Tóm lại, cần hiện đại hóa môn nghiên cứu văn học và nghiên cứu ngữ học,
làm xích lại gần nhau hai bộ môn khoa học nhân văn. Đưa kí hiệu học vào chương
trình đại học và giáo học pháp đọc văn. Ở nhà trường phổ thông cần hiểu sâu mối
quan hệ văn và ngữ trong bản thân văn bản, lấy đó làm cơ sở để thiết kế chương trình
học văn và học tiếng. Đổi mới nội dung tích hợp văn và ngữ trong môn văn học
trong nhà trường. Các phương hướng đó sẽ góp phần cải thiện mối quan hệ giữa văn và
ngữ, nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn
Bạn đang xem nội dung tài liệu Về mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và ngữ học trong nhà trường đại học và trường phổ thông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Đình Sử
_____________________________________________________________________________________________________________
15
VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA NGHIÊN CỨU VĂN HỌC VÀ NGỮ HỌC
TRONG NHÀ TRƯỜNG ĐẠI HỌC VÀ TRƯỜNG PHỔ THÔNG
TRẦN ĐÌNH SỬ*
TÓM TẮT
Hai bộ môn ngữ học và nghiên cứu văn học ở đại học, cũng như phần tiếng và phần văn
trong bộ môn ngữ văn ở phổ thông chưa đạt được hiệu quả tích hợp mong muốn. Ngoài lí do
khác biệt trong đối tượng của hai bộ môn tạo nên còn có lí do trong sự chậm trễ phát triển của
cả hai bộ môn. Hướng khắc phục nên là, ngữ học tiến thêm về phía văn hóa học, nhân học, còn
văn học tiến về phía diễn ngôn, kí hiệu học. Trong môn ngữ văn nên lấy việc học đọc và viết
văn bản làm nền tảng, cấu trúc lại chương trình ngữ học trường phổ thông, lí thuyết làm văn
nên lấy tu từ học làm cơ sở, không lạm dụng ngữ pháp văn bản như lâu nay đã làm.
Từ khóa: ngữ văn, văn hóa học, nhân học, diễn ngôn, kí hiệu học, tu từ học, ngữ pháp
văn bản.
ABSTRACT
On the Relation between Language and Literature Study
in Tertiary and Secondary Education
The modules of Language and Literature in tertiary curriculum as well as the Language
and Literary sections in secondary curriculum have not produced desired intergrated effects,
due to both the difference between the two research objectives and the tardiness in their
development. A resolution could be found in the orientation of linguistics towards cultural
studies and anthropology, and that of literary studies towards discourse studies and semiology.
The Language and Literature Curriculum in secondary schools should be designed upon the
base of the practice of teaching text-reading and composition writing with the Language
program reconstructed, the theory of composition writing based on rhetorics, and the text
grammar not overused as what has been done so far.
Keywords: Language and Literature, cultural studies, anthropology, discourse, rhetorics,
text grammar.
Mọi người đều biết, văn học là nghệ
thuật ngôn từ, ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất
của văn học, văn học và ngôn ngữ có mối
quan hệ hết sức mật thiết không thể tách
rời. Như thế việc dạy học ngữ học và Việt
ngữ học tất sẽ góp phần tích cực nâng cao
năng lực đọc văn và viết văn cho học sinh
và cho các giáo viên tương lai trong các
trường sư phạm. Nhưng thực tế thì chưa
được như mong muốn. Hiện tại, nhiều
người có cảm tưởng thầy cô dạy ngôn ngữ
học chưa đóng góp nhiều cho việc giải mã
văn học, mà các thầy cô dạy văn cũng chưa
nhiệt tình với nhiều kiến thức của bộ môn
ngôn ngữ học. Nghịch lí ấy đã làm giảm
sút hiệu quả dạy học ngữ văn trong các
trường đại học. Điều băn khoăn nhiều hơn
là từ sự phân biệt hai ngành khoa học ở đại
học lại dẫn đến sự phân biệt hai môn văn
và tiếng ở trường trung học phổ thông, nên
hiệu quả tích hợp rất thấp. Con đường tích
hợp văn và tiếng ở trường phổ thông vừa
qua còn có phần gán ghép chưa tự nhiên.
Bài báo này muốn góp phần lí giải hiện
* GS.TS, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
16
tượng đó trong viễn cảnh đổi mới toàn diện
triệt để giáo dục phổ thông sắp tới.
Trước hết xin xét từ góc độ lô gich
và thực trạng của vấn đề. Ngôn ngữ học và
Việt ngữ học là các khoa học nghiên cứu
ngôn ngữ tự nhiên. Dù trong giáo trình có
dùng bao nhiêu dẫn liệu từ tác phẩm văn
học, tiểu thuyết, thi ca, thì đối tượng của nó
cũng không thay đổi. Ngôn ngữ học truyền
thống chỉ nghiên cứu ngôn ngữ trong phạm
vi câu, có lúc đã nói đến ngữ pháp văn bản,
nhưng nội dung này còn sơ lược, trong khi
văn bản văn học lại là chỉnh thể trên câu vô
cùng phong phú, biến hóa, không lặp lại.
Môn ngữ học ngày nay trong trường đại
học đã bao gồm phong cách học, dụng học,
phân tích diễn ngôn, có nơi còn có chuyên
đề ngữ học tri nhận, song nhìn chung vẫn
chưa bắc được chiếc cầu dẫn sang văn học.
Về phía nghiên cứu văn học trong nhà
trường, chúng ta quen với lí thuyết phản
ánh, nhận thức, với nội dung xã hội, ý thức
hệ, mà chưa xem văn học như là phương
tiện giao tiếp. Ngoài quan niệm ngôn ngữ
là chất liệu của văn học, hình tượng nghệ
thuật không được xem là kí hiệu của ngôn
ngữ nghệ thuật, cho nên chỉ hiểu văn học
như là phản ánh nhận thức đời sống, vì thế
các nhà nghiên cứu cũng chưa thấy ngữ
học hữu ích cho mình như thế nào. Như
vậy, bộ môn ngôn ngữ học và môn văn học
dường như chỉ được đặt bên nhau mà chưa
thực sự tác động có lợi cho nhau trong hiệu
quả dạy học ngữ văn. Trước thực trạng đó
một số nhà ngữ học như cố GS Đỗ Hữu
Châu đã soạn chuyên đề văn học và ngữ
học để dạy cho cao học, nhưng chúng tôi
thiển nghĩ, hiệu quả chưa nhiều.
Xu hướng xích lại gần nhau giữa ngữ
học và nghiên cứu văn học ngày càng gia
tăng trong cuộc “chuyển hướng ngữ học”
của khoa học nhân văn. Trong nghiên cứu
và dạy học văn học đã sử dụng khái niệm
văn bản, một khái niệm chung giữa ngữ
học và văn học. Nhà nghiên cứu văn học
ngày nay lại quan tâm diễn ngôn, kí hiệu
học, tu từ học, biểu tượng nên xích gần
với ngữ học hơn nữa. Trong bối cảnh ngày
nay cả trong ngữ học và trong nghiên cứu
văn học có sự đổi thay về hệ hình nghiên
cứu, cơ hội gắn bó giữa văn học và ngữ
học được gia tăng, đòi hỏi các nhà nghiên
cứu văn học và ngữ học quan tâm hơn đến
sự phối hợp trong đào tạo.
Văn bản văn học nghệ thuật khác với
các văn bản được kiến tạo bằng ngôn ngữ
tự nhiên khác ở chức năng thẩm mĩ. Văn
bản văn học có đặc điểm đặc biệt, theo
nhận định của nhà kí hiệu học Nga Ju.
Lotman là: “Văn bản có chức năng thẩm
mĩ là văn bản có dung lượng ngữ nghĩa cao
hơn, chứ không phải thấp hơn so với các
văn bản phi nghệ thuật. Nó có nhiều nghĩa
hơn, chứ không phải ít hơn so với lời nói
thông thường. Khi được giải mã theo các
cơ chế thông thường của ngôn ngữ tự
nhiên, văn bản mở ra một cấp độ ý nghĩa
nhất định, nhưng vẫn không được mở ra
đến tận cùng. Khi người nhận thông tin
biết được rằng trước mặt anh ta là một
thông báo nghệ thuật, anh ta lập tức sẽ tiếp
cận nó theo một phương thức hoàn toàn
khác. Văn bản trước mặt anh ta là văn bản
được mã hóa hai lần (tối thiểu); mã hóa thứ
nhất là hệ thống mã hóa của ngôn ngữ tự
nhiên (ví dụ như tiếng Nga, tiếng Pháp).
Bởi vì hệ thống mã này đã cho trước và cả
người gửi lẫn người nhận đã nắm vững nó
thành thạo, việc giải mã trên cấp độ này
tiến hành một cách tự động, cơ chế của mã
này trở nên trong suốt, những người sử
dụng chúng không cảm thấy được nữa.
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Đình Sử
_____________________________________________________________________________________________________________
17
Nhưng cũng văn bản đó, người nhận thông
tin biết điều này còn phải được giải mã
theo một cách khác nữa. Điều kiện để văn
bản có thể hoạt động thẩm mĩ phải bao
gồm một sự hiểu biết sơ bộ về cái mã kép
này và sự không biết (đúng hơn là không
biết đầy đủ) về cái mã thứ hai được vận
dụng ở đây. Bởi vì người nhận thông tin
không biết rằng, trong văn bản mà anh ta
tiếp nhận trên cấp độ thứ hai này cái gì có
ý nghĩa, cái gì không, anh ta “ngờ” rằng tất
cả mọi yếu tố biểu hiện đều có tính nội
dung. Chúng ta cần tiếp cận văn bản như là
văn bản nghệ thuật, cho nên về căn bản
mọi yếu tố, cho đến cả chữ viết sai trong
văn bản, như nhà văn E. T. A. Hoffmann
nhận xét nêu trong lời Tựa viết cho truyện
Quan điểm thông thường về con mèo Murr,
đều có thể có nghĩa. Khi đặt vào tác phẩm
nghệ thuật cả một trật tự các mã bổ sung:
mã thời đại, mã thể loại, mã phong cách,
hoạt động trong tập thể toàn dân tộc hay
trong một nhóm người hẹp hơn (cho đến
các cá nhân), chúng ta thu được trong văn
bản những tập hợp có nghĩa khác nhau
nhất, và tất nhiên một trật tự phức tạp nhất
các lớp nghĩa bổ sung so với văn bản phi
nghệ thuật” [3].
Chúng tôi xin phép trích dẫn khá dài
vì đoạn văn nói rõ sự khác biệt giữa văn
bản thông thường và văn bản văn học. Và
mặc dù sự nhị phân văn học và phi văn học
trước đây tưởng là hiển nhiên, nhưng ngày
nay trước câu hỏi “Văn học là gì?” các nhà
khoa học từ Tz. Todorov, R. Wellek, J.
Culler, T. Eagleton, A. Compagnon, đều
cho rằng không thể vạch ranh giới võ đoán,
bất di dịch giữa văn học và phi văn học.
Khái niệm “tính văn học” ngày nào được
R. Jakobson nêu ra như là tiêu chí của văn
học nhằm phân biệt với phi văn học, ngày
nay người ta không khó tìm thấy nó trong
các văn bản phi văn học. Ngày nay, theo ý
kiến nhiều người, khi văn học tinh anh mờ
nhạt thì tính văn học lại càng lây lan vào
trong mọi sản phẩm văn hóa đại chúng.
Văn bản phi văn học cũng đa mã, cũng đục
mờ, cũng có phép tu từ của riêng chúng.
Nếu đúng như vậy thì việc chỉ dừng lại với
tri thức chung về ngữ học để đọc văn học
và văn bản khác lại càng tỏ ra chưa đủ.
Ngôn ngữ học cung cấp các kiến thức và kĩ
năng giúp học sinh đọc hiểu phần ngôn
ngữ tự nhiên của tác phẩm về từ vựng, cú
pháp, kiểu câu, một số biện pháp tu từ, một
số phép liên kết văn bản. Nhưng đọc thông
văn bản chưa có nghĩa là đọc hiểu văn bản
văn học. Bởi lúc đó người đọc chỉ mới sử
dụng cái mã của ngôn ngữ tự nhiên. Cái
bước nhảy vọt từ ngôn ngữ tự nhiên lên
ngôn ngữ nghệ thuật, vào thế giới đa mã,
đa nghĩa, mang chất thơ, là bước sang một
cấp độ khác. Tất nhiên phải nói ngay rằng
cái bước thứ nhất này hết sức cơ bản, quan
trọng, bởi vì nếu không đọc thông, hiểu
thông cái bước thứ nhất này sẽ không có
bước nào cao hơn được. Điều này có nghĩa
là ngôn ngữ tự nhiên là nền tảng kiên cố để
con người xây dựng lâu đài nghệ thuật lên
trên đó. Xây dựng tốt cái nền này đã là một
việc hết sức hệ trọng. Như thế môn ngôn
ngữ học trong khi dạy học tốt ngữ học và
tiếng mẹ đẻ đã có một cống hiến to lớn đối
với giáo dục văn học.
Như thế, dạy văn học trước hết phải
dựa chắc vào nền tảng ngữ học ấy, đồng
thời không thể chỉ ỷ lại vào nó mà cần phải
đi xa hơn. Nghiên cứu văn học ngày nay
không thể chỉ dừng lại với lí thuyết phản
ánh, quan niệm xã hội, lịch sử, mà còn phải
đi sâu hơn về phía kí hiệu học văn học,
diễn ngôn học, xem văn học là một hoạt
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
18
động giao tiếp, có chiến lược, chiến thuật
diễn ngôn, có hệ thống tu từ học của nó
(không đồng nhất với tu từ học trong môn
ngữ học hiện hành; “từ” đây là văn
chương, từ chương, không phải từ ngữ),
nghiên cứu ngôn ngữ nghệ thuật, xem xét
cách tái mã hóa, cách lập mã và giải mã
trong văn học. Văn học cần cách tiếp cận
kí hiệu học. Tính kí hiệu của văn học là rất
dễ nhận thấy. Mọi người sống trong thế
giới kí hiệu, bản thân con người cũng được
cảm nhận như một kí hiệu, khi đó nhân vật
mới có nghĩa. Khi nhà văn miêu tả các chi
tiết đời sống chính là miêu tả các kí hiệu
nhằm tạo dựng các kí hiệu đời sống, qua đó
ta hiểu được cuộc sống như thế nào [2].
Ngôi nhà, bếp lửa, bàn thờ, cây cau, con
đường, bến nước, gốc đa, mái đình ngoài
tư cách là sự vật trong đời sống, chúng còn
là các kí hiệu về đời sống ấy mà mỗi khi
nhắc đến lại gợi nhớ toàn bộ kí ức liên hệ
với chúng. Chính với cách hiểu này văn
học là nghệ thuật dùng ngôn từ để sáng tạo
nên những hình tượng ngôn từ, đến lượt
mình, với tính chất đa mã, đa nghĩa hơn
ngôn ngữ tự nhiên, hình tượng văn học
truyền cho người đọc một thông điệp
“ngoài lời”. Văn học dùng lời mà không
trực tiếp nói bằng lời. Lí luận văn học ngày
nay phải đi đến kí hiệu học văn học, phải đi
đến khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật của văn
học như Lotman gợi ra [4], chứ không phải
ngôn ngữ chỉ là chất liệu, phương tiện của
văn học như lâu nay vẫn hiểu. Để làm được
điều này nghiên cứu văn học phải có hiểu
biết về “chuyển hướng ngữ học”, “chuyển
hướng diễn ngôn học” của khoa học nhân
văn hiện đại.
Xét về phía ngữ học, nếu chỉ đảm
nhiệm trau dồi ngôn ngữ tự nhiên chưa đủ
để giúp người học hiểu văn học nghệ thuật.
Đó chính là lí do vì sao mà ngữ học trong
nhà trường chưa giúp nhiều cho việc học
văn học, cũng là lí do vì sao các giảng viên
văn học chưa mặn mà với tri thức ngữ học.
Để cải thiện tình hình đó, nâng cao hiệu
suất dạy học ngữ văn, thiết nghĩ, bộ môn
ngữ học trong nhà trường cần nới rộng
phạm vi quan tâm hơn nữa. Theo chúng tôi
được biết ngữ học ở nhiều nước đã có sự
đổi thay về hệ hình nghiên cứu. Nếu thế kỉ
XIX ngữ học thiên về nghiên cứu so sánh
lịch sử, thế kỉ XX thiên về nghiên cứu cấu
trúc hệ thống của hoạt động ngôn ngữ, thì
từ cuối thế kỉ trước đến nay, trong khi vẫn
tiếp tục hệ hình trước, ngữ học mở thêm hệ
hình về phía nhân loại học ngôn ngữ, văn
hóa học ngôn ngữ. Ngôn ngữ không chỉ là
công cụ, phương tiện giao tiếp, không chỉ
phản ánh hiện thực (mô hình hóa hiện thực
– Lotman), mà còn giải thích hiện thực,
sáng tạo cái hiện thực mà chúng ta sống
trong đó. Nhà triết học xuất sắc của thời
đại hiện đại M. Heidegger đã nói, “ngôn
ngữ là ngôi nhà của hữu thể [tồn tại]”.
Ngôn ngữ là sản phẩm của văn hóa, bộ
phận quan trọng của văn hóa và là điều
kiện tồn tại của con người, là nhân tố tạo
thành các mã văn hóa. Chính vì thế mà
khoa học về ngôn ngữ đã chiếm vị trí tiên
phong trong toàn bộ khoa học nhân văn
trong thời đại ngày nay. Thiếu kiến thức về
ngôn ngữ chúng ta không thể hiểu được
con người, hiện thực và tất cả những gì do
con người tạo ra, trước hết là văn hóa và
văn học nghệ thuật. Hệ hình nhân loại học
ngôn ngữ đã chuyển chú ý từ ngôn ngữ
khách thể sang chủ thể ngôn ngữ, nghiên
cứu con người trong ngôn ngữ và ngôn ngữ
trong con người. Nếu ngữ học bước thêm
về phía diễn ngôn, tu từ học mới, ngữ học
tri nhận, kí hiệu nghệ thuật, văn bản văn
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Đình Sử
_____________________________________________________________________________________________________________
19
học chắc chắn sẽ gặp gỡ với ngành nghiên
cứu văn học đổi mới, và cùng góp phần
đưa chất lượng dạy học ngữ văn lên một
tầm cao mới, ngữ học sẽ giúp ích nhiều
hơn cho văn học.
Một chuyển hướng như thế sẽ làm
xích lại gần nhau hai bộ môn khoa học
nhân văn vốn giàu tiềm năng kết hợp. Văn
học với tư cách là diễn ngôn là thực tiễn
giao tiếp xã hội thẩm mĩ, nó không chỉ chịu
sự chi phối của các quy tắc ngôn ngữ, mà
còn chịu sự chi phối của các quy luật ngoài
ngôn ngữ như ý thức hệ, tâm lí. Nó không
chỉ sử dụng các phương tiện ngôn ngữ mà
còn các phương tiện phi ngôn ngữ, các hiện
tượng đời sống đã được kí hiệu hóa.
Trên thế giới nhiều nước đã ý thức
được vai trò của kí hiệu học trong dạy học
ngữ văn. Điều đó có nghĩa là người giáo
viên ngữ văn cần phải được trang bị kí hiệu
học và có kĩ năng phân tích kí hiệu trong
văn bản văn học và chuyên đề kí hiệu học
văn học sẽ là điều bắt buộc.
Về vấn đề này cần giải quyết tốt mối
quan hệ giữa môn văn học trong nhà
trường và kí hiệu học. Các em học sinh của
chúng ta từ bé không chỉ lớn lên trong môi
trường ngôn ngữ của gia đình, người thân,
bạn bè, lớp học, xã hội, mà còn lớn lên
trong môi trường kí hiệu xã hội vô cùng
phong phú, đa dạng. Từ ánh mắt, nụ cười,
giọng nói cho đến các cử chỉ thân mật, âu
yếm của người thân, từ màu sắc, trang
phục cho đến đèn xanh đèn đỏ ngoài phố,
các biển hiệu giao thông, sắc phục của bộ
đội, cảnh sát, công nhân vệ sinh, các nghi
thức chào cờ đầu tuần, nghi thức giao tiếp,
các ngày sinh nhật đâu đâu cũng là thế
giới kí hiệu. Các em cần biết phân biệt
những cái biểu đạt và nghĩa của chúng. Các
đồ vật, sự vật trong sinh hoạt, ngoài chức
năng tự nhiên của chúng, chúng ta có thể
sử dụng chúng như là những cái biểu đạt
của xã hội và đời sống tinh thần, trở thành
kí hiệu đối với con người. Khi trồng hoa
trong vườn, hoa chỉ là cây đẹp, khi hái một
bông hoa đem tặng ba mẹ hoặc thầy cô,
bạn bè, lúc đó hoa đã là kí hiệu. Mái
trường không chỉ là nơi em học, mà nhìn
xa hơn, nó là kí hiệu nơi đào tạo con người,
nói theo kiểu cũ là “lò rèn đúc nhân tài”.
Đối với các em tiểu học, các hình ảnh minh
họa trong sách là kí hiệu. Đối với học sinh
trung học cơ sở, thế giới kí hiệu mở rộng
hơn, còn đối với trung học phổ thông thế
giới kí hiệu xung quanh đã hình thành khá
toàn diện. Các em đã có thế giới văn bản,
thế giới biểu tượng, và toàn bộ thế giới
xung quanh như là kí hiệu quyển. Các loại
kí hiệu, văn bản phiên dịch lẫn nhau, tranh
vẽ dịch sang tiếng, tiếng dịch sang tranh,
tiếng Anh dịch sang tiếng Việt, cái kí hiệu
quyển (semiosphère) ấy là môi trường dạy
học sinh giải mã, học đọc kí hiệu. Học sinh
nước ngoài có bài học đọc tranh, đó chính
là bài học đọc kí hiệu. Các phép tu từ
không giản đơn là phép chuyển nghĩa
nhằm diễn đạt cho sinh động, mà cái chính
là cách thức tái mã hóa ý nghĩa, tạo ra cái
biểu đạt mới và nghĩa mới. Rèn luyện năng
lực đọc kí hiệu sẽ giúp học sinh cảm nhận
sâu sắc các biểu hiện của cuộc sống, đằng
sau các kí hiệu là ý nghĩa, nghĩa đơn, nghĩa
kép. Xin nói ngay, chúng ta không cần dạy
nhiều lí thuyết rắc rối, không cần dạy siêu
ngôn ngữ dùng để miêu tả kí hiệu, mà cần
giúp các em có được cảm giác về kí hiệu
như là ngữ cảm, biết phân biệt kí hiệu và
nghĩa của chúng, chỉ cần các em phân biệt
kí hiệu và ý nghĩa trên nhiều cấp độ là
được. Đó sẽ là một năng lực nền tảng
không thể thiếu để các em học văn học
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
20
nghệ thuật, đọc hiểu hình tượng văn học.
Văn học nghệ thuật là một thế giới kí
hiệu. Chúng ta cần khắc phục cách hiểu
ngây thơ về văn học là bức tranh đời sống
cụ thể, chân thực, như thực, rằng Đất nước
đứng lên chỉ là truyện kể về anh hùng Núp
người dân tộc Bana, bác Hồ trong thơ
chính là bức chân dung chân thực của lãnh
tụ như trong thực tế. Chính cái quan niệm
ấy đã tạo ra cách hiểu “Mấy chùm trước
giậu hoa năm ngoái” trong bài Thu vịnh
của Nguyễn Khuyến là hoa năm ngoái khô
đi còn sót lại, mà không hiểu là biểu tượng
của thời gian không thay đổi. Chính cách
hiểu ấy khiến người ta hiểu khổ đầu bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ chỉ là miêu tả phong cảnh
xứ Huế, mà không phải hình ảnh của cái
cảm giác hạnh phúc bừng sáng lên trong
lòng người con trai khi nhận được một tín
hiệu từ người bạn gái mà mình mến yêu.
Chính cách hiểu đó khiến người ta cảm thụ
câu thơ “Áo anh rách vai, quần tôi có vài
mảnh vá” là chi tiết tả thực, một người rách
áo, còn người kia thì rách quần, mà không
phải là biểu tượng của cuộc sinh hoạt thiếu
thốn gian khổ trong những ngày đầu kháng
chiến. Hình tượng văn học có tính khái
quát thì nó là một thể đại diện, một cấu tạo
kí hiệu, là cái biểu đạt mang nghĩa. Hình
tượng điển hình (“người lạ quen biết” – V.
Bielinski) chỉ là một loại kí hiệu nghệ thuật
bên cạnh các loại kí hiệu khác, hoàn toàn
không hề có ưu thế gì hơn so với các loại
kí hiệu khác như trước đây người ta vẫn
tưởng. Để biểu hiện văn học nhà văn phải
mã hóa lại các đơn vị ngôn ngữ thành một
văn bản đa mã. Ở đây cốt truyện là kí hiệu,
sự kiện, môtip cũng kí hiệu, nhân vật là kí
hiệu, chi tiết nghệ thuật là kí hiệu, thể loại
là kí hiệu, phong cách cũng là kí hiệu,
chúng không chỉ là kí hiệu cá nhân, mà còn
là kí hiệu của thời đại. Sự hiện diện của kí
hiệu dưới dạng liên văn bản buộc người
đọc phải phát huy trí tưởng tượng, liên
tưởng, liên hệ với những thủ pháp, trình
thức ước lệ của thể loại, nhân vật, cốt
truyện, phong cách để hiểu các tầng nghĩa
nằm trong chiều sâu văn bản. Tất cả các kí
hiệu tái mã hóa này (dưới dạng chi tiết,
motip) tạo nên ngôn ngữ nghệ thuật của
văn bản nghệ thuật. Trong các kí hiệu này,
các mẫu gốc, các biểu tượng đóng vai trò
cội nguồn của các loại ngôn ngữ nghệ
thuật.
Các nhà cấu trúc chủ nghĩa cho rằng
ngôn ngữ có trước văn bản, muốn đọc, viết
được văn bản thì phải nắm vững ngôn ngữ
trước đã. Nhà kí hiệu học Nga Ju. Lotman
cho rằng văn bản có trước ngôn ngữ. Một
là chúng ta tiếp xúc các văn bản cổ xưa
trước khi biết được ngôn ngữ của chúng.
Hai là chúng ta tiếp xúc thế giới tự nhiên
như một văn bản sau đó mới dần dần hiểu
ngôn ngữ của chúng. Ba là trẻ em học văn
bản trước khi biết được quy tắc ngôn ngữ
[5]. Vì thế, lập riêng một chương trình
tiếng Việt như môn ngữ học đại học thu
nhỏ cho học sinh phổ thông, dạy song song
với văn học như trước đây là điều không
cần thiết, và thực tế là không hiệu quả, bởi
vì nó phản khoa học [1]. Việc dạy học
ngôn ngữ như thế, trên thực tế không phải
học ngôn ngữ, mà chỉ là học cái siêu ngôn
ngữ dùng để mô tả ngôn ngữ mà thôi, mà
cái đó tuyệt đối không cần thiết gì đối với
học sinh trung học phổ thông, chỉ khoác
cho các em một gánh nặng không phù hợp
với lứa tuổi, vì thế mà không hiệu quả.
Việc học tiếng chỉ thực sự cần thiết để diễn
đạt chính xác tư tưởng của mình, nhất là
diễn đạt những mệnh đề phức tạp của tư
duy tinh tế. Cần coi trọng từ vựng và ngữ
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Trần Đình Sử
_____________________________________________________________________________________________________________
21
nghĩa thông qua học các loại văn bản.
Ngoài các kiểu câu và thành phần câu giản
đơn như câu trần thuật, câu nghi vấn, câu
mệnh lệnh, câu cảm thán, cần học và luyện
tập cách dùng thông thạo tám kiểu câu
phức hợp cơ bản như câu đẳng lập, câu
thừa tiếp, câu tăng tiến, câu lựa chọn, câu
giả thiết, câu điều kiện, câu nhân quả, câu
bước ngoặt. Theo quan niệm của Lotman,
văn bản có trước ngôn ngữ, chúng tôi nghĩ
rằng cần tăng cường học văn bản để rèn
luyện ngữ cảm, tăng cường học thuộc lòng
những áng văn mẫu mực, giảm thiểu việc
học các khái niệm ngữ pháp khô khan, trừu
tượng với nhiều thuật ngữ siêu ngữ không
phù hợp với trí óc trẻ thơ, thoát li văn bản
sinh động.
Không phải ngẫu nhiên mà trước đây
chúng ta có truyền thống lâu đời gọi môn
học Ngữ văn ngày nay là Việt văn hay
Quốc văn, hoặc đơn giản chỉ là môn văn,
khoa văn, bởi trong văn đã có ngữ, còn nếu
chỉ học ngữ thì trong đó chưa chắc đã có
văn. Việc định danh môn văn có một ý
nghĩa sâu sắc hơn là cách hiểu sau này của
các nhà hậu học. Việc định danh “môn văn
và tiếng Việt” có từ thời giáo sư Đỗ Hữu
Châu, xem ra có vẻ “toàn diện” hơn xưa,
coi trọng cả văn và ngữ, nhưng chữ “và” ở
giữa hai vế đã cho thấy một kết hợp cơ
giới, thiếu hữu cơ. Việc định danh môn
“ngữ văn” là tham khảo tài liệu Trung
Quốc, nhưng theo giải thích của giáo sư
Trung Quốc Lê Cẩm Hy thì “ngữ” nghĩa là
học nói, còn “văn” là học viết và văn viết.
Ngữ văn nghĩa là môn học nói và học viết,
khác hẳn với cách hiểu chiết tự dân gian
của ta là “ngôn ngữ cộng với văn học”.
Tách ra hai môn rồi cộng lại, hiệu quả
không cao như trong văn có ngữ, và ngữ
làm nền tảng cho văn. Như thế học văn chủ
yếu là học văn bản, đọc hiểu và viết văn
bản. Nhà phê bình văn học Pháp là Albert
Thibaudet trong sách Sinh lí học phê bình
văn học phản ứng lại với việc đưa ngữ học
vào văn đã nói, “ngày nay xuất phát điểm
để nghiên cứu văn học không nên chỉ là
ngôn ngữ, mà đặc biệt ngày hôm nay, nên
xuất phát từ cái văn bản đã xuất bản thành
sách”. Ông nói thêm, “sự nảy sinh của văn
học là do chức năng của sách, nhưng cái
mà người ta nghiên cứu ít nhất hiện nay là
sách” [6]. “Sách” ở đây có nghĩa là văn bản
viết. Chưa có văn bản viết là chưa có văn
học đúng nghĩa. Nhận thức trên hẳn ông
cũng cảm thấy văn bản có trước ngôn ngữ
và ngôn ngữ hình thành trong văn bản.
Một khi lấy việc học văn bản làm
trọng tâm thì bên cạnh ngữ âm, ngữ pháp,
chính tả, học sinh còn phải được học về từ
vựng, ngữ nghĩa và kí hiệu, biểu tượng.
Đọc hiểu văn bản là học giải mã văn bản,
học tìm cách lập mã của tác giả để hiểu
được văn bản. Và đó là một phần rất quan
trọng của năng lực văn, bên cạnh năng lực
viết. Hai năng lực này gắn bó mật thiết với
nhau, đọc nhiều văn, hiểu văn thì viết được
văn, ngược lại người đọc không hiểu văn,
không hiểu tại sao người ta viết văn như
thế, thì cũng không biết viết văn thế nào
cho có hiệu quả. Học đọc văn cũng chính
là học cách viết. Ngôn ngữ văn học trong
văn bản văn học cũng hình thành theo hai
trục ngữ đoạn và trục lựa chọn mà các nhà
ngữ học đã phát hiện ra. Các motip được
lựa chọn, lặp đi lặp lại chính là ngôn ngữ
nòng cốt của văn bản.
Năng lực văn là gì? Trong sách Thi
pháp học cấu trúc chủ nghĩa (1975) nhà lí
luận văn học Mĩ Jonathan Culler dựa vào
khái niệm năng lực ngôn ngữ theo cách
hiểu của nhà ngữ học tạo sinh Mĩ, Noam
Tạp chí KHOA HỌC ĐHSP TPHCM Số 56 năm 2014
_____________________________________________________________________________________________________________
22
Chomski, là sự nội hóa vào vô thức hệ
thống các quy tắc ngôn ngữ tạo thành năng
lực sinh sản các lời nói hàng ngày thích
ứng với ngữ cảnh trực tiếp, cũng cho rằng
năng lực văn học là sự nội hóa vào ý thức
những trình thức, thủ pháp viết lách, thói
quen đọc, tạo thành năng lực kiến tạo nghĩa
khi đối diện với văn bản văn học hoặc kĩ
năng kiến tạo văn bản khi viết. Culler cũng
là người không xem tác giả là cội nguồn
của ý nghĩa của văn bản, mặc dù không có
tác giả thì không có văn bản, văn bản do
tác giả viết, tác giả cấu tứ, song khi viết,
anh ta phải tham chiếu các thủ pháp, trình
thức trong các văn bản khác. Nói như N.
Frye, thơ chỉ được sinh ra từ các bài thơ,
truyện được sinh ra từ các truyện, mặc dù
tác giả có thể đổi thay, tạo mới, song
không có các thủ pháp đã có của các văn
bản trước đó thì không viết ra được.
Hiểu như vậy, năng lực văn chỉ hình
thành và phát triển trong quá trình đọc văn,
làm văn. Muốn đào tạo năng lực văn trước
hết phải đọc nhiều, viết nhiều, không có
con đường nào khác. Trong chương trình
văn học các nước bài tập đọc văn có một số
lượng không nhỏ với nhiều hình thức.
Ngoài bài học đọc (trích đoạn hay đọc
nguyên cả tác phẩm), còn có đọc thêm, đọc
ngoại khóa. Khuynh hướng giảm tải bằng
cách giảm bớt số lượng bài đọc văn là đi
ngược lại với nhu cầu của bản thân việc
học văn.
Nói đến mối quan hệ giữa phần văn
và phần tiếng trong chương trình ngữ văn
phổ thông, thiết nghĩ không thể không nói
về phân bố phần ngữ trong chương trình.
Theo thiển ý của chúng tôi, ở tiểu học và
trung học cơ sở cần giải quyết xong phần
chính tả và ngữ pháp tiếng Việt. Sang trung
học phổ thông chuyển sang học lí thuyết
làm văn như nghệ thuật thuyết phục người
nghe và người đọc. Nội dung này bao hàm
nội dung tu từ học theo nghĩa cổ điển đã
được Aristotle xác định từ thời cổ đại, chứ
không thiên về hình thức như “ngữ pháp
văn bản”.
Tóm lại, cần hiện đại hóa môn
nghiên cứu văn học và nghiên cứu ngữ học,
làm xích lại gần nhau hai bộ môn khoa học
nhân văn. Đưa kí hiệu học vào chương
trình đại học và giáo học pháp đọc văn. Ở
nhà trường phổ thông cần hiểu sâu mối
quan hệ văn và ngữ trong bản thân văn bản,
lấy đó làm cơ sở để thiết kế chương trình
học văn và học tiếng. Đổi mới nội dung
tích hợp văn và ngữ trong môn văn học
trong nhà trường. Các phương hướng đó sẽ
góp phần cải thiện mối quan hệ giữa văn và
ngữ, nâng cao hiệu quả dạy học bộ môn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đỗ Hữu Châu, Diệp Quang Ban, Cù Đình Tú (1995), Tiếng Việt 11- Ban Khoa học xã
hội, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. Makarov, M. (2003), Nguyên lí lí thuyết diễn ngôn, Nxb Gnozis, M.
3. Lotman, Ju, Về nội dung, cấu trúc của khái niệm văn học nghệ thuật, Trần Đình Sử dịch.
4. Lotman, Ju, Khái niệm ngôn ngữ nghệ thuật, Lã Nguyên dịch.
5. Lotman, Ju, Khái niệm hiện đại về văn bản, Lã Nguyên dịch.
6. Thibaudet, A. (1930), Sinh lí học phê bình văn học, Paris, tr.141 bản dịch tiếng Trung.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 25-01-2014; ngày phản biện đánh giá: 03-02-2014;
ngày chấp nhận đăng: 09-02-2014)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 02_8717.pdf