2.4.3. Nhân vật phong phú:
Đủmọi loạI người trong xã hộI quí tộc- tưsản hiện lên vớI những chân dung
ngộnghĩnh hài hước che nkhuất những thói xấu. Cảmột quần chúng lao động,
không chỉcó mặt cơbản là lương thiện cũng có những bình dân nhếch nhác
đáng cườI chê. Chỉtrừhình ảnh nhà vua lúc này trởthành biểu tượng dân tõc
quốc gia, ngoài ra kihôgn thiếu một ai, kểcảhình ảnh những tu sĩ đạo đức giả,
một thếlực uy quyền đầy bí ẩn, một thứ‘ siêu quyền lực”.
Nhân vật tiêu cực đương nhiên phảI là nhân vật trung tâm: quí tộc gàn dở. dối
trá, văn hóa rỗng tuếch, thầy tu đầy âm mưu, lừa bịp. Tưsản lớp trên tham lam
ích kỉhọc đòi sang trọng nhưquí tộc. Quan chức cao cấp huênh hoang bất
nhân bất nghĩa.v.v.
Nhân vật tích cực: hầu hết là người bình dân có lương tri sáng suốt, sống theo
lẽtựnhiên, luôn luôn chiến thắng trong các nghịch cảnh tuy rằng họcũng có
những nhược điểm nhất định.
2.5 HÀNH ĐỘNG KỊCH MOLIERE
Hành động kịch của Moliere khá đơn giản, mỗi lúc một tăng mạnh hơn xoay
quanh những thói giảdối kệch cỡm. Sựthái quá của những hành động trái tự
nhiên nảy sinh xung đột, không phức tạp gay gắt đến mức phải có giải pháp
quyết liệt nhưbi kịch. Với ông chỉcần một biện pháp nhỏ(bất ngờ, từbên
ngoài) đủkhiến cái hài phải hiện nguyên hình. Màn chót của xung đột lại diễn ra
nhẹnhàng cùng với tiếng cười.
53 trang |
Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 3772 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn học phương Tây 1 - Phần 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
“Chư khanh thân ái nếu tôi không lầm,
Trời cố phạt lỗi lầm ta đấy,
Nên bắt ta gánh lấy hoạ này
Tội tình ai nặng nhất đây
Phải hy sinh để chịu ngay lòng Trời,
May ra bệnh muôn loài được khỏi.
Sử sách xưa đã nói rành rành
Gặp tai biến ấy âu đành
Vì nhau ta phải quên mình cứu nguy.
Đừng tự dối làm chi các bạn,
Nghiêm xét mình cho tận lương tâm
Trẫm thì tham thực quên thân,
Miệng rỗng trót nhá hàng trăm cừu rồi!
Cừu đâu đụng đến người của trẫm?
Không dối vua chẳng dám khinh nhờn
Đôi khi tội trẫm còn hơn,
Ngon mồm có lúc xơi luôn mục đồng.
Nếu cần trẫm vui lòng hiến mạng
Nhưng xét ra muốn đặng phân minh,
Mỗi khanh nên thú tội mình.
Theo gương của trẫm chí tình mới hay
Phải hy sinh mới thật công bình”.
Cáo ta đứng dậy tấu trình:
“Muôn tâu thánh thượng anh minh tuyệt trần,
Lệnh ngài quả băn khoăn quá mức,
Nhá cừu ư? giống ngốc, giống tồi,
Có gì đáng tội ngài ơi?
Chúng còn hân hạnh được ngài nhá cho!
Thằng chăn nữa! cái đồ vô lại!
Chính hắn nên chịu mọi nhục hình,
Cái đồ ngợm quá hợm mình,
Toan trên muôn vật ngông nghênh trị vì!”
Cáo vừa tấu lời ty tiện đó,
Lũ nịnh thần rầm rộ vỗ tay,
Chẳng ai động đến tội dày
Của Hùm, của Gấu, của bầy đầu to
Loài vật gây sự đồ chó má,
Theo lời cung đều hoá thành oan!
Lừa ta đến lượt mở mồm:
“Thưa, tôi còn nhớ một hôm thế này:
Qua bãi cỏ nhà thày tu nọ,
Đói, thời cơ, ngọn cỏ mịn màng,
Ma đưa lối, quỷ dẫn đàng,
Cỏ kia tôi gặm khoảng bằng lưỡi tôi
Tôi nào có quyền xơi thế chứ,
Vì lẽ công xin thú rạch ròi.”
Lừa ta chưa kịp dứt lời,
Nhao nhao kết tội, tiếng sôi cả triều
Sói am hiểu ít nhiều pháp luật,
Liền hô hào, diễn thuyết ba hoa,
Rằng cần hiến mạng lừa ta,
Cái con ghẻ lở gây ra vạ trời!
Lỗi tí tẹo tức thời thành án,
xử giảo ngay mới đáng tội đày!
Gặm cỏ người! Tội ghê thay!
Tội kia chỉ có cách này: Giết thôi!
Để Lừa biết tội trời đầy đủ,
Chúng lôi ngay cổ nó hành hình
Lạ chi công lý triều đình,
Sang hèn thay đổi tội tình trắng đen
(Nguyễn Đình dịch)
Chương III: Bi kịch cổ điển Pháp, Corneill và Racine- Hai khuôn
mặt tiêu biểu
Bi kịch là thể loại nghệ thuật phát triển nhanh mạnh và liên tục, đạt tới tột đỉnh
vinh quang và gây nhiều chấn động lớn. Corneill và Racine là hai gương mặt
khác nhau đại biểu ưu tú cho hai thời kì và hai phong cách khác nhau của bi kịch
cổ điển Pháp.
Piere Corneill 1606-1684 người mở đường vinh quang cho bi kịch
Pháp
Ông được coi là người khai sinh nền nghệ thuật sân khấu Pháp. Trước ông,
nền kịch dân gian Pháp còn rất non nớt, chưa có tổ chức, chưa có qui tắc sáng
tác chưa thành một loại hình nghệ thuật hẳn hoi, chỉ giải trí thuần túy với tiếng
cười dễ dãi. Trên sân khấu chuyên nghiệp đã có một số cây bút đáng chú ý
nhưng phải chờ đến Corneill mới thỏa mãn được đòi hỏi của công chúng nghệ
thuật và chiếm lĩnh sân khấu Pháp.
Corneill- người anh hùng của những bi kịch anh hùng - sinh tại Ruan xứ
Normandie trong một gia đình công chức. Sau khi tốt nghiệp trường dòng, anh
học luật và đỗ luật sư (1624). Cuộc sống dễ chịu ở quê nhà, Corneill say mê thơ
ca và sân khấu, năm 1629 anh viết vở kịch đầu tay " Meliter ", đưa cho chủ
gánh hát kiêm diễn viên là Mondori. Thành công đầu tiên khiến anh phấn khởi
dời Ruan đi Paris, và viết tiếp một số hài kịch về tình yêu với những đối thoại
sinh động hấp dẫn. Năm 1635 chuyển sang viết vở bi kịch đầu tiên là Medee
(thuộc truyền thuyết Hi Lạp, tác giả tiền bối là Euripide). Dù Corneill cố gắng
sáng tạo cho hình tượng nhân vật chính Medee có tính người hơn thời cổ đại
nhưng vở kịch vẫn chưa thu được kết quả mong đợi. Sau đó chuyển sang đề tài
Tây ban nha, Corneill viết một số bi hài kịch trong đó nổi bật như ngôi sao là Le
Cid (1637). Vở kịch châm ngòi cho một cuộc bút chiến nảy lửa, lôi cuốn hầu
khắp mọi tầng lớp xã hội chú ý, xôn xao. Tể tướng Richelieu không tán thành
cách lựa chọn và giải quyết vấn đề của tác giả nên đã ra lệnh cho Viện Hàn lâm
mang vở kịch ra kết án một cách bất công. Mặc dù vậy quần chúng vẫn nhiệt liệt
hoan nghênh kiệt tác của Corneill. Chính quyền quân chủ chuyên chế phản ứng
quyết liệt, buộc Corneill phải im lặng nghỉ viết một thời gian, lui về Ruan, xem
xét lại nghệ thuật của mình và nghiên cứu kĩ hơn nghệ thuật kịch của thời đại.
Thời kì sáng tác thứ nhất của ông kết thúc tại đây.
Năm 1640 lấy đề tài từ cổ La mã, ông viết hai vở Orax và Sinna ca ngợi những
nhân vật luôn luôn gạt bỏ lợi ích cá nhân, dù phải tàn nhẫn với cả người thân
thích, quyết đặt quyền lợi quốc gia lên trên hết.
Năm 1644, vở kịch Rodoguine đánh dấu bước ngoặt mới trong sáng tác của
Corneill. Vẫn dựa vào sự kiện thời cổ Hi Lạp, tác giả muốn miêu tả tập trung sự
thèm khát quyền lực và yêu đương của một số nhân vật quí tộc phong kiến.
Những dục vọng ích kỉ này đã vượt lên, đẩy lùi lí trí, dẫn họ đến tội lỗi. Tiếc rằng
về sau ông lại viết tiếp những vở kịch sút kém, khoa trương giả tạo. Mặt trời bi
kịch Corneill bắt đầu lu mờ báo hiệu sự khủng hoảng nghiêm trọng của nhà thơ
trước thời đại và nghệ thuật cung đình. Cái mới trong giai đoạn ba này là: bên
cạnh đấu tranh nội tâm diễn ra ở người anh hùng dũng cảm luôn luôn gạt bỏ
tình cảm riêng tư vì lợi ích quốc gia, xung đột bên trong đã được chuyển ra
ngoài thành xung đột hai lực lượng xã hội – chính nghĩa và phi nghĩa...
Vở bi kịch Le Cid
Ra mắt công diễn tại rạp hát Mare thủ đô Paris tháng 12 năm 1636. Thắng lợi
của nó thật huy hoàng, công chúng nồng nhiệt chào đón. Khi đánh giá những
tác phẩm khác, người ta lấy Le Cid làm mẫu mực, " đẹp như / hoặc không bằng
Le Cid ".Vở kịch được trình diễn nhiều lần trước hoàng hậu và tể tướng, được
thưởng 15000 livre. Vở kịch in thành sách hai lần trong năm đầu. Nhờ vở kịch,
cha của Corneill được phong tước quí tộc.
Lấy đề tài từ kịch Tây Ban Nha, sở trường của sân khấu Pháp, Le Cid là tiếng Ả
rập nghĩa là "đức ông " - biệt hiệu của nhân vật chính Rodrigue. Rodrigue vốn là
nhân vật lịch sử có thật, một chiến binh anh hùng có công đánh thắng quân Ả
rập nên được binh lính gọi là Đức ông. Anh trở thành anh hùng dân tộc, theo
đạo Cơ đốc. Truyền thuyết dân gian và truyện thơ dân gian đã kể nhiều về anh..
Corneill đã sử dụng tài liệu sưu tầm, sử liệu, chọn lọc chi tiết, thêm vào những
chất thời sự nước Pháp để xây dựng thành vở bi kịch điển hình chung của Tây
Âu.
CỐT TRUYỆN:
Tiểu thư Simen và công tử Rodrigue yêu nhau, được hai gia đình thuận tình cho
đính hôn. Trước khi cưới, một sự cố xảy ra. Trong một hội nghị ở triều đình, cha
của Simen gây xung đột với cha của Rodrigue (nguyên sự việc là: Don Diego -
cha của Rodrigue - được bổ nhiệm chức quân sư phó, bá tước Don Gormas -
cha của Simen - một võ tướng lão thành - phản đối, cãi cọ và tát vào mặt Don
Diego. Bá tước Diego ôm hận về nhà kể cho con nghe và bảo con rửa nhục cho
cha. Anh tự đấu tranh dằn vặt, cuối cùng đành đến gặp lão tướng Don Gormas
cha vợ tương lai. Trước hết anh tha thiết đề nghị ông giảng hòa với cha mình.
Nhưng lão tướng từ chối.
Buộc lòng, anh phải thách đấu. Kết quả lão tướng đã ngã gục dưới lưỡi kiếm
của anh. Tiểu thư Simen quá đau đớn, đòi nhà vua phải xử tội Rodrigue đền
mạng.Lão đại thần Don Diego xin vua cho ông nhận án tử hình thay con trai.
Vua còn đang phân vân khó xử. Rodrigue đến gặp Simen, nghe được tâm sự
day dứt khổ đau của nàng giữa tình yêu và bổn phận, anh tình nguyện nộp
mình cho nàng trả thù nhà. Nhưng Simen từ chối và bảo:" chàng đã làm đúng
bổn phận! ". Còn nàng, để xứng đáng với chàng Simen cũng sẽ làm tròn bổn
phận - nghĩa là đòi nhà vua xét xử anh. Một cuộc xâm lấn của quân Moore
khiến triều đình phải lo đối phó. Vụ xét xử Rodrigue hoãn lại. Vua cử chàng cầm
quân ra trận. Simen phản đối nhà vua, vua khuyên giải: " chừng nào Rodrigue
chiến thắng trở về hãy xét xử cũng chưa muộn, còn nếu anh ta hy sinh thì coi
như quân Moore đã thay chúng ta thi hành án (!)
Rodrigue lập nhiều chiến công, đang trên đường thắng trận trở về. Nhà vua giả
bộ báo tin cho Simen biết chàng đã tử trận. Nàng đau đớn thương xót chàng,
khóc ngất đi. Khi biết mình lầm, nàng lại đòi triều đình phải thi hành công lý. Trở
về, Rodrigue lại đến nhận tội với Simen và xin chờ nàng ra tay hành động. Nàng
chối từ nhưng nghĩ cách khác. Có một gã quí tộc tên Don Sanche vốn theo đuổi
nàng từ lâu, nay chộp cơ hội tiếp tục theo đuổi, đến an ủi Simen. Nàng bảo gã
thay mặt nàng ra tay bảo vệ danh dự nàng bằng một cuộc quyết đấu với
Rodrigue, sau đó nàng sẽ nhận lời cầu hôn của hắn. Rodrigue chối từ, một mực
chấp nhận chịu chết dưới tay nàng để giúp nàng làm tròn bổn phận người con.
Nàng yêu cầu anh nhận lời thách đấu của Don Sanche với điều kiện ai thắng
nàng sẽ cưới người ấy. Anh không còn cách lựa chọn nào khác. Simen ở nhà
nôn nao chờ đợi kết quả. Khi nhìn thấy gã Don Sanche xách kiếm trở về, Simen
nhào ra cào xé gã, xỉ mắng gã đã nhẫn tâm giết chàng. Sự thật là Rodrigue
thắng trận nhưng anh đã tha chết cho đối phương. Nhà vua can thiệp, tuyên bố
xóa tội cho Rodrigue và an ủi và nhắc Simen thực hiện cam kết trước khi quyết
đấu. Hai người chấp hành lệnh của hoàng đế, chuẩn bị đám cưới mở đầu một
cuộc sống hạnh phúc lâu dài.
GỢI Ý PHÂN TÍCH VỞ KỊCH
(Tìm hiểu mâu thuẫn dẫn tới xung đột, cách giải quyết xung đột, ai là nhân vật bi
kịch? tính chất của bi kịch là gì?)
Vở kịch khẳng định thắng lợi oanh liệt của lí trí (ý thức về nghĩa vụ) vượt qua
dục vọng cá nhân (tình yêu đôi lứa) và danh dự dòng họ (bổn phận gia đình).
Xung đột bi kịch nổ ra từ mâu thuẫn không thể hòa giải được giữa Cái Chung và
Cái Riêng, tức là giữa xã hội và cá nhân, lí trí và tình cảm.
Các nhân vật trung tâm có tính cách anh hùng kiểu mới xuất hiện trên sân khấu.
Họ có sức sống nội tâm mãnh liệt. Những đầu óc tỉnh táo sáng suốt có ý thức
sâu sắc về nghĩa vụ - trước hết là nghĩa vụ gia đình (cần bảo vệ danh dự gia
đình). Mặt khác họ là những trái tim nồng cháy yêu thương (tình yêu lứa đôi).
Cả hai nhân vật đều mạnh mẽ, rạch ròi phân minh nhưng đi ngược chiều nhau
và mâu thuẫn phát triển dần tới xung đột - phải loại bỏ lẫn nhau! Tình cảm mặn
nồng chính đáng vẫn không làm lu mờ ý thức nghĩa vụ, ý thức danh dự, nó phải
khuất phục trước ý chí. Nói cách khác, ý thức nghĩa vụ, ý thức danh dự trở
thành nền tảng của mọi tình cảm kể cả tình yêu. Lí trí thắng lợi làm nên phẩm
chất, đức hạnh người anh hùng kiểu mới của thời đại và là tiêu chuẩn của vẻ
đẹp mới mẻ của thế kỉ.
Rodrigue và Simen đáng yêu đáng kính vì họ đã mang lí tưởng của thời đại. Sự
kiện chàng Rodrigue đánh thắng quân xâm lược Moore có ý nghĩa quan trọng
về tư tưởng nghệ thuật, góp phần giải quyết gỡ nút được ổn thỏa. Tư tưởng ấy
là: dốc sức giữ gìn đất nước dù phải hy sinh tình nhà và tình yêu đôi lứa (cá
nhân). Bổn phận gia đình dòng họ tuy lớn lao hơn cá nhân song cũng phải
nhường bước cho nghĩa vụ công dân trước vận mệnh quốc gia. Rodrigue -
người con hiếu thảo, người công dân anh hùng và người tình chung thủy -
chàng đã khéo hành động sao cho trọn vẹn. Rodrigue và Simen, họ tự hào vì
được chiến đấu hi sinh cho nghĩa vụ lớn lao (gia đình, đất nước). Lí tưởng của
họ vấp phải trở lực của tình cảm riêng tư, một tình cảm nồng nhiệt. Tình yêu có
sức hấp dẫn say người không dễ gì cưỡng lại được. Còn lí trí thì đòi họ phải
tuân lệnh. Cuộc vật lộn nội tâm gây chảy máu tâm hồn nhưng họ đã tự thắng
mình, tiến tới thắng lợi vinh quang.
Rodrigue chẳng phải ngay từ đầu anh đã đứng hẳn về phía bổn phận gia đình.
Anh cố gắng tìm cách hòa giải, nhưng thất vọng. Khi đã hành động, anh không
hối hận. Anh nói với Simen: " Anh sẽ còn làm như thế nếu anh phải làm " - và
trái tim yêu thương của anh tan vỡ cùng với nỗi đau đớn của người yêu. Anh
muốn tìm một cái chết để trọn vẹn đôi đường (bổn phận gia đình và tình yêu).
Nếu không xảy ra cuộc xâm lược của quân Moore thì kết cục kể như thế là
xong. Khi ra trận anh dồn hết sức chiến đấu, thắng lợi vinh quang trở về. Anh
quay trở lại với món nợ tình cần phải trả bằng máu. Rodrigue là hình ảnh mẫu
mực cao đẹp trọn vẹn của con người lí tưởng của thời đại.
Simen yêu say đắm đến mức sẵn sàng chết theo anh nhưng cũng rất phân
minh khi giải quyết mối quan hệ cá nhân và gia đình. Thù cha cao hơn tình yêu,
rồi đến nghĩa vụ công dân cao hơn danh dự gia đình. Khi đòi trừng phạt người
yêu, cô vẫn thừa nhận anh đã hành động đúng, " và em cũng phải xứng đáng
với chàng ". Cô vẫn khâm phục anh là con người cao thượng đáng kính: " anh
đã làm bổn phận của một người có danh dự... xúc phạm đến em, anh đã tỏ ra
xứng đáng với em. Thì bằng cái chết của anh, em cũng phải tỏ ra xứng đáng
với anh ". Lí trí soi sáng mọi hành động của Simen [ SV hãy so sánh với trường
hợp Juliet tha thứ cho Romeo tội giết Tibalt anh họ thân thiết của nàng - nhưng
khác nhau về tình hình thời đại, dẫn đến lí tưởng khác nhau - giống nhau là lí trí
chiến thắng...)
Don Diego cha của Rodrigue, lúc đầu chỉ nghĩ đến thù riêng, sau khi thù đã rửa
ông lại tỉnh ngộ trở về với lí trí. Ông tự nhận tội mình,xin đổi mạng cho con, tích
cực bào chữa cho con vì ông nhận thức rằng Rodrigue là tấm lá chắn của nền
an ninh đất nước Tây Ban Nha trước kẻ thù bên ngoài. Ông giục giã con đi ngay
ra tiền tuyến, nhắc con làm tròn bổn phận dù phải hi sinh thân mình.
Vở bi kịch "Le Cid " là một điển hình sân khấu với đề tài mang tính phi thường
đột xuất ((nghĩa là không phải chuyện đời thường), cốt truyện phức tạp nhiều
biến cố lớn, nhân vật siêu phàm về tính cách, có tính cách quả cảm, ý chí mãnh
liệt. Hành động kịch chặt chẽ dồn dập, đối thoại và độc thoại sắc bén, khí thế bi
hùng của cuộc đọ kiếm nảy lửa. Sự thống nhất giữa nội dung và nghệ thuật kịch
khiến cho tác phẩm không gây ra sự nghi ngờ của khán giả về sự giả tạo khoa
trương mà còn chứa chan ý vị lạc quan thôi thúc công chúng vượt qua tất cả vì
sự chiến thắng của lí tưởng cao đẹp.
Vở bi kịch Le Cid vừa ra mắt khán giả lập tức thu hút dư luận Paris, gây tiếng
vang lớn trên kịch trường Pháp. Tên tuổi Corneill nổi như sóng cồn. Những nhà
văn vốn không ưa thích tác giả đã phải thốt lên: " mặt trời đã mọc rồi, các ngôi
sao hãy lặn cả đi ". Về sau có nhà phê bình đã nhận xét: " Tác phẩm Le Cid
không phải chỉ là sự khởi đầu của một người, đó là sự khởi đầu cuả một nền thi
ca và là rạng đông của một thế kỉ lớn ". Tuy nhiên những lời công kích phê phán
tác giả và tác phẩm cũng không ít và chẳng kém phần nặng nề gay gắt. Một số
nhà văn không tên tuổi được triều đình nâng đỡ đã ghen ghét Corneill, vu cáo
ông " ăn cắp văn của Tây ban nha, thiếu đạo đức khi cho Simen hứa hôn với kẻ
đã giết cha mình.v.v
Nhận chỉ thị của giáo chủ tể tướng Richelieu, Viện hàn lâm Pháp đã công bố
nhận xét (1638) nhằm chỉ trích vở kịch một cách nghiệt ngã. Họ nhằm vào một
số chi tiết vụn vặt: không tuân theo qui tắc cổ điển của Aristote - thời gian truyện
kịch dài quá 24 giờ (nhà văn Voltaire chỉ ra điều đó ở câu thứ 1169: lời hoàng
hậu nói với Simen). Kịch không đạt duy nhất về hành động: cả công chúa cũng
yêu Rodrigue. Kịch đã viết một đoạn tình ca thất luật. Kết thúc kịch không phù
hợp thể bi kịch và " không giống như thật ". Nhà thơ Corneill bị cấm không được
viết bài tranh luận trước sự kết án bất công đó. Thực chất, lời buộc tội của viện
hàn lâm che giấu một thái độ chính trị- các nhà cầm quyền bất mãn với tư
tưởng tự do của Corneill. Dưới con mắt của giáo chủ tể tướng và bọn thống trị,
Rodrigue người anh hùng lí tưởng của vở kịch đã coi thường pháp luật, thiếu
tôn trọng triều đình (đấu kiếm để giải quyết mâu thuẫn cá nhân trong khi pháp
luật cấm đấu kiếm). Nào là vở kịch đề cao anh hùng Tây ban nha là trái với tinh
thần dân tộc Pháp (hồi đó xung đột chiến tranh giữa Pháp và Tây ban nha còn
dai dẳng ác liệt).
Mặc dù Corneill nhiều lúc xa rời qui tắc cổ điển mà các nhà lí luận cung đình đòi
hỏi khắt khe, nhưng chính điểm đó là sự lôi cuốn mạnh mẽ nhất đối với nhà văn
lãng mạn sau này. Phải mất nhiều thời gian tranh luận, hội thảo. thăm dò dư
luận quần chúng, khi tình hình chính trị thay đổi vở kịch Le Cid mới được chính
thức công nhận. (*)*
Racine (1639-1699) và bi kịch Andromaque
Nhà thơ Racine- người kế tục nhưng trước đó là đối thủ số một của Corneill trên
sân khấu. Thực sự nổi tiếng ở nửa sau thế kỉ XVII, Racine làm cho kịch cổ điển
đạt tới đỉnh cao hoàn hảo về nghệ thuật xây dựng mẫu nhân vật và sự phân tích
tâm lí tinh tế. Với Racine, những người phụ nữ và những nhà vua chúa yêu
đương - nạn nhân khốn khổ của sự thèm khát chaý bỏng -đã chiếm lĩnh sân
khấu, thay thế cho những tâm hồn cao thượng của thời Corneill, đã phản ánh
bước ngoặt phức tạp của lịch sử và văn học, tâm trạng chán chường của những
tầng lớp tiến bộ nhất của xã hội Pháp những năm cuối triều vua Louis XIV.
Racine sáng tác một cách tự nhiên, tài tình khi phản ánh chân thực hiện thực
Pháp trong khuôn khổ tù túng của qui tắc cổ điển chủ nghĩa chính thống. Nhà
phê bình văn học Boileau viết cuốn " Nghệ thuật thi ca" (hoặc Nghệ thuật thơ)
tổng kết lí luận văn học ưu tú của " đại thế kỉ " chủ yếu dựa vào sự nghiên cứu
những vở kịch thơ xuất sắc của Racine.
Nghệ thuật kịch của Racine liên tục đặt ra những vấn đề lí luận mới cho thế kỉ
XVII và cả những giai đoạn sau nữa. Có lúc, nhà nghệ sĩ được sùng bái hết
mức, lúc khác lại bị coi là thứ đồ cổ trong viện bảo tàng. Nghệ thuật Racine luôn
luôn là chỗ dựa cho nhiều trường phái nghệ thuật mới, nhất là các trường phái
hiện đại ở Phương Tây. Racine vừa cổ điển lại vừa hiện đại.
Racine- nhà bi kịch của con người hai mặt- sinh ngày 22 tháng 12 năm 1639 tại
Ferte Milon trong một gia đình công chức khá giả.. Lên bốn tuổi đã mồ côi cả
cha lẫn mẹ, Racine ở với bà nội và cô ruột. Cô đi tu, cậu bé cũng theo vào học
luôn ở tu viện Po Royal. Vài năm sau, cậu bé được gửi tới trường trung học
Bove để học các khoa học nhân văn. Trở lại Po Royan, Racine tiếp tục thụ giáo
những người thầy uyên bác của giáo phái Jeansenis nổi tiếng về sự khắc kỉ đạo
đức, bi quan yếm thế về thế giới và nhân sinh. Họ cho anh tiếp xúc với thi ca
của Homer, triết học Platon...(cổ Hi Lạp). Nói chung anh được học nhiều về văn
hoá cổ Hi-La. Họ cố gắng làm cho Racine cậu học trò trung học rung động với
vẻ đẹp của tiếng Pháp. Sự đào tạo có tính chất tôn giáo đạo đức và những kiến
thức theo quan điểm Jeansenis đã đặt cơ sở vững chắc, để lại ảnh hưởng sâu
xa trong nhà nghệ sĩ Racine sau này. Những ảnh hưởng đó là: Cảm quan đen
tối về cuộc đời. Mầm mống yếu hèn, tội lỗi trong bản chất con người và sự bất
lực của nó trước sự xô đẩy của những thế lực thù địch. Những ước mơ thầm
kín về tự do, dân chủ và nhân đạo. Nỗi khát khao hướng về cuộc sống vô thần
và những thú vui trần tục. Đó là những mâu thuẫn rồi sẽ chi phối cuộc đời và
sáng tác văn học của Racine.
Rời khỏi tu viện Po Royal, Racine đi Paris, tiếp xúc với các nhà văn và những
người trí thức tiến bộ. Anh bắt đầu làm thơ và say mê sân khấu. Năm 1660,
nhân lễ cưới của nhà vua, Racine viết bài thơ " Tiên nữ sông Seine " dâng lên
vua, được thưởng 100 đồng livre. Racine thử viết kịch. Lo lắng trước con
đường đời của Racine, gia đình tìm cách kéo con ra khỏi cái thế giới văn học
nghệ thuật đáng lo ngại. Racine phải đến thị trấn Undex chuẩn bị nhận chức
thày dòng.Trong khi chờ đợi, Racine tranh thủ làm thơ...
Năm 1663, Racine trở lại Paris, cho xuất bản hai tập thơ " Đức vua bình phục"
và" Vinh quang của các thi thần ". Hai tập thơ được dư luận chú ý, tác giả được
mời gặp mặt ở triều đình. Racine kết thân với nhà phê bình Boileau và chuyển
hẳn sang viết kịch.Hai vở đầu tay " Người thành Thebes" và "Alexandre đại đế "
được biểu diễn kết quả tốt nhờ đoàn Kịch hoàng gia của Moliere. Sau đó ông
chê diễn viên của Moliere, đưa vở kịch kế tiếp cho đoàn kịch khác diễn. Việc
này gây ra mối bất hoà với vua hài kịch Moliere. Mấy tháng sau, nhận được một
bức thư của một thầy học cũ thuộc giáo phái Jeansenic viết:" Nhà văn nhà viết
kịch là những kẻ đầu độc, không phải thể xác mà tâm hồn những người sùng tín
", Racine nghĩ rằng thầy cũ có ý ám chỉ mình, ông viết thư trả lời gay gắt bênh
vực nhà văn nhà thơ và phê phán giáo phái Jeansenis. Từ đó Racine đoạn tuyệt
với tu viện Po Royal.
Thắng lợi đầu tiên đem lại niềm tự hào lớn và khẳng định vững chắc vị trí và tài
năng của Racine là vở bi kịch Andromaque được công diễn lần đầu tại triều
đình năm 1667. Vở kcih5 tác động mạnh đến công chúng Pháp và chia họ thành
hai trận tuyến đối lập. Nó báo hiệu sự xuất hiện một phong cách bi kịch mới lạ
so với bi kịch anh hùng của Corneill giai đoạn trước... Sau đó liên tục trong 10
năm Racine cho ra mỗi năm một vở, vừa dần dần chinh phục khán giả vừa đẩy
lùi các khuynh hướng đối lập... Racine bị phê phán là " kịch mang tính phi đạo
đức " từ những kẻ bất tài đố kị đối lập, thù địch. Ông trở nên nản lòng, ngừng
sáng tác và trở lại hoà giải với tu viện Jeansenis. Tuy thế, ông vẫn được vua
Louis chọn làm thư kí riêng, rồi làm nhà viết sử của triều đình. Năm 1689 theo
yêu cầu của hoàng hậu, ông viết vở kịch dựa theo Kinh Thánh dành cho những
nữ sinh của nhà tu Saint Sier tập diễn trong nội bộ. Vở kịch có một phong vị
riêng, dàn đồng ca phụ hoạ, nội dung đề cao lòng nhân ái và sự khoan dung tôn
giáo của nhà vua. Sau đó ông viết vở kịch tôn giáo thứ hai Atali" - đây là vở kịch
cuối cùng của sự đổi mới lớn lao táo bạo.
Sau Atali, Racine soạn cuốn " Lược sử Po Royal " in đậm tư tưởng giáo phái
Jeansenis. Rồi ông nghỉ viết lui về giao thiệp với những người Jeansenis. Lúc
này giáo phái không ủng hộ sự độc đoán của nhà nước chuyên chế nên Racine
bị vua Louis XIV nghi ngờ, bỏ rơi. Racine chết năm 1699, chôn tại tu viện Po
Royal.
Bi kịch của Racine được chia làm 3 giai đoạn trong 30 năm sáng tác.
Giai đoạn 1- hai vở kịch có nguồn gốc văn học cổ Hi Lạp- La mã, chưa hình
thành phong cách riêng, chỉ là sự nối tiếp bi kịch anh hùng (kiểu Corneill) hoặc
bi kịch phong nhã.
Giai đoạn 2- bước đi mạnh mẽ dứt khoát lộng lẫy hào quang, liền một mạch từ
vở Andromaque đến Federer. Đây là giai đoạn của những vở bi kịch hay nhất.
Những nhân vật luôn luôn chất chứa trong lòng nỗi thèm khát cá nhân ghê gớm,
thèm khát yêu đương hoặc quyền thế mang tính đen tối, tội lỗi. Nó nung nấu
ruột gan con người, thôi thúc người ta tìm cách thoả mãn mau chóng bằng mọi
giá. Nó được miêu tả như một định mệnh khắt khe không rõ nguyên nhân nào
thôi thúc. Sụ thèm khát đó vấp phải trở lực cũng mạnh mẽ chẳng kém- đó là Lí
trí luôn cố giữ con người theo lẽ phải. Cuộc xung đột âm thầm mà quyết liệt
giữa thèm khát tội lỗi và lương tri sáng suốt là xung đột cơ bản trong kịch
Racine. Thèm khát không thoả mãn càng nóng bỏng và chuyên chế. Kết quả là
sự thất bại của Lí trí, gây ra kết cục đau thương khủng khiếp của nhân vật
chính. Racine mở ra loại thể mới - bi kịch tâm lí.
Bi kịch tâm lí của Racine có giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Nó phản ánh
thực tế lịch sử sinh động của xã hội Pháp dưới cái nhìn tiến bộ của nhà văn.
Sang nửa sau thế kỉ XVII, chế độ quân chủ pháp bước vào thời kì ổn định và
thịnh vượng khi các thế lực phong kiến cát cứ địa phương đã tê liệt chịu qui
phục triều đình của hoàng đế, họ được phong tước và sống bám lấy triều đình.
Quan chức trở thành lũ ăn bám, lượn lờ xu nịnh, cầu cạnh ân huệ bổng lộc,
sớm tối lu bù yến tiệc, vũ hội, săn bắn, biểu diễn văn nghệ...Họ không bàn
chuyện chính trị và lợi ích quốc gia dân tộc. Không dễ dàng gạt bỏ lợi ích cá
nhân vì một nghĩa vụ chung. Sống nhàn tản, họ vùi đầu vào những chuyện riêng
tư trong phạm vi xã hội thượng lưu. Người ta thích tỏ ra tế nhị, lịch sự, ăn nói có
duyên, hiểu tâm lí, chiều chuộng phụ nữ... Yêu đương không chỉ là nhu cầu mà
còn là thú vui thời thượng. " Con người phong nhã " đã thay thế “con người anh
hùng cứu nước” của nửa đầu thế kỉ.
Tình trạng ấy phù hợp cuộc sống xa hoa phù phiếm chốn cung đình nhưng rất
xa lạ thậm chí đối nghịch với kì vọng của nhân dân và trí thức về một chế độ
quân chủ tập trung có khả năng phát huy hơn nữa "sự vĩ đại Pháp".
Là một nghệ sĩ cũng là một quan chức nhiều năm gắn bó với triều đình Louis
XIV, Racine đã thấy và phản ánh được cả một tầng lớp xã hội Pháp vào tác
phẩm. Những vở kịch tâm lí của Racine đã thoả mãn được cơn khát văn hoá
nghệ thuật của thời đại. Càng về cuối thế kỉ XVII, chính quyền Louis XIV càng
tha hoá và độc đoán, trở nên thù địch với nhân dân. Quần chúng bất bình, các
nhà văn nghệ sĩ cổ điển tiến bộ đã dũng cảm tố cáo nạn chuyên chế đó. Những
vở bi kịch của Racine xây dựng đề tài từ những thèm khát uy quyền, địa vị cá
nhân... đã trở thành vũ khí sắc bén chống cường quyền bạo chúa, phát ngôn lời
kết án của lịch sử và nguyện vọng chính đáng của xã hội, đấu tranh cho tự do
dân chủ.
Trong khi phản ánh cuộc sống hiện thực, Racine để lại những dấu ấn riêng của
nghệ sĩ. Đó là tâm hồn nồng nhiệt, dễ bị kích động và những mâu thuẫn bên
trong của mình: Sùng đạo nhưng lại say mê vẻ đẹp nhân văn cổ đại Hi Lạp La
mã ; Ràng buộc với tu viện Po Royal nhưng lại khó dứt ra khỏi cung điện
Verseill (cung vua) hoa đăng lộng lẫy ; Vừa muốn làm nhà giáo dục đạo đức
chính thống vừa náo nức muốn làm người thức dậy tâm hồn quần chúng ; Cố tỏ
ra làm tròn bổn phận nhưng lại mắc lỗi với vua, với thầy cũ, với bạn và
vợ...Hình như có hai con người đối lập giành giật chiếm giữ con người Racine:
một con người lí trí chịu ảnh hưởng tôn giáo và phong kiến, người kia là con
người đầy cảm tính luôn hướng về cuộc sống thực tế đầy hấp dẫn, cám dỗ.
Chính tác giả đã có lần tự thú như vậy. Tính bi kịch " con người hai mặt" trong
cuộc sống của Racine là yếu tố quan trọng làn nên tính bi kịch trong tác phẩm
nghệ thuật của ông.
Có lẽ Racine đã từng nghiền ngẫm cuốn tiểu luận khoa học của Descartes "
Bàn về những thèm khát của tâm hồn". Racine đã đào sâu vào tâm lí con
người, chọn những thèm khát cá nhân làm đối tượng miêu tả chính. Nhà triết
học đã lôi kéo nhà văn cùng góp phần giải quyết vấn đề có tính thời sự của xã
hội Pháp nửa sau thế kỉ XVII.
Trong tác phẩm, Racine không kết tội, đôi khi có vẻ đồng tình với thèm khát.
Thật ra, nỗi thèm khát là một hiện tượng tâm lý nếu được dẫn đắt thích hợp thì
có thể nâng tâm hồn đến với những công việc vĩ đại (Luận văn của Diderot - thế
kỉ Ánh sáng 18). Những nhân vật bi kịch của Racine thất bại đáng kết tội chẳng
phải vì họ thèm khát đắm say một con người hay ham mê cái ngai vàng. Theo
Racine cái khát vọng ấy vốn là có sẵn trong con người, ở ngoài sự lựa chọn của
con người.Đó là thèm khát chống phong kiến để giải phóng bản năng, tự do dân
chủ. Nó khát vọng muốn nâng cao con người nhân văn chủ nghĩa Phục Hưng
từng một thời được thể hiện ào ạt, nay cần được thể hiện trong phạm vi hẹp và
sâu sắc hơn. Nó chính là nhu cầu của giai cấp tư sản đang tiến lên. Nó đi tìm
một sự quân bình mới, sự thăng bằng của lí trí và tình cảm cảm xúc khiến cho
cá nhân có thể phát triển cân đối hài hoà... Nhìn thấy được những nét lành
mạnh quí hiếm trong các tâm hồn tội lỗi, tác phẩm của Racine in dấu một tinh
thần nhân đạo chủ nghĩa chân chính.
Giai đoạn 3 - không có nhiều tác phẩm như hai giai đoạn trước, nhưng lại là
bước ngoặt quan trọng đảo lộn cả cuộc sống và nghệ thuật bi kịch.
GIỚI THIỆU HAI VỞ KỊCH TIÊU BIỂU: ANDROMAQUE VÀ ATALI
BI KỊCH ANDROMAQUE:
Bối cảnh: thành Troie (Ilion) thời hậu chiến.
Nhân vật:
Andromaque - vợ goá của dũng sĩ hoàng tử Hector (thành Troie thất thủ)
Pyrus - lãnh chúa mới của thành Troie, gốc người Akay, con trai của anh hùng
Achill quá cố trong cuộc chinế tranh 10 năm đánh thành Troie..
Ecmion - công chúa con vua Menelax xứ Hi Lạp (Akay), người yêu của Pyrus
Oreste - tướng Hi Lạp, say mê đeo đuổi Ecmion.
Tóm tắt cốt truyện kịch:
Pyrus đã đính hôn với công chúa Ecmion nhưng khi đến cai quản thành Troie
anh lại đem lòng yêu Andromaque vợ goá của dũng sĩ Hector. Andromaque tỏ
ra một mực giữ thuỷ chung với chồng và trọng danh dự thành bang, nàng kiên
nhẫn chối từ lời cầu hôn của con trai kẻ thù. Nàng cố không bị nao núng trước
sự cầu hôn nồng nhiệt thiết tha của tướng trẻ Pyrus. Trong khi đó, biết tin người
yêu đang bỏ rơi mình, công chúa Ecmion lo lắng bồn chồn... Giữa lúc đó,
Oreste viên tướng trẻ - người đang theo đuổi công chúa Ecmion nhận được
lệnh nhà vua Menelax đến thành Troie truyền lệnh cho Pyrus phải bắt đứa con
trai nhỏ của Hector (tên cậu bé: Astianax) đem về xứ Hi Lạp để trừ hậu hoạ.
Thừa dịp này Pyrus ép nàng Andromaque nhận lời lấy y và hứa sẽ bảo toàn tính
mạng đứa con trai. Còn Oreste nhân chuyện này cũng lo tính giành lấy tình yêu
của công chúa Ecmion. Nàng Andromaque lo sợ bàng hoàng trước tình thế nan
giải. Chịu nhục kết hôn với kẻ thù thì cứu được con trai, chưa có cách nào hơn,
nàng đành ưng thuận lời cầu hôn của Pyrus. Tướng trẻ Pyrus quên hẳn mệnh
lệnh của nhà vua, anh ta vui mừng chuẩn bị đám cưới. Còn Ecmion căm hờn vị
bị ruồng bỏ, nàng hứa sẽ nhận lời cầu hôn của Oreste và yêu cầu anh ta giết
chết Pyrus cho hả giận. Tướng Oreste cũng vì say mê nàng công chúa mà liều
lĩnh ra tay sát hại Pyrus sau giờ hôn lễ... Nàng công chúa Ecmion vẫn còn nặng
tình yêu Pyrus, hối hận, nàng xỉ mắng Oreste rồi tự vẫn bên xác người yêu. Còn
Oreste nhực nhã tuyệt vọng phát điên và bị hoàng hậu Andromaque vừa lên
ngôi cai trị thành Troie phát lệnh truy nã, y được đám lính đưa đi chạy trốn biệt
xứ.
GỢI Ý PHÂN TÍCH:
Xét về mặt hình thức, Andromaque là nhân vật chính - nhân vật nữ anh hùng
chiến thắng (được nhà thơ đặt tên vở bi kịch). Nàng cố bảo vệ danh dự của
chồng và danh dự thành bang công đồng Troie. Nàng ứng biến tuỳ thời để bảo
vệ sinh mạng con trai - nó cũng niềm hi vọng của thành bang. Nhưng khi chúng
ta xét toàn bộ vở kịch, thực sự nàng chỉ là nhân vật chính giả. Ý đồ nghệ thuật
xây dựng nhân vật này để làm điểm tựa cho bối cảnh, mặt khác để nguỵ trang
vượt qua kiểm duyệt và mũi nhọn chỉ trích của triều đình. Thực sự những nhân
vật còn lại mới là nhân vật bi kịch chính thức.
Hành động kịch của Andromaque bề ngoài có vẻ phức tạp quyết liệt song thực
tế vẫn là đơn giản, chưa phải là hành động bi kịch. Tuy nhiên nàng vẫn được
coi là hình ảnh người vợ người mẹ đẹp đẽ và cao cả, đáng ngợi ca trên những
vần thơ vì tấm gương quên mình.. Nàng khéo léo chối từ kẻ cầu hôn, rồi lại
nhẫn nhục đến gặp công chúa Ecmion để cầu xin cho con trai nhưng vô hiệu
quả. Nàng biết khéo léo nhen nhóm hi vọng cho kẻ si tình để kéo dài thời gian..
Nàng là hình ảnh người vợ, người mẹ lí tưởng biết xử lý hài hoà giữa lí trí và
tình cảm.
Pyrus mới thực sự là hình ảnh đại diện của con người đương thời nửa sau thế
kỉ 17. Anh ta luôn luôn bị mối tình si lôi cuốn. Bản chất của anh hiền lành, quảng
đại, khiêm nhường có thể trở nên ông vua tốt của xứ sở Troie mới chinh phục.
Nhưng vì tuổi trẻ bị cơn thèm khát chiến thắng thúc giục, anh trở nên nóng nảy.
Hai tính cách: lãnh chúa thô bạo và anh hùng phong nhã giành nhau trong bản
thân Pyrus. Tuy là kẻ anh hùng chiến thắng, vì say mê sắc đẹp của
Andromaque đến nỗi anh hạ mình hết mức cầu xin tình yêu của người phụ nữ
yếu đuối. Nàng chẳng có gì ngoài sắc đẹp và nỗi khổ đau. Những cuộc đối thoại
giữa hai con người thay bậc đổi ngôi: nàng là nữ hoàng còn chàng là kẻ đầy tớ,
thật éo le, dồi dào kịch tính. Say đắm Andromaque, anh ta quên hết lời hẹn ước
hôn nhân với công chúa con vua Menelax. Say mê Andromaque, anh khinh rẻ
cả đống tro tàn còn âm ỉ cháy ngọn lửa hận thù ở thành Troie. Say mê
Andromaque, anh ta dám chống lại cả vương triều tổ quốc Hi Lạp hùng
mạnh.Và say đắm Andromaque, anh ta quên cả cảnh giác giữ gìn tính mạng.
Tình yêu làm anh ta trở nên hung dữ, đáng sợ càng thèm khát ráo riết hơn. Anh
ta dùng mọi thủ đoạn để chinh phục trái tim Andromaque -người vợ goá, không
bận tâm vì cái tang chồng của nàng. Và khi nàng chấp thuận lời cầu hôn thì
Pyrus lại chứng tỏ là kẻ nam nhi có tình yêu chân chính cao thượng, sẵn sàng
từ bỏ tổ quốc Hi Lạp để bảo vệ đứa con trai của người mình yêu. Đó là những
tình huống bi kịch thật sự, không hề giản đơn, một chiều và chưa thấu tâm lí
như Andromaque..
Đôi khi nghe lời cận thần can ngăn, thực ra là do nản chí, Pyrus nổi cơn giận dữ
với người đẹp và anh dừng bước lại... Nhưng rồi không thể quên được nàng,
anh tiến tới dứt khoát hơn. Cuộc sống của một đế vương trẻ tràn ngập trong
khổ đau dằn vặt với tâm trạng bất an này mới là nội dung chính của vở kịch.
Cái chết của Pyrus mang tính tất yếu, khi hết khổ đau nhân vật này không còn lí
do để tồn tại. Nó củng cố nhận xét của ai đó về con người thượng lưu Pháp thế
kỉ XVII:"Cảm giác, ngay cả cảm giác khổ đau, là cuộc sống duy nhất đáng mong
ước ".
Ecmion là nhân vật sáng tạo của Racine từ nguyên mẫu của truyền thuyết Hi
Lạp và kịch cổ của Euripide. Nàng là người có địa vị cao,rất dễ hợm hĩnh, kênh
kiệu, tự tin. Nhưng khi thấy mình chông chênh trong hạnh phúc mong manh
trước vị hôn phu dễ thay lòng đổi dạ thì Ecmion chao đảo từ cực này sang cực
khác, hoang mang bối rối khủng khiếp, mất hết tự chủ. Nóng vội, nàng đã làm
trái với tâm hồn mình và gây tai hoạ không thể cứu vãn. Nàng cũng chỉ là một
nạn nhân của bi kịch.
Oreste là một tính cách ít thành công hơn, chưa đủ gọi là nhân vật bi kịch. Hắn
chỉ là con người thiếu tự chủ nhất thời bị cơn thèm khát tình yêu đẩy vào kết
cục bi đát nhục nhã. Anh ta chỉ là một nạn nhân đau khổ của định mệnh. (ngụ ý:
không hiểu nổi việc mình làm, ngu dốt. Khác với Pyrus hiểu rất rõ hậu quả mà
vẫn hành động!).
Vở kịch Andromaque thể hiện rõ nét nhất nghệ thuật bi kịch Racine. Kịch của
ông không quá lạ lùng siêu việt phức tạp ngổn ngang mà hấp dẫn khán giả
bằng sự miêu tả tinh vi đời sống tình cảm của con người thời đại trong một
khuôn khổ hẹp nhất.
BI KỊCH ATALI
Mượn một côt truyện trong Kinh Thánh, vừa tiếp tục chủ đề quen thuộc vừa
chuyển mạnh sang phê phán chế độ quân chủ Pháp khi nó trắng trợn đối đầu
với quần chúng nhân dân.
Sơ lược nội dung kịch: Nữ hoàng Atali là nhân vật trung tâm, hiện thân của một
nỗi thèm khát trả thù lớn lao nhằm thanh toán một món nợ thù và cũng để củng
cố, duy trì địa vị tối cao của mình. Là một phụ nữ đã làm mẹ, làm bà nhưng
cuồng vọng đến mức ráo riết săn đuổi đứa cháu nội - giọt máu còn sót lại của
dòng họ David, càng chất thêm oán thù với quần chúng Do thái (bị coi là dị
giáo). Do mối thù của dòng họ lại thêm tín ngưỡng tôn giáo kích thích, Atali
càng điên cuồng khát máu. Bất chấp tinh thần đức tin Đức Chúa Trời, Đấng
vĩnh cửu mà chính bà thường tâm niệm nói ra, tiếng gọi của dục vọng trả thù
vẫn chiếm được bà. Lo sợ cái chết thường xuyên ám ảnh, cố chống lại nó bà
vẫn không tránh khỏi. Tư tưởng chống khủng bố chống chuyên chế thấm đẫm
trong nội dung kịch đã dẫn tới sự " nổi loạn" của nghệ thuật bi kịch - nghĩa là vi
phạm rõ rệt qui tắc cổ điển chủ nghĩa, nhất là cảnh quần chúng Do Thái kéo
nhau vũ trang diệt bạo chúa.
Vở kịch đã không làm hài lòng vua Louis XIV nên không được phép công diễn
trên sân khấu. Tuy vậy dư luận tiến bộ vẫn đánh giá cao Atali như vở bi kịch cổ
điển có ý nghĩa xã hội sâu rộng nhất.
HƯỚNG DẪN ÔN TẬP
So sánh bi kịch Andromaque với bi kịch Le Cid? Tính cổ điển là gì?
(gợi ý: tính cổ điển về lịch sử là: bi kịch chọn những hoàn cảnh thường gặp, của
bi kịch nhân loại, của mọi dân tộc. Nó còn là tình huống tâm lí cổ điển).
Chương IV: Morie và hài kịch cổ điển
Moliere - " người hề vĩ đại " - một trong những tên tuổi lớn của chủ nghĩa cổ điển
Pháp, của lịch sử văn học Pháp và là một trong những nhà viết hài kịch lớn nhất
của lịch sử sân khấu thế giới. Cả cuộc đời ông là một tấm gương sáng của một
nghệ sĩ chân chính luôn luôn bảo vệ chân lí của thời đại chống các thế lực phản
động bảo thủ tiêu cực.Hoạt động cùng thời với các nhà thơ nhà văn Racine,
Boileau, La Fontaine... Moliere đem đến cho văn đàn Pháp những cống hiến lớn
lao - người sáng lập hài kịch cổ điển và đưa nó tới đỉnh cao xán lạn. Là nghệ sĩ
ưu tú kết tinh những truyền thống tốt đẹp của nhân dân và dân tộc Pháp, sáng
tác của ông chuyển nhanh về phía cuộc sống hiện thực phong phú sôi động
trong đó quần chúng lao động đang tiến lên đảm nhiệm vai trò mới của lịch sử.
Ba trăm năm lẻ đã qua, tiếng cười của Moliere không lúc nào vắng trên sân khấu
Pháp và thế giới trong đó có sân khấu Việt Nam. Hài kịch của Moliere đã đóng
góp đáng quí cho việc xây dựng nền văn học hiện đại và sân khấu kịch nói Việt
Nam.
Một tài năng nảy sinh trong rèn luyện đấu tranh gian khổ
Jean Baptiste Poquelin sinh tại Paris trong một gia đình tư sản - tiểu quí tộc
cận thần của nhà vua. Ông được dạy dỗ chu đáo ba năm trong trường trung học
Clémonde nổi tiếng.Lúc ấy ông đã tỏ rõ sở thích văn chương, triết học, chịu ảnh
hưởng triết học Gassendy (cảm giác luận). Cha dự định cho ông học luật và
thừa kế chức vụ quan hầu của nhà vua nhưng Poquelin lại chọn sân khấu - một
nghề nghiệp đương thời coi là thấp kém.
Năm 1643, Poquelin quen biết một nữ diễn viên Madelaine Béjart cùng một
số bạn thành lập " Đoàn kịch trứ danh ". Do thiếu kịch bản và diễn viên giỏi nên
đoàn kịch chưa có tăm tiếng mặc dù rất cố gắng. Poquelin chọn biệt danh "
Moliere " năm 1644. Đoàn kịch tan rã năm 1645. Cuối năm đó, Moliere cùng với
anh em nhà Béjart dời khỏi Paris đi về các tỉnh nhỏ để lưu diễn.
Suốt 13 năm trời (1645 - 1658) chịu đựng khó khăn thiếu thốn, gánh hát nhỏ
chưa nổi tiếng của Moliere lang thang hầu khắp nước Pháp. Dọc đường, gánh
sáp nhập với một gánh khác khác. Mười ba năm phiêu bạt giang hồ chính là thời
gian chuẩn bị một sự nghiệp lớn lao của Moliere. Nó giúp ông hiểu biết, tích lũy
vốn sống về một xã hội Pháp, lúc ấy đang có cuộc nổi loạn La Frode. Nó giúp
nhà văn tiếp xúc rộng rãi với các gánh hát rong địa phương, học tập họ rồi cạnh
tranh với họ. Nó giúp Moliere kiểm tra lại nhận thức của mình, biết chỗ mạnh chỗ
yếu từ đó vạch hướng đi lâu dài. Moliere diễn viên, đạo diễn, nhà sáng tác hài
kịch và trưởng đoàn kịch đã trưởng thành qua 13 năm gian khổ như thế.
Từ 1650 Moliere đứng đầu gánh hát và bắt đầu xây dựng một số tiết mục đặc
sắc. Ông bắt tay viết những vở "kịch hề" trong đó vận dụng những kinh nghiệm
của loại "kịch mặt nạ Italia" về kĩ thuật, hành động, tính cách nhân vật. Như các
vở "Chàng Ngốc", "Ghen" đã báo hiệu một tài năng.
Thành công của Moliere vang dội đến tận kinh đô. Năm 1658, đoàn kịch
Moliere được nhà vua gọi về Paris. Moliere ra mắt cung đình với vở hài "Thầy
thuốc si tình". Buổi diễn có kết quả tốt, đoàn được giữ lại Paris, được nhà vua
cấp cho rạp hát Peuti Bourbon vốn là rạp hát của triều đình để đoàn biểu diễn
thường xuyên. Sau một năm hoạt động vừa diễn vở cũ vừa dựng vở mới, đoàn
tuyển mộ thêm những diễn viên có tài.
Năm 1659, Moliere đưa lên sân khấu các vở "Những ả kiểu cách lố bịch". Tác
giả bị bọn quí tộc căm ghét mặc dù ông chỉ đả kích bọn "giả làm quí tộc". Từ đây
cuộc đời Moliere chuyển sang giai đoạn xây dựng một nền nghệ thuật sân khấu
dân tộc hiện thực và tiến bộ. những tác phẩm lớn của Moliere ra đời liên tiếp,
mỗi vở là một đòn giáng vào giới quí tộc, nhà thờ và chế độ chuyên chế. Và
Moliere không ngừng phải chống trả quyết liệt những phản ứng điên cuồng của
các thế lực thù địch. Mặt khác, Moliere còn phải đương đầu với những nhà soạn
kịch và diễn viên đố kị thù ghét ông, lên án ông không tôn trọng những qui tắc cổ
điển, báng bổ tôn giáo, làm hại khiếu thẩm mĩ của công chúng. Quá trình đấu
tranh này đã khiến Moliere trở thành nhà sáng tác hài kịch vĩ đại, nhà nghệ sĩ lão
luyện và nhà tổ chức giáo dục tài năng.
Năm 1662 Moliere cho diễn vở "Trường học làm vợ" lên án quan điểm phong
kiến vô nhân đạo, trái tự nhiên vô hiệu quả trong việc giáo dục phụ nữ. Bọn phản
động tức tối, xúm lại công kích Moliere. Chỉ có Boileau tỉnh táo, vẫn viết bài phê
bình bênh vực Moliere. Để trả lời những kẻ thù địch, Moliere viết tiếp hai vở kịch
ngắn "Phê bình trường học làm vợ" và "Kịch ứng diễn ở Verseill" (1663) đưa
luôn các nhà phê bình đố kị lên sân khấu mà châm biếm.
Trong thời gian 1664 - 1666, Moliere viết ba vở hài kịch lớn với tư tưởng triết
học xã hội phong phú "Tactuff ", "Don Joan, "Anh ghét đời". Là những đòn trí
mạng giáng vảo nhà thờ, giai cấp quí tộc thế kỉ 17. Những thế lực phản động
núp bóng triều đình la ó om xòm, hùa nhau đe dọa hành hung nhà văn. Đây là
giai đoạn căng thẳng nhất trong cuộc đời nhà văn nghệ sĩ Moliere.
Từ đây hoạt động nghệ thuật của Moliere giảm bớt sôi nổi với các vở "Lão hà
tiện" (1668), Trưởng giả học làm sang (1670), Những bà thông thái (1672),
Người bệnh tưởng (1673).
Ngày 17-2-1673 trong đêm diễn thứ tư vở "Người bệnh tưởng", đang đóng
nhân vật chính Moliere kiệt sức ngã trên sàn diễn. Ông được đưa ngay về nhà
và một giờ sau trút hơi thở cuối cùng. Nhà thờ vốn thù ghét Moliere nên đã ngăn
cản việc mai táng ông theo nghi thức tôn giáo. Vợ ông phải quì phục dưới chân
nhà vua hết lời khẩn cầu mới xin được phép chôn cất ông ở nghĩa địa nhà thờ
vào lúc đêm khuya.
Những đóng góp của Moliere vào hài kịch dân tộc Pháp
Công lao của Moliere trước hết là kế tục và phát huy mạnh mẽ kịch hề dân gian
Pháp, sau đó nâng cao thành hài kịch cổ điển. Moliere đã xác định và nâng cao
vai trò địa vị hài kịch vốn bị coi rẻ trong xã hội Pháp. Xã hội Pháp vốn chỉ coi
trọng bi kịch vì cho nó nghiêm túc, cao quí. Moliere chứng minh rằng hài kịch
cũng nghiêm túc và là một nghệ thuật chân chính, nó chứa đựng những cái
cười thâm thúy, thông minh chớ không phải "rẻ tiền" như người ta chê trách.
Với Moliere, hài kịch còn là công cụ đấu tranh xã hội lợi hại chẳng có gì sánh
được. Hài kịch chứng tỏ tinh thần trách nhiệm xây dựng xã hội lành mạnh phát
triển chứ không phải chỉ để mua vui giải trí đơn thuần. Tóm lạI, nhờ Moliere, hài
kịch có vai trò ngang hàng với mọi loại hình nghệ thuật và đáp ứng được nhu
cầu thẩm mĩ của thời đại.
2.1 - TÍNH CỔ ĐIỂN CỦA HÀI KỊCH MOLIERE:
Quan Điểm Nghệ Thuật của Moliere là tinh thần duy lí, duy vật của thời đại.Theo
quan điểm chung của chủ nghĩa cổ điển, hài kịch nhằm đả phá những tệ nạn xã
hội và nhược điểm tâm lí của con người thời đại. Lí luận này yêu cầu hài kịch
"sửa chữa phong hóa bằng tiếng cười", giúp người có lương tri xa lánh cái sai
và thói xấu. Moliere viết "nếu tác dụng của hài kịch là sửa chữa tính xấu của
con người thì tôi tin rằng không cần bỏ qua bất kì kiểu tính xấu nào. Những bài
học luân lí nghiêm trang chưa hẳn có tác dụng bằng những nét châm biếm của
một bài thơ trào phúng... Mô tả những thói xấu của con người là cách tuyệt diệu
để sửa chữa nó" (Lời Tựa vở Tactuff - 1669).
Tuy nhiên, nhiệm vụ hàng đầu của hài kịch là "làm vui" cho khán giả, độc giả.
Muốn đạt được như thế trước hết phải "theo tự nhiên". Tự nhiên được hiểu là
đáy sâu của những tâm hồn kín đáo mà chỉ có những cái nhìn tinh tường mới
soi thấu được" (Boileau). "Tự nhiên" còn có nghĩa là theo truyền thống xã hội đã
được thừa nhận (danh chính ngôn thuận). Moliere nói qua lời một diễn viên "Khi
anh vẽ người, anh phải vẽ theo tư nhiên. Nếu anh không làm cho người ta nhận
ra những con người của thời đại mình thì anh chẳng làm được gì hết" - Moliere
trình bày lí luận của mình ngay trong tác phẩm như vậy.
Về đề tài: Moliere cho rằng có thể chọn bất kì đề tài nào kể cả cổ đại Hi Lạp - La
Mã, miễn là đề tài ấy có sức thể hiện phong phú. Nhưng ông thích lấy ngay đề
tài trong đời sống tâm hồn xã hội Pháp đương thời từ trong cung đình đến thành
thị nông thôn nhờ vốn sống những nămgiang hồ phiêu dạt khắp nơi tiếp xúc đủ
mọi loại người. Nhờ vậy Moliere sáng tạo được những tính cách điển hình. Chỉ
ngoại trừ một mẫu người - kẻ đứng đầu triều đình - mọi loại người Pháp khác
đều có mặt trên sân khấu Moliere. Tuy vậy nhân vật có mặt thường xuyên là
nhân vật quí tộc, ngài hầu tước - hiện thân của chế độ phong kiến lỗi thời..
Moliere nói đại ý rằng: trong mọi vở kịch hề cổ xưa đều có một tên ăn cắp có
nhiệm vụ gây cười cho khán giả thì trong các vở kịch ngày nay luôn luôn phải có
một vị hầu tước lố lăng làm trò cười cho công chúng" [ Vở Ứng diễn ở Verseill ].
Nhìn chung Moliere không tự hạn chế kịch của mình trong khuôn khổ hạn chế
của chủ nghĩa cổ điển nhằm phản ánh chân thực cuộc sống.
2.2 - NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG TÍNH CÁCH
Số lượng lớn hài kịch của Moliere thuộc loại hài kịch tính cách. Để làm cho tính
cách đạt tới mức độ điển hình [ nghĩa là có thể tồn tại vĩnh cửu ], Moliere tập
trung miêu tả những nét cơ bản nhất. ông tước bỏ những chi tiết phụ không có
ích cho sự theo dõi của khán giả. Mỗi nhân vật là hiện thân của một tính cách
nhất định. Ví dụ: đạo đức giả, hà tiện, thông thái rởm... những nét tính cách
khác bị đẩy xuống hàng thứ yếu, ví dụ ngộ nhận, chủ quan, cố chấp...
Nhìn chung, những thói xấu và sai lầm của nhân vật không gây ra những tai họa
chết người nhưng sẽ phải thất bại. Những kẻ ấy cứ tin mình làm đúng, mình
nắm lẽ phải và không chịu thừa nhận thực tế khách quan. Nhân vật ấy đầy ảo
tưởng và trở nên lố bịch hài hước và bị chê cười.
Biện pháp cường điệu khoa trương nhằm làm tăng cường tính hài, đẩy nhân vật
tới sát với ranh giới sự phi lí khó tin. Nhưng Moliere không cường điệu tùy tiện
bừa bãi mà gắn bó với hiện thực. Đối với khán giả, trước mắt họ là nhân vật cụ
thể sinh động tính cách rõ nét và mạnh mẽ khiến họ không thể nhịn được cười.
2.3 - NGHỆ THUẬT GÂY CƯỜI:
Sự vĩ đại của Moliere không chỉ là xây đựng tính cách mà còn nghệ thuật gây
cười. Sự tinh tế nhạy cảm của nhà tư tượng nhà nghệ sĩ tài ba khiến ông khi
quan sát cuộc sống phát hiện ra những khía cạnh hài hước với vẻ ngoài có vẻ
trang nghiêm đáng kính. ông nhìn thấy thực chất ở đằng sau sự lộng lẫy vàng
son cung điện triều đình Louis 14, lối sống hào hoa phong nhã của quí tộc nhàn
hạ, bộ mặt uy nghi của tôn giáo, ánh lấp lánh của đồng tiền vàng tư bản chủ
nghĩa. Những thứ dễ dàng đánh lừa con mắt người đời. Ông có cái nhìn của
quần chúng lao động và tầng lớp tư sản tiên tiến đang lên. Moliere khám phá
thấy những mâu thuẫn kín đáo, những nét kệch cỡm của cái xã hội đang lỗi thời
để mà cất tiếng cười tống tiễn nó vào quá khứ.
Tiếp thu kế thừa những biện pháp gây cười của nghệ thuật kịch dân gian, nghệ
thuật trong con mắt quần chúng (ví dụ cảnh đánh lộn, lầm lẫn, huyên náo...).
Hình ảnh người bình dân hiện ra khỏe khoắn, nhanh nhẹn tự tin với tiếng cười
lạc quan, tuy ở địa vị thấp hèn nhưng họ được miêu tả đẹp đẽ chính nghĩa với
tiếng nói tích cực của nhân dân.
Phát hiện những khía cạnh bi đát của cuộc sống rồi thể hiện dưới hình thức hài
kịch - đây là điểm độc đáo nhất của Moliere. Nhiều vở của ông khiến khán giả
cười vỡ bụng nhưng sau lại nhận ra dư vị đắng cay đến rơi nước mắt. Nhà thơ
Alfred de Muset thế kỉ 19 đã nói về " sự buồn thảm ","sự sâu sắc" trong cái hài
của Moliere. Khác với cái hài của Shakespear cười vui vẻ trong cuộc đời lạc
quan (hòa bình, ấm no hạnh phúc tình yêu...), Moliere cười phê phán mong
chôn vùi những thói tật, " những hình thái lịch sử " đã hết thời mà còn cố
gượng. Ông giấu kín sau tiếng cười những điều nghiêm trang của thời đại,
những nỗi đau những lo toan về cuộc sống trong thời cai trị độc đoán nghẹt thở
của vua Louis 14, tiếng cười của Moliere đậm ý nghĩa triết lí và xã hội.
Moliere là nhà hài kịch đầy bản lĩnh nên ông biết dừng lại đúng lúc khi sân khấu
của ông đã nhích dần tới ranh giới bi kịch. Chỉ cần dùng một vài tiểu xảo, một
lớp hề cũng đủ xua tan những ám ảnh nặng nề u tối... đưa khán giả quay về
cuộc sống trước mắt. Cái hài hước lố bịch còn nhiều nhưng ông tin vào lương
tri quần chúng có thể cải tạo được chúng.
2.4 - GIÁ TRỊ HIỆN THỰC TRONG KỊCH CỦA MOLIERE
2.4.1. Tính hiện thực phong phú:
Hài kịch Moliere hướng tớI một hiện thực phong phú, bên cạnh những nghịch
cảnh là cơ sở của hài kịch. Cuộc sống nước Pháp quí tộc tư sản hoá thế kĩ XVII
hiện ra muôn hình muôn vẻ. Cuộc sống của ngườI bình dân lao động - những
ngườI đang tiến lên đảm nhận vai trò chủ yếu của lịch sử - bắt đầu được miêu
tả, tuy chưa phảI bốI cảnh chính những đã thấp thoảng đằng sau những cảnh
đờI quí tộc tư sản.
2.4.2. Tính chiến đấu:
Mặc dù tuân theo quí tắc cổ điển là đặt lợi ích quốc gia dân tộc,tạm gác cuộc
đấu tranh giai cấp một bên, nhưng Moliere không quên đấu tranh giai cấp, ông
vẫn đứng về phía nhnâ dân lao động chống lại cả hai giai cấp đó, tuy có châm
trước phần nào cho giai cấp tư sản.
2.4.3. Nhân vật phong phú:
Đủ mọi loạI người trong xã hộI quí tộc- tư sản hiện lên vớI những chân dung
ngộ nghĩnh hài hước che nkhuất những thói xấu. Cả một quần chúng lao động,
không chỉ có mặt cơ bản là lương thiện cũng có những bình dân nhếch nhác
đáng cườI chê. Chỉ trừ hình ảnh nhà vua lúc này trở thành biểu tượng dân tõc
quốc gia, ngoài ra kihôgn thiếu một ai, kể cả hình ảnh những tu sĩ đạo đức giả,
một thế lực uy quyền đầy bí ẩn, một thứ ‘ siêu quyền lực”.
Nhân vật tiêu cực đương nhiên phảI là nhân vật trung tâm: quí tộc gàn dở. dối
trá, văn hóa rỗng tuếch, thầy tu đầy âm mưu, lừa bịp. Tư sản lớp trên tham lam
ích kỉ học đòi sang trọng như quí tộc. Quan chức cao cấp huênh hoang bất
nhân bất nghĩa..v.v....
Nhân vật tích cực: hầu hết là người bình dân có lương tri sáng suốt, sống theo
lẽ tự nhiên, luôn luôn chiến thắng trong các nghịch cảnh tuy rằng họ cũng có
những nhược điểm nhất định.
2.5 HÀNH ĐỘNG KỊCH MOLIERE
Hành động kịch của Moliere khá đơn giản, mỗi lúc một tăng mạnh hơn xoay
quanh những thói giả dối kệch cỡm. Sự thái quá của những hành động trái tự
nhiên nảy sinh xung đột, không phức tạp gay gắt đến mức phải có giải pháp
quyết liệt như bi kịch. Với ông chỉ cần một biện pháp nhỏ (bất ngờ, từ bên
ngoài) đủ khiến cái hài phải hiện nguyên hình. Màn chót của xung đột lại diễn ra
nhẹ nhàng cùng với tiếng cười.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_hoc_phuong_tay_1_p2_9449.pdf