họ thường đổ lỗi cho nhau, nói xấu về nhau, thậm chí rất căng thẳng, không bên nào nhường nhịn bên nào. Trong quá trình hoà giải, các bên thường tìm mọi cách đưa ra những lý lẽ, bằng chứng có lợi cho mình. Trong trường hợp này có thể đối tượng đúng, nhưng cũng không loại trừ trường hợp họ ngộ nhận, ngụy biện hoặc cố tình đưa ra những thông tin không chính xác, làm sai lệch bản chất vụ việc. Người tiến hành hoà giải cần phải tạo ra môi trường đối thoại cởi mở, thẳng thắn và chân thành. Hoà giải viên phải biết tự kiềm chế, lắng nghe và nghe một cách tích cực, gợi mở cho các bên để họ trình bày những ý nghĩ của mình một cách rõ ràng, mạch lạc, chính xác, khách quan, vô tư và cung cấp các thông tin cần thiết, xác thực có liên quan đến vụ việc hoà giải.
- Dạng thứ hai là các bên biết mình sai nhưng vẫn cố tình bảo vệ cái sai của mình. Đối tượng trong trường hợp này muốn hoà giải viên đứng về phía họ, biến cái sai của mình thành cái đúng để họ được lợi. Đối tượng cũng có thể muốn hoà giải viên cung cấp cho họ những thông tin cần thiết để khai thác được lợi ích từ những cái sai đó. Cũng có thể họ nhờ hoà giải viên giúp họ khắc phục những cái sai, nhằm giảm bớt tổn thất hoặc bồi thường mà họ phải gánh chịu do hành vi có lỗi của họ gây ra.
Trong những trường hợp này, hoà giải viên phải thực hiện đúng nguyên tắc hoà giải, vì lợi ích của cả hai bên, không được giúp các bên thực hiện những hành vi trái pháp luật. Hòa giải viên cần giúp họ giải toả những vướng mắc về mặt tâm lý, để họ thấy rằng pháp luật chỉ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mọi người, có như thế mới duy trì được sự công bằng của luật pháp. Nếu hòa giải viên giúp họ thực hiện những điều sai trái, xâm phạm lợi ích của người khác thì điều đó trái với nguyên tắc hoạt động hoà giải. Tuy nhiên, trong từng trường hợp cụ thể, hoà giải viên có thể giúp các bên biết vận dụng các quy định của pháp luật, đưa ra những tình tiết làm giảm nhẹ trách nhiệm mà họ phải gánh chịu.
7.2. Quan hệ với các bên tranh chấp
Về tâm lý, các bên tranh chấp thường tin tưởng và mong muốn hoà giải viên giúp đỡ họ nhiều điều, muốn thông qua quá trình hoà giải, họ có thể được giúp đỡ để bảo vệ quyền và lợi ích của họ. Bởi vậy, trong quá trình hoà giải, hoà giải viên phải coi các bên hoà giải như người thân của mình, phải xây dựng được quan hệ tốt với họ trên cơ sở chân thực, hợp tác, bền vững. Mặt khác, hoà giải viên phải tạo ra được sự tin tưởng của đối tượng vào Tổ hoà giải và hoà giải viên, giúp đối tượng hiểu rằng hoà giải viên đang giúp đỡ họ giải quyết những vướng mắc, mâu thuẫn, bất đồng và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Trong quá trình tiếp xúc với đối tượng, hoà giải viên phải thực sự kiên nhẫn lắng nghe các bên tranh chấp trình bày về yêu cầu của họ và không được tỏ ra bi quan hoặc lạc quan thái quá sau khi biết được những thông tin đầu tiên của họ. Nếu có điều gì chưa rõ, hoà giải viên có thể đề nghị các bên trình bày lại hoặc yêu cầu họ cung cấp thêm tài liệu để nắm được bản chất của vụ việc tranh chấp và những yêu cầu mà các bên đưa ra. Đối với những vấn đề đối tượng yêu cầu giải thích, hướng dẫn ngay, hoà giải viên phải thận trọng trước khi đưa ra các lời khuyên, vì tư vấn và đưa ra những giải pháp sai có thể làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các bên dẫn đến hoà giải không thành và làm giảm uy tín của hoà giải viên cũng như tổ hoà giải.
Trong quá trình hoà giải, kể cả trường hợp đã hoà giải xong, hoà giải viên vẫn cần thiết phải giữ liên hệ thường xuyên với các bên tranh chấp, tạo dựng mối quan hệ thân thiện với đối tượng để giúp đỡ họ tự nguyện thực hiện thoả thuận và tạo niềm tin của đối tượng đối với tổ hoà giải và hoà giải viên.
8. Kỹ năng hòa giải ở cơ sở
8.1. Khái niệm kỹ năng hòa giải ở cơ sở
Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tiễn có thể hiểu một cách khái quát, kỹ năng là khả năng (năng lực) sử dụng và vận dụng tri thức về một lĩnh vực nào đó vào hoạt động nghề nghiệp trong cuộc sống bằng kinh nghiệm thực tiễn thông qua những thao tác thành thạo như một thói quen nhằm đạt được mục tiêu đề ra. Để có kỹ năng hoà giải, người thực hiện hoà giải không chỉ có kiến thức pháp luật, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ về hoà giải, có hiểu biết về phong tục, tập quán tốt đẹp, truyền thống văn hoá và kinh nghiệm cuộc sống xã hội mà còn phải có khả năng vận dụng thành thạo những kiến thức, hiểu biết đó để phân tích, giải thích, thuyết phục, cảm hoá các bên giải quyết tranh chấp phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp.
Từ cách lý giải nêu trên, chúng ta có thể đưa ra khái niệm kỹ năng hoà giải là khả năng của hoà giải viên vận dụng kiến thức pháp luật, đạo đức xã hội và kinh nghiệm cuộc sống để giải thích, hướng dẫn, thuyết phục, cảm hoá các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn, nhằm xoá bỏ bất đồng và đạt được thoả thuận phù hợp với pháp luật và đạo đức xã hội, góp phần giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, phòng ngừa và hạn chế những hành vi vi phạm pháp luật ở cơ sở.
8.2. Một số kỹ năng hòa giải ở cơ sở
8.2.1. Kỹ năng gặp gỡ và nghe các bên trình bày
a. Kỹ năng giao tiếp
Giao tiếp là quá trình bày tỏ ý định, cảm xúc, trao đổi thông tin với người khác. Giao tiếp có thể bằng lời nói hoặc bằng cử chỉ, hành vi (không lời).
Để thực hiện hoà giải, hoà giải viên phải trực tiếp đến gặp từng bên hoặc các bên tranh chấp để nghe họ trình bày về nội dung vụ việc, những vấn đề vướng mắc và yêu cầu hoà giải. Trong giai đoạn này, hoà giải viên phải kết hợp các kỹ năng: gặp gỡ, nghe đối tượng trình bày, đặt câu hỏi để làm rõ các tình tiết của vụ việc, tạo cơ hội cho các bên ngồi lại với nhau cùng bàn bạc giải quyết tranh chấp
Giao tiếp có các chức năng sau đây:
- Trò chuyện để nắm bắt thông tin;
- Cung cấp cho đối tượng những thông tin chính xác để xóa bỏ những quan điểm lệch lạc, thay đổi niềm tin không đúng đắn;
- Hỗ trợ chia sẻ về mặt tâm lý, cảm thông với đối tượng;
- Giúp đối tượng xác định, lựa chọn đưa ra những quyết định cụ thể, cách giải quyết phù hợp;
- Trang bị cho đối tượng kiến thức, cách ứng xử, suy nghĩ phù hợp.
Khi gặp gỡ đối tượng, hoà giải viên cần có thái độ đúng mực như sau:
- Quan tâm và sẵn lòng giúp đỡ người khác;
- Tôn trọng đối tượng, không phán xét họ (ngắt lời, không lắng nghe, tư thế kênh kiệu, nói năng thiếu lễ độ);
- Nhiệt tình trong công việc và chân thành, cởi mở để tạo sự tin cậy;
- Chấp nhận đối tượng (dù họ ăn mặc, nói năng thế nào cũng không nên phân biệt, đối xử...);
- Quan tâm đến yêu cầu của đối tượng;
- Thông cảm với đối tượng (hiểu được tâm lý, suy nghĩ và cảm xúc của đối tượng).
Khi gặp gỡ, giao tiếp với đối tượng, hoà giải viên cố gắng tìm hiểu về tâm lý của từng loại đối tượng, các mối quan hệ xã hội của đối tượng để có thái độ ứng xử, giao tiếp phù hợp. Hòa giải viên phải khiêm tốn, thể hiện thái độ đúng mực, tôn trọng đối tượng và tạo không khí đối thoại tự do, cởi mở giữa các bên tranh chấp để xây dựng niềm tin và hiểu biết lẫn nhau giữa các bên tranh chấp. Đối với những đối tượng là người dân tộc thiểu số không nói được hoặc không thạo tiếng phổ thông, nếu hoà giải viên không biết tiếng dân tộc thì phải mời người có uy tín biết tiếng dân tộc như già làng, trưởng bản cùng tham gia để có thể hiểu được những điều đối tượng trình bày và yêu cầu của họ.
b. Kỹ năng nghe đối tượng trình bày
Bất luận vụ việc tranh chấp về vấn đề gì, để thu nhận được những thông tin chính xác, trung thực về vụ việc của các bên tranh chấp, hoà giải viên phải chú ý lắng nghe từng bên hoặc cả hai bên trình bày để hiểu rõ về nội dung và bản chất vụ việc. Trong quá trình đối tượng trình bày, hoà giải viên cần chú ý lắng nghe và ghi chép đầy đủ những nội dung chính, ý chính, trên cơ sở đó có thể đặt những câu hỏi yêu cầu đối tượng làm rõ thêm các tình tiết của vụ việc.
Khi nghe các bên tranh chấp trình bày, hoà giải viên cần chú ý một số kỹ năng sau đây:
- Có cử chỉ, điệu bộ, ngôn ngữ thể hiện sự quan tâm, chú ý lắng nghe đối tượng nói (chân thành, thăm hỏi sức khỏe đối tượng và gia đình, mắt nhìn thẳng vào đối tượng khi đối tượng trình bày);
- Tạo cơ hội, điều kiện, môi trường đối thoại cởi mở, thoải mái để các bên tranh chấp diễn đạt hết suy nghĩ, cảm xúc và hành vi của họ; kiềm chế với những lời nói nóng giận của các bên, lắng nghe, để cho họ trút hết những lời bực bội. Phương pháp chuẩn mực để lắng nghe có hiệu quả là tập trung chú ý vào những điều các bên đang nói, gợi ý họ nói rõ ràng, chính xác những ý nghĩ của họ, diễn đạt lại đúng những sự kiện đã xảy ra và yêu cầu nhắc lại những điểm gì còn mập mờ, chưa rõ;
- Kiên trì nghe hết những gì đối tượng nói, không nên cắt ngang lời các bên khi họ đang trình bày hoặc hỏi lại ngay trong khi họ đang trình bày về vụ việc làm cắt đứt dòng suy nghĩ của họ. Nghệ thuật tốt nhất là biết lắng nghe để hiểu, đừng phản ứng lại đối tượng và cần khuyến khích họ nói đến khi không còn gì để nói. Bằng phương pháp đó chúng ta khuyến khích được các bên nói hết những gì cần nói và chúng ta sẽ hiểu được bản chất của vụ việc;
- Bằng lời nói hoặc thái độ, hành vi, cử chỉ để kiểm tra, khẳng định lại những thông tin về suy nghĩ, cảm xúc, hành vi của đối tượng mà mình tiếp nhận được. hoà giải viên cần thể hiện sao cho các bên tin rằng mình đã nắm được đúng quan điểm và bản chất vụ việc thì các bên mới dễ tiếp thu những lời tư vấn và chấp nhận phương án, giải pháp giải quyết tranh chấp mà hoà giải viên đưa ra;
- Tóm lược các nội dung mang tính bản chất của vụ việc và nguyên nhân phát sinh tranh chấp một cách chính xác, khẳng định lại với các bên tranh chấp để thống nhất quan điểm và cách giải quyết vụ việc.
Thông thường, lần đầu tiên tiếp xúc với một tranh chấp có tính chất phức tạp, hoà giải viên chưa thể nắm bắt một cách chắc chắn bản chất của sự việc và nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp. Trong khi đó, các bên tranh chấp thường có tâm lý là người nghe cũng đã nắm được nội dung vụ việc như chính bản thân mình, nên đối tượng thường trình bày theo ý chủ quan và có thể bỏ qua nhiều chi tiết mà họ cho là không cần thiết hoặc những bằng chứng không có lợi cho họ. Vì vậy, hoà giải viên cần nghiên cứu đặt ra những câu hỏi để làm rõ những tình tiết có liên quan đến bản chất của vụ việc và gợi ý để đối tượng trình bày đúng bản chất vụ việc, lưu ý đối tượng trình bày vấn đề một cách vô tư, khách quan, không thiên vị, chủ quan. Hoà giải viên cũng lưu ý đối tượng rằng chỉ có thể đưa ra một giải pháp chính xác, đầy đủ và đúng pháp luật nếu như đối tượng trình bày vấn đề một cách trung thực và khách quan. Ngược lại, giải pháp mà hoà giải viên đưa ra có thể không chính xác nếu đối tượng trình bày thiên vị, không trung thực.
Trong quá trình nghe các bên trình bày, hoà giải viên cần tránh các hành vi sau đây:
- Nghe và phán xét: Chỉ trích, đặt ra những giả định, chỉnh lý, lên lớp về mặt đạo lý, chất vấn, tranh luận với đối tượng trong khi họ đang trình bày,;
- Không nên có điệu bộ, cử chỉ (như lắc đầu, cau có mặt mày, nheo mắt..), lời nói tỏ thái độ phủ định hay khó chịu khi đối tượng trình bày dài dòng, không logic, khó hiểu hoặc đặt ra nhiều câu hỏi không có liên quan đến vụ việc;
- Không nên buồn bực hay cáu giận khi các bên có cử chỉ hoặc lời nói làm mình không hài lòng bởi đó là những bức xúc của họ.
8.2.2. Kỹ năng yêu cầu các bên tranh chấp cung cấp các chứng cứ, tài liệu liên quan đến vụ việc
Để đưa ra lời khuyên (tư vấn) chính xác, đúng pháp luật, cảm hóa, thuyết phục được đối tượng thì hoà giải viên phải đề nghị đối tượng cung cấp đầy đủ các tài liệu (nếu có) phản ánh nội dung và diễn biến của vụ việc tranh chấp.
Trong thực tiễn, hoà giải viên khó có thể đưa ra những lời khuyên (tư vấn) chính xác nếu chỉ nghe đối tượng trình bày. Đối với những tranh chấp đơn giản, rõ ràng, sau khi nghe các bên trình bày, hoà giải viên có thể phân tích, giải thích, hướng dẫn được ngay cho đối tượng, song đối với những vụ việc phức tạp, đã diễn ra trong một thời gian dài, vụ việc đã được một số cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân can thiệp hoặc giúp đỡ giải quyết, nhưng các bên tranh chấp vẫn không bằng lòng và tiếp tục tranh chấp thì phải yêu cầu các bên cung cấp các chứng cứ và tài liệu có liên quan (nếu có) đến nội dung và diễn biến vụ việc (thông thường hòa giải viên chỉ nhận bản sao chụp các giấy tờ, tài liệu đó sau khi đã đối chiếu với bản chính). Trong trường hợp cần thiết, hoà giải viên phải tự mình tìm hiểu, thu thập chứng cứ, gặp gỡ các cơ quan, tổ chức, cá nhân đã từng tham gia giúp đỡ giải quyết, gặp người chứng kiến nghe họ trình bày về diễn biến và nội dung vụ việc mà họ biết được. Chỉ có như vậy thì hoà giải viên mới có thể hiểu biết được bản chất vụ việc, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp, từ đó đưa ra lời tư vấn chính xác, đúng pháp luật, thuyết phục được các bên tranh chấp tự nguyện giải quyết bất đồng.
Trong phần lớn các vụ việc tranh chấp thường có các tài liệu, văn bản, thư từ giao dịch,... liên quan đến vụ việc. Những giấy tờ, tài liệu này là những chứng cứ pháp lý thể hiện nội dung, bản chất của vụ việc hoặc phản ánh diễn biến và quá trình giải quyết tranh chấp. Trong thực tiễn, có những vụ việc đối tượng chỉ trình bày vụ việc một cách chung chung, chưa muốn cung cấp cho hoà giải viên những văn bản, chứng cứ mà họ cho rằng không có lợi cho mình. Hoà giải viên cần thuyết phục để họ cung cấp đầy đủ. Nếu các bên tranh chấp không cung cấp những tài liệu này thì việc hoà giải khó có thể chính xác và đúng pháp luật.
Sau khi đối tượng đã cung cấp đầy đủ các văn bản, tài liệu có liên quan, hoà giải viên cần dành thời gian để đọc, nghiên cứu các giấy tờ, tài liệu đó, trong khi đọc có thể đồng thời hình thành luôn giải pháp trên cơ sở sắp xếp các tài liệu theo tầm quan trọng của vấn đề đưa ra. Có những tài liệu hoà giải viên không hiểu, không đọc được hoặc nghi ngờ về tính chân thực của nó thì cần hỏi lại đối tượng để khẳng định ngay. Trường hợp sau khi nghe đối tượng trình bày và nghiên cứu các tài liệu do đối tượng cung cấp thấy chưa thể đưa ra lời khuyên ngay được mà phải có thời gian nghiên cứu thì hẹn đối tượng vào một ngày khác. Trong mọi trường hợp, khi chưa thực sự tin tưởng về giải pháp mà mình sẽ đưa ra cho đối tượng thì hoà giải viên không nên vội vàng đưa ra giải pháp đó.
8.2.3. Kỹ năng tra cứu tài liệu tham khảo
Trong quá trình hoà giải, một hoạt động hết sức quan trọng và mang tính quyết định của hoà giải viên là tư vấn pháp luật (giải đáp pháp luật, cung cấp thông tin pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp, đưa ra những lời khuyên về những vấn đề có liên quan đến pháp luật, hướng dẫn các bên xử sự phù hợp với pháp luật) để các bên tranh chấp nâng cao ý thức pháp luật, hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình, trên cơ sở đó tự nguyện giải quyết tranh chấp phù hợp với pháp luật. Để đưa ra lời tư vấn pháp luật chính xác, việc tra cứu tài liệu pháp luật trong quá trình hoà giải là điều kiện bắt buộc bởi vì:
Thứ nhất, để khẳng định với các bên tranh chấp rằng hoà giải viên đang thực hiện hoà giải theo pháp luật, trên cơ sở pháp luật chứ không phải theo cảm tính chủ quan, duy ý chí của mình;
Thứ hai, việc tra cứu tài liệu pháp luật có liên quan đến vụ việc hoà giải sẽ giúp hoà giải viên kiểm tra tính chính xác những tư duy và khẳng định chính thức những lời tư vấn của mình là đúng pháp luật vì trong thực tiễn, không phải bao giờ hoà giải viên cũng có thể nhớ chính xác tất cả các quy định thuộc các lĩnh vực pháp luật khác nhau. Nếu thấy cần thiết hoặc các bên yêu cầu thì hoà giải viên có thể cung cấp cho các bên bản sao văn bản, tài liệu đó cùng với lời tư vấn mà mình đưa ra. Trong trường hợp không tìm thấy văn bản cần tìm hoặc nghi ngờ về hiệu lực của văn bản đó (ví dụ văn bản đã bị huỷ bỏ và có một văn bản mới thay thế) thì hoà giải viên có thể chưa đưa ra lời khuyên ngay mà hẹn đối tượng vào một thời điểm khác để khẳng định lại tính hợp pháp của văn bản pháp luật cần áp dụng.
Trong trường hợp vụ việc hoà giải có liên quan đến lĩnh vực pháp luật mà hoà giải viên chưa hiểu sâu thì nên gặp các nhà chuyên môn hay đồng nghiệp khác am hiểu sâu về lĩnh vực pháp luật đó để tham khảo ý kiến trước khi đưa ra lời khuyên, tránh tình trạng mặc dù hoà giải viên chưa nắm vững pháp luật nhưng vẫn thực hiện tư vấn, đưa ra những giải pháp dẫn đến việc hoà giải không chính xác, không đúng pháp luật.
8.2.4. Kỹ năng xem xét, xác minh vụ việc
Đối với những vụ việc phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật hoặc đã được nhiều cơ quan, tổ chức cá nhân giúp đỡ giải quyết mà các bên vẫn không thoả thuận được với nhau trong cách giải quyết tranh chấp hoặc sau khi đã nghe cả hai bên trình bày, xem xét các giấy tờ, tài liệu các bên cung cấp (hoặc các bên chưa cung cấp đủ các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến vụ việc), hoà giải viên thấy chưa đủ cơ sở để hướng dẫn đối tượng, thì cần phải tiến hành xem xét, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ, gặp gỡ, tiếp xúc với các cơ quan, tổ chức và những người có liên quan để tìm hiểu rõ bản chất vụ việc, tránh vội vàng đưa ra những kết luận phiến diện, chủ quan.
Quá trình xem xét, xác minh vụ việc đòi hỏi hoà giải viên phải thực sự khách quan, vô tư, nhất là khi tiếp xúc với những người có lợi ích liên quan trong vụ việc tranh chấp hoặc thân quen với một bên tranh chấp. Thông thường, những người có lợi ích liên quan đến vụ việc hoặc thân quen luôn bảo vệ những việc của bên có liên quan đã làm nên chỉ đưa ra những thông tin có lợi cho bên tranh chấp mà họ có liên quan. Vì vậy, hoà giải viên cần khéo léo đề nghị những người có liên quan cung cấp những thông tin, tài liệu chính xác, trung thực. Việc xem xét, xác minh vụ việc nên lập thành biên bản để làm căn cứ giải thích, thuyết phục các bên tự nguyện hoà giải.
8.2.5. Kỹ năng giải thích, thuyết phục, hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp
Giải thích, thuyết phục và hướng dẫn các bên tự nguyện giải quyết tranh chấp được hoà giải viên thực hiện trong suốt quá trình hoà giải. Từ lần gặp gỡ đầu tiên với từng đối tượng hoặc gặp gỡ cả hai bên, hoà giải viên đã phải đưa ra lời giải đáp, lời khuyên, giải pháp, phương án, để tháo gỡ những vướng mắc của các bên; xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào các quan hệ xã hội có liên quan đến vụ việc tranh chấp, phân tích những hành vi nào phù hợp với pháp luật, với đạo đức xã hội và hành vi nào trái pháp luật, trái với đạo đức xã hội, nêu rõ hậu quả pháp lý mà các bên phải gánh chịu nếu tiếp tục tranh chấp và đưa ra định hướng giải quyết tranh chấp để các bên tự lựa chọn và quyết định. Một điều quan trọng là trong quá trình hòa giải, hòa giải viên cần phải luôn kết hợp cả tình và cả lý để phân tích, giải thích, thuyết phục các bên tranh chấp hòa giải với nhau.
Khi thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thỏa thuận, hòa giải viên cần lưu ý một số điểm sau:
- Có thái độ thông cảm và tôn trọng đối tượng: Khi phân tích, giải thích cho các bên biết hành vi của họ là đúng hay sai, hòa giải viên cần tạo nên không khí gần gũi và tin tưởng, cảm thông và tôn trọng đối tượng, luôn có thái độ ân cần, chia sẻ, nhiệt tình, làm cho không khí nói chuyện được vui vẻ, chan hòa. Như vậy, đối tượng sẽ lắng nghe ý kiến thuyết phục của hòa giải viên. Khi thuyết phục đối tượng mà nói được những suy nghĩ, trăn trở của họ, dễ đạt được kết quả mong muốn. Muốn thế mọi lý lẽ, thuyết phục của hòa giải viên cần xuất phát từ lập trường của các bên tranh chấp mà suy nghĩ và đặt vấn đề, đưa ra giải pháp tối ưu cho các bên tranh chấp, hợp tình, hợp lý. Nếu khi thuyết phục, hòa giải viên không biết tôn trọng đối tượng thì chắc chắn cuộc hòa giải sẽ không thành công.
- Khơi gợi cho các bên tranh chấp những tình cảm tốt đẹp vốn có giữa họ (tình cảm gia đình, tình cảm hàng xóm, tình cảm bạn bè) để họ dễ thông cảm cho nhau.
- Đưa ra những chứng cứ, ví dụ cụ thể: Điều thuyết phục đối tượng tốt nhất là hòa giải viên cần đưa ra được những ví dụ, những chứng cứ minh họa cụ thể cho phân tích, lập luận của mình.
- Cần phải kiên trì thuyết phục, không nên nôn nóng: hòa giải viên cần phải suy nghĩ chín chắn, đắn đo câu nói, nói cái gì trước, cái gì sau, điều gì không nên nói. Ngoài ra, cần phải bình tĩnh, kiên trì giải quyết từng bước, nhất là đối với những người có thái độ ngoan cố.
Về thực chất, định hướng cho các bên là việc hướng dẫn cách ứng xử (nên làm gì và không nên làm gì) cho các bên để giải quyết tranh chấp tốt nhất. Việc đưa ra giải pháp mang tính định hướng sẽ tạo cơ hội cho các bên lựa chọn phương thức bảo vệ quyền lợi của mình một cách tốt nhất. Sau khi hoà giải viên đã đưa ra định hướng giải quyết tranh chấp, các bên sẽ biết họ cần phải làm gì tiếp sau.
Yêu cầu đặt ra khi tiến hành hòa giải là những lời khuyên, thuyết phục và hướng dẫn của hoà giải viên phải được các bên tự nguyện chấp nhận, đồng thuận nghe theo và làm theo bằng việc các bên tự định đoạt giải quyết dứt điểm tranh chấp, lựa chọn cách xử sự phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội, phong tục tập quán tốt đẹp, tránh được những hậu quả pháp lý bất lợi, bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của các bên một cách tốt nhất.
Trên đây là một số vấn đề về nghiệp vụ và kỹ năng hoà giải cơ bản nhất. Tuy nhiên, thực tế các tranh chấp rất phức tạp, đa dạng, mỗi một loại tranh chấp có một màu sắc khác nhau và mỗi loại đối tượng tranh chấp có tâm lý, tính cách, trình độ học vấn, năng lực nhận thức và xử sự khác nhau. Vì vậy, việc áp dụng các kỹ năng này vào thực tiễn hoà giải các tranh chấp ở cơ sở thì vô cùng sinh động, phụ thuộc vào sự nhạy bén, sáng tạo và năng lực thực hành của mỗi hoà giải viên.
III. KINH NGHIỆM HÒA GIẢI Ở CƠ SỞ THÔNG QUA MỘT SỐ TÌNH HUỐNG
1. Tình huống về lĩnh vực dân sự
Tình huống 1: Ông Kha có ý định mua mấy con bò cái để nuôi. Biết được bà Mai ở gần có nuôi rất nhiều bò và định bán để lấy tiền sửa chữa lại nhà, ông Kha đến nhà bà Mai để mua. Sau khi kiểm tra, xem xét, ông Kha chọn được 2 con bò vừa ý, ông Kha và bà Mai đồng ý với giá 21 triệu đồng. Ông Kha đặt cọc trước 3 triệu, hẹn hôm sau sang trả đủ tiền và dắt bò về. Đúng hẹn, ông Kha đem tiền đến, nhưng sau khi kiểm tra lại thấy bò bị thương ở chân, đi không vững, nên ông Kha không đồng ý mua và yêu cầu bà Mai trả lại tiền cọc. Bà Mai cho rằng do sơ suất trong lúc chăn giữ, nên bò bị một vết thương ở chân, bà đã mời cán bộ thú y đến chữa trị, vài hôm sau sẽ hết. Bà Mai đề nghị ông Kha trả đủ tiền, dắt bò về, không đồng ý trả lại tiền cọc cho ông Kha. Sau đó hai bên cãi vã, to tiếng và nặng lời với nhau. Sự việc trên được đưa đến tổ hoà giải.
Quá trình hoà giải: Tổ hoà giải phân tích việc con bò bị thương ở chân là rủi ro nằm ngoài ý muốn của người bán; vết thương nhẹ không chạm vào xương, sẽ lành hẳn trong vòng hai tuần (theo lời cán bộ thú y), việc ông Kha đòi lại tiền cọc và không mua bò, thì sẽ gây khó khăn cho bà Mai, trong lúc bà Mai đang cần bán bò để có tiền sửa lại nhà, chuyện rủi ro xảy ra, các bên phải cùng nhau chia sẻ, gánh vác.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005, nếu việc mua bán đã được đặt cọc, bên mua không đồng ý mua thì mất tiền đặt cọc, còn bên bán đổi ý không bán thì phải trả gấp đôi số tiền cọc lại cho bên mua, nhưng đây là sự việc xảy ra ngoài ý muốn của hai bên.
Để giữ gìn tình làng, nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ thể hiện đạo lý con người, tổ hoà giải đề xuất hướng giải quyết là: để bò ở lại nhà bà Mai, bà Mai có nghĩa vụ chăm sóc, chữa trị vết thương. Trong hai tuần, nếu bò trở lại bình thường và không ảnh hưởng đến việc đi, đứng của nó sau này (phải có sự theo dõi, kết luận khách quan của cán bộ thú y) thì ông Kha đem tiền đến trả đủ cho bà Mai để dắt bò về. Sau hai tuần bò vẫn chưa lành vết thương, thì bà Mai có nghĩa vụ trả lại tiền cọc cho ông Kha. Nếu 2 bên đồng ý thì ký tên vào biên bản, căn cứ vào biên bản để thực hiện, không nên có lời qua tiếng lại mà làm mất đoàn kết, ảnh hưởng đến tình làng, nghĩa xóm.
Ông Kha và bà Mai sau khi nghe hòa giải viên phân tích, đề xuất hướng giải quyết, cả 2 người đã thống nhất theo đề xuất này, bắt tay xin lỗi về những lời nói, hành động không hay đã xảy ra và cùng ký tên vào biên bản hòa giải.
Sau hai tuần, được bà Mai chăm sóc tốt, con bò bị thương đã lành vết thương. Ông Kha đã trả đủ tiền cho bà Mai và dắt bò về nuôi, kết thúc việc tranh chấp trong sự ấm áp tình nghĩa xóm làng.
Tình huống 2: Nhà bà Bảo và nhà bà Trinh liền kề nhau. Do chuyển lên thành phố sống với con nên bà Trinh bán lại nhà cho ông Tú. Ông Tú làm nhà và đào ao để nuôi cá, khi đào ao đã gây nứt móng nhà của bà Bảo và có nguy cơ làm sập đổ nhà của bà. Bà Bảo yêu cầu ông Tú không được đào ao như vậy và nếu ông cứ cố tình đào thì bà sẽ cho con sang dạy cho ông một bài học để ông không ở đây được nữa. Ông Tú không chịu vì ông cho rằng đất ông bỏ tiền ra mua thì ông muốn làm gì thì làm, miễn là không lấn sang phần đất nhà bà Bảo, còn việc nhà bà bị nứt móng thì phải có biện pháp mà khắc phục. Sự việc trên đã gây mâu thuẫn rất căng thẳng giữa hai gia đình. Là cán bộ hòa giải ông (bà) hãy hòa giải tình huống trên.
Quá trình hòa giải: Sau khi tìm hiểu rõ sự việc, tổ hòa giải giao cho hoà giải viên trực tiếp gặp gỡ các bên để trao đổi, thuyết phục hai bên giải quyết với nhau một cách hợp lý. Sau đó hòa giải viên gặp từng bên để giải thích, thuyết phục, phân tích đúng, sai của từng bên để các bên thấy được việc nào đúng, hợp lý thì nên làm, việc nào sai, không hợp lý thì không được làm cần tôn trọng và bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhau, giữ gìn tình cảm xóm giềng. Trong quá trình thuyết phục các bên, có thể vận dụng câu ca dao: “Bán anh em xa, mua láng giềng gần” hoặc “Hàng xóm tối lửa tắt đèn có nhau”... Khuyên bà Bảo nên dùng lời nói đúng mực với ông Tú, đặt vấn đề nhẹ nhàng để ông Tú hiểu được việc đào ao của ông là sai, chứ không nên to tiếng, nặng lời và đe dọa nhau gây thêm căng thẳng. Với ông Tú, cũng phân tích cho ông hiểu việc đào ao của ông gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngôi nhà của bà Bảo có nguy cơ gây thiệt hại về tài sản và tính mạng con người, nên ông phải chấm dứt ngay việc làm của mình, đồng thời nêu ra các quy định của pháp luật để ông Tú hiểu, cụ thể, Điều 268 Bộ luật Dân sự năm 2005 về nghĩa vụ bảo đảm an toàn với công trình xây dựng liền kề quy định: “Khi đào giếng, đào ao hoặc xây dựng các công trình dưới mặt đất, chủ sở hữu công trình phải đào, xây cách mốc giới một khoảng cách do pháp luật về xây dựng quy định. Trong trường hợp công trình có nguy cơ đe dọa sự an toàn bất động sản liền kề và xung quanh thì chủ công trình phải thực hiện ngay các biện pháp khắc phục; nếu gây thiệt hại cho chủ sở hữu bất động sản liền kề và xung quanh thì phải bồi thường”...
Trước sự phân tích có tình, có lý của hòa giải viên, ông Tú nhận ra cái sai của mình đã tự nguyện chấm dứt việc đào ao, mâu thuẫn giữa ông Tú và bà Bảo được giải quyết. Hai gia đình trở lại vui vẻ và hòa thuận.
Tình huống 3: Trên đường về nhà, ông Thắng ghé vào chơi nhà bạn. Mải vui chén rượu, ông quên không buộc trâu, để trâu vào phá một góc ruộng ngô đang kỳ trổ cờ của nhà bà Thái - người cùng bản. Bà Thái yêu cầu ông Thắng phải đền toàn bộ thiệt hại, nhưng ông Thắng chỉ chấp nhận đền cho bà một nửa, vì cho rằng ông không cố ý thả trâu vào phá ruộng ngô. Mỗi người một ý, chẳng ai chịu ai, mâu thuẫn giữa hai nhà ngày càng gay gắt.
Quá trình hòa giải: Ông Ninh, hoà giải viên của bản đã được phân công tiến hành hoà giải giữa hai gia đình. Ông Ninh xác định mâu thuẫn giữa hai gia đình là do không thống nhất được việc đền bù thiệt hại ruộng ngô. Nguyên nhân là con trâu của ông Thắng vào phá ruộng, do ông quên không buộc.
Ông Ninh đến gặp cả hai gia đình nhằm thuyết phục, giảng giải sự đúng sai của từng bên gia đình. Ông giải thích cho ông Thắng hiểu việc để trâu nhà mình vào phá một phần ruộng ngô đang kỳ thu hoạch của bà Thái, cho dù là lỗi vô ý thì cũng trái với quy định của pháp luật hiện hành. Theo quy định tại khoản 1 Điều 625 Bộ luật Dân sự năm 2005 thì “Chủ sở hữu súc vật phải bồi thường thiệt hại do súc vật gây ra cho người khác”. Với bà Thái, ông giải thích, việc trâu nhà ông Thắng vào phá ruộng là do ông vô ý không buộc trâu, chứ không phải chủ định thả trâu vào phá ruộng. Hơn nữa, hai người còn là người cùng bản. Việc gây thiệt hại xảy ra ngoài ý muốn của hai gia đình, do vậy việc bà đòi bồi thường toàn bộ thiệt hại là không nên. Hai gia đình có thể thoả thuận với nhau về mức bồi thường và hình thức bồi thường cho đúng quy định của pháp luật và quy ước của bản, nhằm giữ hoà khí và sự bình yên của bản. Tại khoản 1, 2 Điều 605 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định về nguyên tắc bồi thường như sau:
“1. Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời, các bên có thể thoả thuận về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Người gây thiệt hại có thể giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình”.
Sau khi nghe ông Ninh thuyết phục, giải thích, ông Thắng, bà Thái nghe ra, vui vẻ bằng lòng thoả thuận với nhau để ông Thắng bồi thường một phần thiệt hại cho bà Thái.
2. Tình huống về lĩnh vực hôn nhân và gia đình
Tình huống 1: Bà Dung đã nhiều năm mâu thuẫn, xích mích với con dâu, ban đầu chỉ là những mâu thuẫn nhỏ xảy ra trong sinh hoạt gia đình, rồi cách cư xử của con dâu chưa được khéo léo trong quan hệ với mẹ chồng, sau ngày càng gay gắt, bà Dung đã đuổi con dâu ra khỏi nhà...
Quá trình hòa giải: Biết được mâu thuẫn của gia đình bà Dung, tổ hòa giải xóm 6 đã cử đồng chí Chi hội trưởng Chi Hội phụ nữ, tổ viên tổ hòa giải đến nắm tình hình, tiến hành hòa giải vụ việc.
Sau khi tìm hiểu, biết rõ bà Dung và con dâu mâu thuẫn với nhau xuất phát từ những chuyện lặt vặt trong gia đình, bà Dung khó tính, hay để ý khắt khe với con dâu, con dâu bà Dung lại nói năng thiếu lễ phép với mẹ chồng, hai mẹ con lời qua tiếng lại, nguyên nhân sâu xa chỉ vì kinh tế gia đình khó khăn, đất đai nhà cửa chặt hẹp.
Tổ viên tổ hòa giải đã gặp gỡ từng bên, phân tích, thuyết phục các bên hiểu rõ điều hay, lẽ phải, cuộc sống gia đình đã khó khăn, mọi người trong gia đình càng cần phải yêu thương, cảm thông, chia sẻ và giúp đỡ nhau nhiều hơn, bớt đi nỗi vất vả, cực nhọc, cùng nhau vun đắt xây dựng cuộc sống gia đình. Luật Hôn nhân và gia đình quy định các thành viên cùng sống chung trong gia đình đều có nghĩa vụ quan tâm, giúp đỡ nhau, cùng nhau chăm lo đời sống của gia đình.
Về phía bà Dung, là mẹ chồng bà nên coi con dâu như con đẻ của mình, các cụ ta vẫn thường nói “dâu con, rể khách”. Làm cha, làm mẹ bà nên thông cảm, vị tha và hiểu cho con dâu của mình còn “trẻ người non dạ”, con dâu có điều gì không phải thì nhẹ nhàng dạy bảo, chắc chắn con dâu bà sẽ nhận ra cái sai của mình mà tự sửa chữa, cuộc sống gia đình sẽ thỏa mái, vui vẻ và con trai bà cũng sẽ không phải buồn bực, khó xử vì mâu thuẫn giữa mẹ và vợ mình.
Về phía cô con dâu bà Dung, tổ viên tổ hòa giải đã phân tích cho cô thấy việc cô cư xử thiếu lễ phép với mẹ chồng là sai. Là phận con, cô cần yêu quý, kính trọng, hiếu thảo, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, cha mẹ chồng cũng như cha mẹ đẻ, giữ gìn truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam. Cô phải hiểu rằng nếu như không có cha mẹ chồng thì làm sao có chồng và các con của mình, “mẹ sinh ra anh để bây giờ cho em”. Nếu mẹ chồng có thái độ hoặc lời nói không đúng thì lựa lúc mẹ chồng vui vẻ cô giải thích để mẹ chồng hiểu và thông cảm.
Sau đó tổ hòa giải đã mời mẹ con bà Dung ngồi lại với nhau để dàn hòa. Bà Dung và cô con dâu đã hiểu và nhận ra lỗi của mình. Tổ hòa giải yêu cầu cô con dâu chủ động xin lỗi mẹ chồng. Hòa giải xong, bà Dung đã chủ động yêu cầu cô con dâu về nhà mình, cô con dâu đã quay trở về sống vui vẻ cùng gia đình nhà chồng.
Tình huống 2: Đầu năm 2004, vợ chồng anh Tỏn, chị Khuyến cư trú tại xóm Hồng, xã Bảo Hiệu, huyện Yên Thủy thường xuyên cãi cọ, xô xát lẫn nhau, dẫn đến chị Khuyến phải làm đơn xin ly dị anh Tỏn. Anh Tỏn đã đề nghị tổ hoà giải xóm giúp đỡ.
Khi nhận được đề nghị của anh Tỏn, tổ trưởng tổ hoà giải đã trực tiếp gặp riêng anh Tỏn để tìm hiểu nguyên nhân xảy ra mâu thuẫn, anh Tỏn cho biết: về kinh tế, tài chính của gia đình anh giao cho chị Khuyến quản lý, nhưng khi mệt nhọc thèm rượu bảo chị Khuyến mua thì chị không mua. Khi anh em bạn bè mời ăn cưới hoặc mừng nhà mới, anh bảo chị Khuyến đưa tiền để đi mừng, chị cũng không đưa. Vì lý do trên mà khi anh Tỏn đến nhà anh em bạn bè có lòng cho ăn uống thì anh thường uống say, khi về nhà hay chửi bới, doạ nạt chị Khuyến (theo anh nói là làm thế để cho chị Khuyến bỏ cái tính ki bo ấy đi - “thuyền theo lái, gái theo chồng”).
Về việc xin ly hôn, chị Khuyến cho biết việc chị đòi ly dị là vì anh Tỏn hay uống rượu say, chửi bới, doạ nạt chị, anh Tỏn sống không có tình cảm.
Quá trình hoà giải: Khi đã có được những thông tin từ cả hai bên về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn, tổ trưởng tổ hoà giải đến từng nhà hàng xóm của anh Tỏn, chị Khuyến để tìm hiểu, còn nguyên nhân nào khác không. Biết được không còn nguyên nhân nào khác, tổ trưởng tổ hoà giải đã định ngày và địa điểm hoà giải tại nhà ông chú của anh Tỏn. Thành phần của buổi hoà giải gồm có: các thành viên trong tổ hòa giải, anh Tỏn, chị Khuyến, đại diện của một vài gia đình lân cận, ông chú của anh Tỏn, anh của chị Khuyến.
Tổ trưởng tổ hoà giải yêu cầu chị Khuyến và anh Tỏn lần lượt trình bày mâu thuẫn dẫn đến việc chị Khuyến xin ly hôn. Cả hai anh chị vẫn đưa ra ý kiến như trong những lần tiếp xúc trước và nêu lên những bức xúc của riêng từng người. Đại diện gia đình hàng xóm phát biểu cho rằng cả hai anh chị cư xử như vậy là chưa phải đạo vợ chồng, còn có sự ích kỷ trong suy nghĩ.
Sau khi lấy ý kiến tất cả mọi người có mặt, tổ trưởng tổ hoà giải phân tích cái đúng, cái sai của hai vợ chồng. Đối với chị Khuyến, đầu tiên ông nói về hoàn cảnh gia đình, nói về cuộc sống, về những điều tốt đẹp mà anh chị đã xây đắp trong gần 10 năm chung sống, về niềm hạnh phúc mà không phải gia đình nào cũng có được. Anh chị có hai đứa con khôn lớn, trai có, gái có, cuộc sống gia đình tuy còn vất vả, song cũng tạm ổn. Thế mà vì một sự xích mích va chạm giữa vợ chồng, trong đó cũng có phần lỗi của chị Khuyến, mà chị đòi dứt bỏ tình nghĩa vợ chồng. Khi chồng có điều không phải, chị đã không dùng tình cảm để thuyết phục chồng, lại thường đổ thêm dầu vào lửa. Là đàn ông ai cũng thường có những lúc vui bạn vui bè, chén trà chén rượu, những khi như thế, chị nên dành thời gian để an ủi, tìm hiểu tâm tư của chồng. Chị cần nghĩ đến lợi ích của các con khi chúng phải chia lìa chị em, có đứa phải sống thiếu tình cảm chăm sóc của cha hoặc mẹ.
Đối với anh Tỏn, việc khuyên dạy vợ con là trách nhiệm của người làm chồng, nhưng bằng tình cảm, bằng lời khuyên răn, chứ không phải bằng lời chửi bới doạ nạt. Người chồng phải gương mẫu, những lời khuyên nhủ phải đúng lúc, đúng chỗ, phải thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau. Anh cũng phải biết tôn trọng vợ, vợ chồng phải bình đẳng, chứ không phải là vợ thì phải nhất nhất nghe theo chồng, đáp ứng những đòi hỏi vô lý của người chồng đặt ra. Quyền của người phụ nữ được pháp luật bảo vệ, không ai xâm phạm được.
Sau khi tổ trưởng tổ hòa giải nói những lời tâm huyết của mình, các thành viên của tổ và những người được mời dự phát biểu ý kiến. Mọi người đều thống nhất lời của tổ trưởng là thấu tình đạt lý, vừa nói lên tình cảm gia đình, truyền thống dân tộc, vừa nêu được các quy định pháp luật về quyền và trách nhiệm của vợ chồng, phân tích cái được, cái đúng, cái sai trong cư xử của vợ chồng để anh chị Tỏn - Khuyến thấy được mà sửa chữa. Hai vợ chồng phải biết giữ gìn hạnh phúc gia đình và cùng nhau nuôi dạy con cái.
Qua ý kiến phân tích của mọi người, tổ hoà giải yêu cầu hai vợ chồng anh chị Tỏn - Khuyến cho ý kiến. Chị Khuyến, anh Tỏn đều nhận ra lỗi của mình, hứa sẽ sửa chữa, mong muốn gia đình đoàn tụ.
Việc hoà giải đã thành công tốt đẹp, kinh nghiệm của lần hoà giải này được rút ra là: việc hoà giải không được kéo dài, cố gắng nắm bắt được hết những mâu thuẫn phát sinh của vụ việc; tổ trưởng tổ hoà giải phải là người có uy tín, năng động trong công tác vận động, am hiểu lối sống đạo đức, truyền thống, phong tục tập quán và các quy định của pháp luật, vận dụng truyền thống đạo đức dân tộc kết hợp với các quy định của pháp luật vào hòa giải, có lời nói diễn cảm thì mới thuyết phục được lòng người. Ngoài ra các thành viên trong tổ cũng cần có lòng nhiệt tình, đoàn kết, việc hoà giải cần sự kiên trì, nhẫn nại, nhất là với những vụ việc tuy mâu thuẫn nhỏ, nhưng các bên đương sự cứ khăng khăng bảo vệ chính kiến của mình. Có như vậy việc hoà giải mới đạt kết quả.
Tình huống 3: Lý Láo Tả và Tẩn Lở Mẩy kết hôn với nhau được 6 năm và đã có 2 con chung, đứa lớn lên 4, đứa nhỏ lên 2 nhưng đều là con gái, gia đình Tả chỉ có anh là con trai duy nhất nên bắt vợ chồng anh phải sinh bằng được con trai mới thôi. Tuy nhiên, chị Mẩy không đồng ý, dẫn đến gia đình thường xuyên xảy ra to tiếng với nhau, gia đình anh Tả nói nếu chị Mẩy không chịu đẻ thêm cháu trai, họ sẽ đi hỏi cưới vợ khác cho anh Tả để có cháu trai nối dõi. Chị Mẩy đến nhà chị Tẩn - là hoà giải viên của thôn để nhờ giúp đỡ.
Quá trình hoà giải: Chị Tẩn đã xác định nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn của vợ chồng anh Tả là do gia đình anh Tả bắt vợ phải sinh cho được một cậu con trai cho dù hai người đã có 2 cô con gái, nhưng vợ Tả không đồng ý vì cho rằng có 2 đứa con là đủ rồi, con nào cũng là con, không nên đẻ nữa, đông con sẽ vất vả.
Sau khi xác định được nguyên nhân mâu thuẫn, chị Tẩn đã mời cộng tác viên dân số và cán bộ y tế xã đến gặp gia đình anh Tả để hoà giải.
- Chị Tẩn đã lựa lời khuyên can và vận dụng các quy định của pháp luật để giải thích, chị phân tích với anh Tả: Theo quy định của khoản 3 Điều 2 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì vợ chồng anh có nghĩa vụ thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình, điểm a khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh Dân số cũng quy định: công dân có nghĩa vụ thực hiện kế hoạch hoá gia đình, xây dựng quy mô gia đình ít con, ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc và bền vững.
- Phân tích để gia đình anh Tả thấy việc sinh “gái hay trai chỉ hai là đủ” do vậy con nào cũng là con; Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con, giữa con trai và con gái, (ví dụ: nhiều gia đình đã sinh 3 hoặc 4 người con gái, sau đấy sinh thêm cậu con trai, vì có một con trai, nên nuông chiều, dẫn đến người con trai duy nhất đó sống ích kỉ, hoặc chơi bời lêu lổng, không chịu nghe ai, lớn lên thành hư hỏng, bố mẹ cũng không nhờ cậy được gì. Ngược lại, có nhiều gia đình chỉ sinh con gái, nhưng quan tâm chăm sóc, giáo dục, dạy dỗ cho các con học hành đến nơi đến chốn, lớn lên thành những người con hiếu thảo là người có ích cho xã hội).
- Thuyết phục để gia đình anh Tả không ép buộc chị Mẩy phải sinh cho được con trai, càng không có quyền ép buộc anh Tả bỏ chị Mẩy để lấy người phụ nữ khác, vì pháp luật cấm cưỡng ép, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng. Nếu gia đình anh Tả cố tình làm vậy là vi phạm pháp luật.
Chị Tẩn đã cùng cộng tác viên dân số là cán bộ y tế giải thích, phân tích và thuyết phục gia đình anh Tả nhận ra việc bắt chị Mẩy đẻ thêm cháu trai là không phù hợp với các quy định của pháp luật.
3. Tình huống về lĩnh vực đất đai
Tình huống 1: Nhà ông Bình và nhà ông Chung là hàng xóm liền kề nhau. Năm 2003, ông Chung đào ao thả cá ở mảnh vườn sau nhà ông Bình. Thấy người nhà ông Chung đào sát vào chân bờ tường nhà mình, ông Bình liền yêu cầu ông Chung cho đào ao lùi ra một khoảng cách nhất định, nhưng ông Chung không đồng ý, vì lý do ông Bình khi xây nhà và bờ rào đã lấn chiếm đất ranh giới giữa 2 nhà, làm mất mốc giới lịch sử đã có từ trước đến nay. Hai gia đình xảy ra mâu thuẫn từ đó, khi gia đình ông Chung cho người đào ao thì ông Bình kêu con cháu đến cản lại và nhiều lần xảy ra xô xát, cãi vã.
Quá trình hoà giải: Tiến hành tìm hiểu sự việc, phối hợp với cán bộ địa chính của Uỷ ban nhân dân xã để tìm hiểu về lịch sử 2 mảnh đất trên, trực tiếp xem xét hiện trường. Tìm thời điểm thích hợp để gặp gỡ đối tượng và phân tích cho các bên hiểu các quy định của Bộ luật Dân sự (Điều 268) về nghĩa vụ bảo đảm an toàn đối với công trình xây dựng liền kề và quy định của Luật Đất đai khi các bên tranh chấp về ranh giới liền kề.
Được biết, khi xây bờ ao, ông Bình đã thoả thuận với ông Chung về việc phá mốc giới lịch sử là hàng cây dứa gai cũng nhằm mục đích cải tạo lại vườn tạp đã được ông Chung đồng ý, nhưng hai bên không làm văn bản. Để xác định xem ông Bình có lấn chiếm đất nhà ông Chung hay không, cán bộ hoà giải cùng cán bộ địa chính xã tiến hành đo lại diện tích đất của hai hộ. Kết quả là phần diện tích đất thực tế mà hai hộ đang sử dụng lớn hơn diện tích có trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà 2 gia đình đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp. Điều này khẳng định ông Bình không lấn chiếm đất nhà ông Chung.
Kết hợp việc phân tích đạo lý ở đời, tình nghĩa làng xóm và truyền thống tương thân tương ái vốn có của dân tộc ta, cuối cùng hai bên đã ngồi lại với nhau, cùng chấp hành pháp luật và giữ được tình đoàn kết.
Tình huống 2: Năm 1999, ông Dia có mượn của ông Tình 5.000 m2 đất rừng, là khu đất có độ dốc dưới 130 để trồng cây hoa màu ngắn ngày (ngô, dưa hấu). Vì thấy hộ ông Dia còn nghèo, nên ông Tình vui lòng cho ông Dia mượn đất để tạo điều kiện cho ông Dia phát triển kinh tế, nhanh chóng thoát nghèo. Đến năm 2004, hộ gia đình nhà ông Dia đã có nhà xây, kinh tế khá giả hơn trước. Ông Tình thấy diện tích đất cho mượn đã bạc màu, nên ông đã đến nhà ông Dia trao đổi xin lại chỗ diện tích đất cho mượn để trồng cây lâu năm. Qua nhiều năm sản xuất có thu nhập cao, nên ông Dia nảy ra ý định chiếm dụng khu đất đó, không đồng ý trả lại và nói với ông Tình là “đất của trời chứ không của ai”. Sau đó ông Dia tiếp tục đầu tư để canh tác vụ tiếp theo. Ông Tình cho người nhà mang cây keo giống đến trồng trên diện tích đất đó thì ông Dia đã ngăn cản, và cho người nhổ hết hơn 200 cây mà gia đình ông Tình đã trồng. Ông Dia tuyên bố là không bao giờ trả, muốn đến đâu thì đến.
Quá trình hoà giải: Nắm được các tình tiết trên, các thành viên tổ hoà giải đã tổ chức mời hai bên đến địa điểm làm việc của xóm để hoà giải. Tại buổi làm việc, lúc đầu ông Dia vẫn một mực không đồng ý trả lại đất cho ông Tình, cho rằng ông Tình còn rất nhiều đất rừng, còn ông đã làm từ bấy đến nay thì ông vẫn cứ làm tiếp, không cần thiết là đất của ai, muốn đến đâu thì đến. Ông Tình thì kiên quyết đòi lại đất, cho rằng ông Dia như vậy là lừa lọc, bội nghĩa, không nói chuyện tình cảm gì nữa.
Trước tình hình đó, các thành viên tổ hoà giải thay nhau kiên trì phân tích: về pháp luật, thì đất của ông Tình đã được cấp có thẩm quyền giao hợp pháp, có sổ đỏ, việc ông đòi lại đất trước đây cho ông Dia mượn là đúng pháp luật, được Nhà nước bảo vệ. Ông Dia cố tình giữ đất mượn là vô lý và trái pháp luật, vi phạm quyền của chủ sử dụng đất hợp pháp. Việc làm của ông Dia đã vi phạm pháp luật về đất đai của Nhà nước và gây bất hoà giữa hai bên, gây mất ổn định của thôn xóm. Về khía cạnh đạo đức, tổ hoà giải cũng phân tích để ông Dia thấy đáng lẽ ông phải cảm ơn lòng tốt của người đã cưu mang, cho mình mượn đất, tạo điều kiện cho gia đình mình làm ăn khi khó khăn, đến nay kinh tế gia đình đã phát triển, vì vậy mà ông cần có cách cư xử phù hợp, giữ gìn tình làng nghĩa xóm và đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Vì lẽ đó mà ông Dia nên nhận thấy sai lầm của mình mà tự nguyện trả lại đất cho ông Tình, không nên gây căng thẳng, buộc ông Tình phải đề nghị cấp trên có thẩm quyền giải quyết, sẽ bất lợi cho chính ông Dia (ông Dia không những phải trả lại đất mà còn có thể bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm dụng đất, phá hoại sản xuất của người khác, gây ảnh hưởng đến tình đoàn kết xóm làng).
Cuối cùng ông Dia cũng đã nhận sai, hứa sẽ tự nguyện trả đất cho ông Tình. Qua vụ việc trên cho thấy, có những vụ việc tranh chấp xảy ra không phải do không hiểu biết mà là do một bên tranh chấp đã tỏ ra coi thường pháp luật, coi thường lợi ích của người khác, dẫn đến cố chấp. Khi xác định sự việc đúng sai của các bên đã rõ ràng, cần có những biện pháp cứng rắn, kiên quyết để họ nhận thấy hành vi của họ là hoàn toàn sai và sẽ rất bất lợi cho họ nếu như sự việc này không được giải quyết sớm, mà cần sự can thiệp của cơ quan pháp luật. Qua đó cũng thấy rằng công tác hoà giải là vô cùng khó khăn bởi sự đa dạng của mâu thuẫn trong xã hội. Để thực hiện công tác này có kết quả cao, thì ngoài việc cần nắm vững các quy định của pháp luật, còn phải nắm được cả thái độ tâm lý của đương sự, biết cách khai thác các điểm yếu trong họ, khơi gợi lương tâm, đạo đức để giúp họ thoát ra sự cố chấp, coi thường kỉ cương pháp luật.
Tình huống 3: Tại xã Cộng Hoà, huyện Kim Thành, tỉnh H có hai chi của dòng họ nhà ông Hiệu và nhà ông Khoẻ cùng chung cụ tứ đại, hai cụ tam đại là hai anh em ruột. Các anh em nhà ông Hiệu tuy làm ruộng ở quê nhưng cũng không muốn thua kém ai, nên tháng 12/2004 đã xây bái cho cụ tam đại khá to, rộng. Ngay sau khi xây xong, các anh em nhà ông Khoẻ đã đến phản ánh về việc gia đình ông Hiệu xây dựng bái cho các cụ, đã xây đè lên bái cụ tam đại nhà mình. Nhìn mặt bằng bên trên thì không thấy sự xâm phạm, nhưng thực ra phần cốt của cụ nhà ông Khoẻ lại nằm lệch ra ngoài bái. Lập tức anh em nhà ông Hiệu không chịu, cho rằng gia đình mình xây dựng bái trên mặt bằng, không lấn sang bái các cụ nhà ông Khoẻ. Hai bên lời qua tiếng lại, dần dần trở thành to chuyện, vụ việc càng thêm phức tạp vì gia đình anh em nhà ông Hiệu có một số người là đảng viên, trong đó có một người là cán bộ xã. Thời điểm xảy ra vụ việc lại là lúc xã đang chuẩn bị Đại hội Đảng bộ xã. Vụ việc trên có thể sẽ làm ảnh hưởng đến công tác nhân sự của Đại hội Đảng bộ xã.
Quá trình hoà giải: Nhận được đơn của ông Khoẻ về việc tranh chấp mồ mả nói trên, Uỷ ban nhân dân xã Cộng Hoà xác định đây là một vụ việc phức tạp vì tranh chấp mồ mả, động đến lĩnh vực tâm linh. Trong khi đó, các văn bản pháp luật điều chỉnh về vấn đề này rất ít và không đồng bộ. Hai gia đình lại không cho khai quật phần hài cốt phía dưới bái để xác định xem có vi phạm hay không, nên vụ việc càng khó giải quyết bằng pháp luật. Vì vậy, hoà giải là con đường tốt nhất để giải quyết vụ việc này.
Sau khi tiếp nhận vụ việc, tổ hoà giải đã phân tích kỹ tình hình, xác định hết những khó khăn và bàn phương hướng giải quyết. Trước hết tổ phân công thành viên đi gặp gỡ những người cao tuổi, người có uy tín ở hai bên gia đình để nắm tâm tư, nguyện vọng và đề xuất của các bên. Sau đó tổ hoà giải đã phân tích cặn kẽ điều hơn, lẽ thiệt cho hai gia đình thấy được, nhất là phân tích khía cạnh hai gia đình còn chung dòng họ, vì vậy không nên đấu đá với nhau. Trong khi vụ việc chưa được hoà giải xong, thì bên gia đình nhà ông Khoẻ lại xảy ra một số việc được cho là do động mồ mả gây nên, như việc con ông Hay (em trai ông Khoẻ) vận hành máy nghiền ngô bị tai nạn mất hai ngón tay, hai con gái và cháu tự nhiên ốm không rõ nguyên nhân. Vợ chồng ông Khoẻ đi xem bói nên cho rằng những vụ việc trên là do bị động mồ mả cụ Tam đại. Vì vậy, gia đình ông Khoẻ nhất định không chịu hoà giải mà đòi chính quyền giải quyết nhằm tháo dỡ một phần mộ nhà ông Hiệu.
Trước tình hình đó, có thành viên trong tổ hoà giải đã chán nản, bàn lùi không tiếp tục hoà giải, vì hai bên đều là người trong làng, trong họ. Nhưng ông tổ trưởng cho rằng nếu giải quyết vụ việc này bằng pháp luật sẽ rất khó khăn, lâu dài, thậm chí không có kết quả vì hai bên đều bám vào lý lẽ riêng của mình. Vì vậy, tổ hoà giải tiếp tục họp để bàn cách giải quyết trước khi bước vào Đại hội. Trong một tháng trời, tổ hoà giải đã họp với hai bên gia đình tới hàng chục lần chưa kể các lần gặp gỡ riêng từng gia đình. Các thành viên tổ hoà giải cũng bỏ qua những câu nói, hành động không thiện chí của hai bên gia đình khi họ đến làm việc. Sau nhiều cố gắng nỗ lực của tổ hoà giải, cuối cùng gia đình ông Khoẻ đã chấp nhận rút đơn kiện và giải quyết vụ việc bằng con đường hoà giải. Với sự tham gia của tổ hoà giải, đại diện địa chính xã, đại diện hai dòng họ đã cùng nhau ra hiện trường xác định lại mốc giới và cùng chung xây, nâng cấp bái cho các cụ hai bên. Các sự việc có liên quan đến mê tín dị đoan cũng đã được phân tích, lý giải thấu tình đạt lý. Từ đó đến nay anh em của hai bên gia đình lại vui vẻ, hoà thuận với nhau, mọi sự việc trong quá khứ cũng dần được lãng quên.
Qua vụ việc tranh chấp mồ mả trên, có thể rút ra một số điều như sau:
Một là, các vụ việc chưa đến mức giải quyết bằng cơ quan pháp luật thì nên giải quyết bằng hoà giải là tốt nhất. Vì như thế, vừa giải quyết được vụ việc, lại vẫn giữ được tình cảm xóm giềng lâu dài và không gây mất ổn định ở khu dân cư.
Hai là, khi hoà giải thì phải xác định quyết tâm cao và hết sức kiên trì thuyết phục, vận động. Không được nóng nảy, vội vàng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hoagiai_9383.doc