MỘT SỐTHÀNH TÍCH CỦA NỀN VĂN MINH THIÊN CHÚA GIÁO
Bên cạnh tác hại ngăn cản sựphát triển của văn hoá khoa học và chống lại chủ
nghĩa nhân văn ởTây Âu, thiên chúa giáo trung cổTây Âu cũng đểlại một số
thành tích như:
1.VĂN HỌC: bộKinh Thánh và Dòng văn học hiệp sĩ.
2. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆTHUẬT TẠO HÌNH: những ngôi nhà thờ, thánh đường
trung cổChâu Âu. Những tranh và tượng thánh. Tranh tượng thời Phục Hưng
nối tiếp sáng tạo.
3. ÂM NHẠC nhà thờ, góp phần dẫn đến đỉnh cao âm nhạc bác học Tây Âu, âm
nhạc cổ điển thếkỉ18 và 19.
4.TẠO RA MỘT SỐPHONG TỤC TẬP QUÁN có giá trịnhưlễhội, đám cưới,
tang ma.
5. KHẲNG ĐỊNH MỘT SỐNỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP như đềcao tình
chung thuỷ, trung thực, kìm chếdục vọng, sám hối.
50 trang |
Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 2563 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Văn học phương Tây 1 - Phần 1, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc thôn
tính đất nước Hi Lạp vào đế quốc La mã do hoàng đế Caesar (Xê đa) cầm đầu.
Ông hoàng đế này được miêu tả là con cháu dòng dõi Ene. Tràn ngập tác phẩm
là cảm hứng ngợi ca tinh thần dũng cảm La Mã mà người “ anh hùng lí tưởng “
của thời đại là Ene. Nhưng thực ra cảm hứng trữ tình bi thương của nàng Didon
để lại ấn tượng sâu sắc hơn cho người đọc. Phần Một thực sự là phần thành
công nhất của tác phẩm. Ovits, nhà thơ La Mã - người được coi là nhà thơ của
nghệ thuật yêu đương - trong một cuộc chuyện trò với hoàng đế August (hậu
duệ của Caesar) đã phải thừa nhận rằng: “tác giả của Ene của bệ hạ đã đặt
người anh hùng của bệ hạ lên giường của mụ đàn bà người dân tộc Tya
(Didon). Nhưng trong toàn bộ tác phẩm không quyển nào được người đọc say
mê bằng những quyển thuật lại mối tình bất chính đó".
Nhân vật Ene:
Nếu chúng ta đã thứa nhận Illiade và Odyssee là hai bộ sử thi mẫu mực thì coi
đó là tiêu chí để xem xét Eneide. Tác phẩm Eneid có đáp ứng được những câu
hỏi sau hay không:
Mục tiêu chiến đấu của Ene là gì? Anh chiến đấu cho cộng đồng nào, có phải vì
thành Troie không? Câu trả lời của lịch sử: anh đi vì sự nghiệp cá nhân.
Vợ đã chết trong chiến tranh thành Troie, anh dẫn cha và con nhỏ bỏ thành ra
đi, tìm đất khác sinh sống. Cuộc ra đi theo lí tưởng cá nhân hay lí tưởng cộng
đồng, lí tưởng thời đại? -Đặt câu hỏi như trên tức là đã trả lời rồi.
Hãy nhận xét về tình yêu của Ene và nữ hoàng góa chồng Didon? (tình yêu
chân chính hay chỉ là sự lợi dụng. Anh ta bỏ nàng ra đi vì mục tiêu gì? Điều đó
có hay không giống với Odyssee trong những lần rời bỏ người đẹp để trở về xứ
Itac? Rõ ràng hoàn toàn khác với Odyssee.
Nhân vật Didon.
Didon vốn là một gái góa chồng đẹp như thiên thần, cõi lòng giá băng sau cái
chết của người chồng là Xise trong cuộc chiến thành Troie. Nàng quyết lòng giữ
trọn lời thề chung thủy với người chồng anh hùng đã khuất để giữ vai trò Nữ
hoàng, cống hiến cho bộ tộc mình
Nhưng khi gặp dũng sĩ Ene, người anh hùng của thành Troie thất thủ phiêu bạt
tới đây, nàng đã sững sờ. Nàng gặp một “ kẻ hoạn nạn “ mà “ dáng dấp hiên
ngang “ và “ đẹp một vẻ uy nghi lạ thường “. Nàng cảm thấy bị một tiếng sét, đôi
má nàng bỗng đỏ bừng và dưới làn xiêm y lộng lẫy, trái tim nàng đập rộn rã: “
Ta cảm ơn quyền lực nào đã đưa chàng tới đây Cũng như các anh, tôi đã
chịu quá nhiều đau khổ... Tôi phải cứu giúp những người hoạn nạn “.
Sau bữa tiệc chiêu đãi đoàn thủy thủ phiêu dạt, nàng yêu cầu Ene kể lại nỗi bất
hạnh của thành Troie. Trong khi nghe, nàng say sưa ngây ngất " mắt nàng treo
vào môi người kể chuyện", “như muốn nuốt lấy từng lờ".
Đêm khuya, mọi người đã yên nghỉ, Didon trằn trọc với nỗi cô đơn và chìm đắm
trong nỗi buồn thảm. Em gái nàng là Anna đến thăm, an ủi chị. Chị em tâm sự.
Nàng nói: "Chỉ có chàng, duy nhất là chàng có thể làm cho chị nao núng, đức
hạnh chị lung lay. Lòng chị bỗng cháy lên tia lửa ngày nào. Không ! thà rằng
mảnh đất kia vùi thây chị xuống muôn trùng vực thẳm, chị quyết không bao giờ
vi phạm đến nữ thần danh tiết thiêng liêng. Người đầu tiên mà số phận chị gắn
bó đã mang theo tình yêu của chị và chàng đã giữ chặt nó dưới nấm mồ".
Nói xong những lời “ kiên quyết “ đó, mắt nàng tuôn lệ đầm đìa. Nàng quì xuống
trước bàn thờ. Cầu khẩn có ý nghĩa gì với một tâm hồn đang yêu say đắm !
(Nàng cầu nguyện điều gì trước bàn thờ thần linh và vong hồn chồng cũ?).Lửa
tình mới nhen tuy còn êm dịu nhưng đã gây vết thương thầm kín trong tâm hồn
nàng.
Didon đau khổ như người mất trí. Gặp Ene, nàng định thổ lộ tâm tình. Lại thôi.
Nhưng rồi trong một cuộc đi săn, bất ngờ gặp cơn mưa lớn, hai người phải chạy
vào trú mưa trong một hang động. Họ đã yêu nhau và tổ chức một cuộc hôn
nhân.
Đang sống trong cảnh hạnh phúc lứa đôi mới mẻ, nàng biết Ene chuẩn bị ra đi
theo tiếng gọi của sứ mệnh (thần Zeus ra lệnh như lời chàng nói chăng?) hay là
theo khát vọng lập đại sự nghiệp ở vùng đất mới La Mã. Nàng lại buồn đau, thất
vọng nhưng ra sức than van, thậm chí đe dọa nàng sẽ chết. Nàng trút những lời
giận hờn: “ Mối tình của tôi, lời thề của anh, cả đến cái chết của tôi khi phải xa
anh cũng không đủ sức giữ chân anh ở lại đây ư?".
Nàng van lơn thảm thiết:
“ Ene chàng ơi, em đã đem tất cả những gì còn lại để cầu xin chàng...
"Vì chàng mà em đã chuốc lấy vào thân mình mối hận thù của toàn dân xứ
Cacata này. Vì chàng, em đãbỏ mất danh tiết... Giá như trước khi ra đi, chàng
đã kịp để lại cho em một đứa con để hàng ngày em nhìn thấy chú bé Ene chập
chững đi lại, giúp em nhớ lại nét mặt chàng thì lòng em được an ủi và cảm thấy
không bị phản bội".
Muôn ngàn ý nghĩ bao vây vò xé tâm hồn tan nát của nữ hoàng Didon đã dồn
nàng vào bước đường cùng, ảo tưởng tình yêu tan biến. Nàng tự sát.
Nhân vật Didon và tình yêu say đắm của nàng đã đi vào kí ức loài người như
một thiên tình sử bất hủ. Còn nhân vật chính Ene thì mờ nhạt biết bao bên cạnh
nàng Didon
Nhà văn Pháp Gustave Flaubert có nhận xét thú vị:
“Virgille đã sáng tạo ra người thiếu phụ yêu đương, còn Shakespeare sau này
lại sáng tạo ra người thiếu nữ yêu đương. Tất cả những nhân vật thiếu phụ và
thiếu nữ khác chỉ là mô phỏng của Didon và Juliet".
Nếu so sánh Eneide và Odyssee nhận thấy rằng mặc dù Eneid có thừa kế kết
cấu, cốt truyện nhưng nhà thơ La Mã đã đóng góp một giá trị mới: nhân vật
Didon - hình tượng người phụ nữ hai lần bị phản bội bởi khát vọng công danh
của " những kẻ anh hùng". Một tinh thần nhân văn sâu sắc trong một tiếng thơ
La Mã còn ngân vang mãi muôn đời sau.
Mặc dù Eneide không thành công khi tác giả muốn nó là một anh hùng ca
nhưng tác phẩm này cũng báo hiệu một thể loại nghệ thuật mới sẽ ra đời - bi
kịch cổ đại.
Chương IV: Bi kịch Hi Lạp
Bi kịch Hi Lạp là một vẻ đẹp đặc sắc của Hi Lạp cổ đại, là một thành tựu quan
trọng vào bậc nhất của nền văn học này. Bi kịch là một bước phát triển cao của
nghệ thuật thi ca Hi Lạp (Mĩ Học - Hegel) ra đời trong khoảng thế kỉ thứ 6 đến
thế kỉ 4 trước C.N - thời kì hình thành chế độ chiếm hữu nô lệ.
Thành bang Athens là nơi khai sinh những khúc hát dithyrambe - nguồn gốc của
bi kịch, nơi chứng kiến những cuộc xung đột giũa tầng lớp quí tộc cầm quyền và
nhân dân lao động. Ngoài ra còn có mâu thuẫn giữa tầng lớp quí tộc ruộng đất
bảo thủ chuyên chế và tầng lớp chủ nô công thương đối lập với tầng lớp dân tự
do theo trào lưu tự do dân chủ.
Đây là thời kì nền văn hóa Athens phát triển toàn diện. Những ngôi đền thờ thần
linh xây bằng đá cẩm thạch trắng, tượng ngà voi và vàng (pho tượng Zeus và
Athena), hoặc đúc bằng đồng đồ sộ. Đồ gốm có những bức họa vẽ điển tích
thần thoại. Thời kì thịnh vượng này bị quân xâm lược Ba Tư nhiều lần xâm
lược. Dân chúng phải đổ bao xương máu để trả giá cho sự thịnh vượng của
thành Athens. Nơi đây cũng là trung tâm nảy sinh mâu thuẫn xung đột xã hội.
Đất nước Hi Lạp đạt bước phát triển cao về mọi mặt kinh tế chính trị, quân sự
và văn hóa. Tuy vậy, để đạt được bước tiến đó nhân dân Hi Lạp và nhân loại
nói chung phải trả giá khá đắt vì đây làsự mở đầu kỉ nguyên đau khổ của nhân
loại. Biết bao tấn bi kịch xã hội nảy sinh. Văn học nghệ thuật phải sáng tạo một
loại hình nghệ thuật mới để phản ánh những xung đột gay gắt không thể hòa
hoãn - đó là bi kịch.
Thể loại bi kịch thỏa mãn nhu cầu cuộc sống tinh thần của lớp người đã có tư
tưởng tự do - dân chủ, đã biết ý thức về vai trò của cá nhân đối với thế giới, với
cuộc sống xã hội. Họ suy tư trăn trở về cuộc đấu tranh của con người thời đại,
sẽ phải gồng mình lên đương đầu với số mệnh, với cuộc sống và chấp nhận sự
đụng độ một mất một còn. Các lực lượng xã hội mới tiến bộ như quí tộc công
thương, thợ thủ công, tiểu chủ đã nắm lấy bi kịch như một vũ khí đấu tranh
chống lại giai cấp quí tộc ruộng đất để khẳng định khát vọng dân chủ của mình.
Biểu hiện đầu tiên là việc thờ cúng thần Rượu nho Dionisote ngày càng phổ
biến lấn át các vị thần khác Thần Rượu nho đem lại lợi ích cho giới công
thương và tiểu chủ và cho cả đất nước Hi Lạp. Đến thế kỉ 6 trước C.N tiếm
vương Pidisterate cho mở lễ hội lớn cúng Thần Rượu Nho hàng năm. Vở bi
kịch đầu tiên ra mắt công chúng với nội dung thuật lại cuộc đời gian truân, đau
khổ của Dionisote.Từ đề tài thần Dionisote, các nhà soạn kịch mở rộng ra nhiều
nhân vật khác nữa.
Ban đầu, vở diễn chỉ có một dàn đồng ca, sau đó một diễn viên tách ra ứng diễn
trả lời, đáp lại những lời hát của dàn đồng ca. Dần dần số diễn viên tách ra ngày
càng nhiều hơn. Người ta còn đeo mặt nạ cho diễn viên.
Mỗi năm nhà vua mở cuộc thi diễn kịch. Mỗi tác giả dự thi bộ ba vở bi kịch và
một vở hài kịch nhỏ. Số vở kịch còn sưu tầm được ngày nay chỉ là số nhỏ còn
sót lại.
GIỚI THIỆU BA TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM TIÊU BIỂU
1. ESCHYLE VÀ"PROMETHE BỊ XIỀNG"
Eschyle (525 - 456 tr.C.N) là cha đẻ của bi kịch cổ đại Hi Lạp (nhận xét của
Engels) Ông là nhà thơ của thời kì dân chủ hình thành với những xung đột gay
gắt của nó. Là thi sĩ và cũng là chiến sĩ trong ba trận chiến thắng lừng lẫy của
người Hi Lạp: trận Maraton, trận Salamin và Plate. Ông đã viết tất cả 90 vở kịch,
nay chỉ còn lại 7 vở.
Các vở Bảy tướng đánh thành Thebes, Quân Ba Tư, Oresti, Agamennon,Các
nữ thần ân đức, Những người thiếu nữ cầu xin, Những người phụ nữ mang đồ
tế lễ.v.v..
Vở bi kịch “ Promethe bị xiềng “ (có thể viết năm 469?) là tác phẩm nổi tiếng
nhất của ông và là vở tiêu biểu cho giai đoạn đầu của bi kịch Hi Lạp. Cốt truyện
cũng mượn từ thần thoại Hi Lạp nhưng chỉ xoay quanh phần xung đột quyết liệt
nhất.
Vị thần Promethe là hiện thân của lí trí, thắng lợi đầu tiên của con người khi tìm
ra lửa.
Promethe là một thần titan (khổng lồ) xuất hiện ở đầu vở kịch như một kẻ phạm
tội ăn cắp lửa của trời đem cho loài người. Đó là hành động vô cùng cao cả đưa
loài người ra khỏi tối tăm ngu muội và họa diệt chủng, lại tiếp tục nâng con
người lên giai đoạn văn minh
Chàng nói: “ loài người khốn khổ kia, hắn (thần Zeus) không hề bận tâm nghĩ
đến các người. Hắn còn muốn tiêu diệt loài người để tạo ra giống loài khác. Thế
mà không một ai phản đối trừ ta. Ta đã cố tình phạm tội, chính vì muốn cứu vớt
loài người, ta đã tự chuốc lấy đau khổ hôm nay “
Hình tượng Promethe - người chiến sĩ với khát vọng cháy bỏng về tự do và đấu
tranh đã trở thành nguồn cảm hứng lớn cho Karl Marx (Các Mác) viết luận văn
tiến sĩ triết học của mình. Theo lời Marx “ triết học xưa nay bao giờ cũng đấu
tranh cho Tự do của loài người, do đó Promethe là vị thánh đầu tiên - người
tuẫn tiết đầu tiên trong lịch sử triết học “.
Là người chiến sĩ đấu tranh cho Tự do mà “ tự do là sự nhận biết cái tất yếu “
(Marx), Promethe đã chỉ ra rằng “ông vua đương vị ấy rồi đây sẽ bị tống cổ một
cách nhục nhãJ". Nghĩ về bản thân mình, Promethe cũng ý thức được rằng:” đã
là kẻ thù thì phải chịu đựng sự ngược đãi của kẻ thù, điều đó chẳng có gì xấu
xa “.
(ghi chú: Promethe nguyên gốc tiếng Hi Lạp – Promethens nghĩa là: tiên tri)
Đây là vở kịch thứ hai trong bộ ba: Promethe người mang lửa, Promethe bị
xiềng và Promethe được giải phóng. Vở thứ nhất và vở thứ ba mang dáng dấp
anh hùng ca, riêng vở thứ hai mở ra thể loại bi kịch nên chúng ta chỉ nghiên cứu
vở này.
NHÂN VẬT
Thần Quyền Lực
Thần Bạo Lực
Hephaistote:Thần Thợ Rèn
Promethe
Pozeidon (hoặc Neptun): Thần Đại Dương
Mười vị nữ thần
Hecmet:Thần Truyền Tin
Đội Đồng Ca: gồm các nàng Osealite.
SOPHOCLE VÀ “EUDIPE LÀM VUA"
Sophocle (496 - 406)được mệnh danh là "nhà thơ của thời kì dân chủ cực
thịnh"
Ông là người am hiểu nghệ thuật kịch hơn ai hết và muốn kịch phải thực sự là
hình ảnh của cuộc sống. Với kịch, ông đã tạo ra những “đòn sấm sét tâm lý",
“những đám cháy lương tâm"hết sức hồi hộp và hứng thú. Sophocle đã đưa bi
kịch lên tới mức hoàn mĩ của thể loại bi kịch phức tạp (nhận xét của Aristote -
Poetics). Nhân vật của ông là những nhân vật lí tưởng - “những con người cần
phải như thế". Sáng tác của ông gồm 120 vở, trong đó 24 vở đạt giải nhất quốc
gia, nay chỉ còn lại 7 vở. Tiêu biểu nhất là vở “Eudipe làm vua", “Angtigon” là vở
kịch bằng thơ, khai thác đề tài từ truyền thuyết về thành Tebơ. Trong cuộc chiến
tranh giữa Acgôx và Tebơ, hai người anh ruột của Angtigon đều tử trận. Theo
huyết thống Crêông lên thay Êtêôclơ trị vì thành Tebơ. Sau khi lên thay Crêông
không cho bất cứ ai chôn cất thi hài Polinix. Xót tình máu mủ, Angtigon một
mình làm những nghi lễ mai táng cho anh. Sau đó nàng bị bắt và Crêông quyết
trừng phạt nàng bằng cách giam nàng vào trong ngôi nhà mồ của dòng họ
nàng. Bất bình trước việc làm tàn ác của cha đối với người vợ sắp cưới của
mình nên Hêmông ra sức khuyên can cha nhưng không được. Cuối cùng khi
Crêông ra lệnh phóng thích Angtigon thì nàng đã thắt cổ tự vẫn. Hêmông cũng
kết thúc đời mình bên xác người yêu. Ơrydix- mẹ của Hêmông sau khi biết tai
hoạ nói trên cũng dùng kiếm tự sát.Vở kịch kết thúc bằng sự nhận ra lỗi lầm của
Crêông.
Kịch của Sophocle đa dạng về mặt đề tài, phong phú về mặt nội dung và giàu
tính triết lý. Xung đột xảy ra thường là những con người cao quý trọng danh dự,
giàu tình nghĩa và giàu tính nhân bản với những thế lực độc đoán, bạo tàn. Mở
đầu vở kịch, Angtigon bộc lộ ý định chôn cất thi hài người anh với lời lẽ hết sức
cảm động khi nói với đứa em của mình:”Chồng này chết đi, em còn lấy được
chồng khác và sinh con đẻ cái với người ta, còn cha mẹ chúng ta đã chết rồi,
làm sao còn sinh cho em một người anh khác nữa”.
Trước thái độ tàn nhẫn của Crêông, nàng nói: "Tôi sống để yêu thương chứ
không phải sống để căm thù”. Xung đột giữa Angtigon và Crêông theo Hêghen
thì “đó là xung đột giữa lợi ích gia đình và lợi ích quốc gia”, nói một cách khác
đó là xung đột giữa đạo lý và pháp lý. Vậy giữa hai cái đó đâu là chân lý. Ta hãy
nghe Hêmông - người yêu của Angtigon đồng thời là con của Crêông biện luận
trong cuộc đối thoại sau:
Crêông (C): Thế con kia không phản nghịch là gì?
Hêmông (H): Tất cả nhân dân thành Thebes này không ai nghĩ rằng nàng như
vậy cả.
C: Thế ra ta phải tuân theo mệnh lệnh của nhân dân thành bang này hay sao?
H: Cha trả lời hệt như trẻ con. Chắc cha cũng biết thế?
C: Vậy ta cai trị đô thị này cho một người khác hay sao?
H: Không có quốc gia nào là của riêng một người nào cả !
C: Một đô thị không phải là của một người đứng đầu thì là của ai?
H: Nếu đô thị ấy không có người thì cha cai trị ai?
C: À té ra thằng này bênh vực cho đàn bà nhỉ?
H: Thưa cha, nếu cha là người đàn bà, thì chính con là người bênh vực đàn bà,
vì ở đây con chỉ biết có bênh vực cha thôi !
C: Đồ bất hiếu ! Mày dám buộc tội cha mày à?
H: Bởi vì con thấy cha xúc phạm đến Thần công lý?
Luật pháp mà Hêmông và Angtigon bảo vệ là luật pháp của thần công lý. Đó là
luật pháp được nhân dân lưu truyền và gìn giữ. Nó là luật pháp nhân đạo và đó
là chân lý vì nó phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Ý nghĩa đích thực của
hình tượng Angtigon là ở chỗ đấu tranh cho sự khẳng định chân lý đó.
Khác với Eschile miêu tả thế giới thần linh với các mâu thuẫn và những ý chí chi
phối cuộc sống con người, bi kịch của Sophocle miêu tả thế giới con người với
những đau khổ, buồn vui do chính bản thân họ gây nên. Sophocle đã kéo bi
kịch từ “trên trời xuống hạ giới”. Thể hiện ở chỗ ông để cho nhân vật của mình
hành động hoàn toàn độc lập và chịu trách nhiệm về số phận của mình. Các vị
thần linh trong kịch của ông bị đẩy lùi ra phía sau sân khấu. Bi kịch ở đây hoàn
toàn do con người gây nên. Angtigon có kết cấu rất chặt chẽ, hành động thống
nhất, đối thoại sắc xảo, giàu xung đột kịch tính là điểm nổi bật tài năng
Sophocle.
Trước khi phân tích vở kịch này, chúng ta hãy nghiên cứu những đặc trưng bi
kịch mà đến giai oạn Sophocle nó mới định hình và đạt tới tác phẩmbi kịch
mẫu mực.
Bi kịch là thể loại có truyền thống lâu đời. Theo dòng lịch sử, nó tiếp tục không
ngừng phát triển qua từng giai đoạn, thậm chí đổi mới ở từng tác phẩm lớn.
Bi kịch hiện đại vẫn còn kế thừa tinh hoa của bi kịch truyền thống. Bởi vì thể loại
cũng có “ kí ức “, nó không quên cội nguồn đã sinh ra nó.
Bi kịch Hi Lạp là sản phẩm văn hóa của nền dân chủ - chủ nô Athens. Do đó khi
chế độ này chấm dứt vai trò lịch sử của nó thì bi kịch cũng rút lui.
Tuy nhiên, giá trị tư tưởng - nghệ thuật của nó là bất diệt, tiếp tục được kế thừa
trong tất cả bi kịch của những thời đại sau đến tận ngày nay.
Bi kịch tạo ra được hiệu quả thẩm mĩ là “thanh lọc tình cảm thông qua xót
thương và sợ hã". (Poetics - Aristote). Sự xót thương nảy sinh khi vở kịch trình
bày cảnh người vô tội chịu điều bất hạnh, và sợ hãi nảy sinh khi thấy một người
giống như ta lại gặp điều bất hạnh “.
Bi kịch là sự bắt chước một hành động hoàn chỉnh, nó cố hết sức mình để kết
thúc trong vòng một ngày, xảy ra ở một nơi và xoay quanh một hành động chính
- đó là quy tắc “tam duy nhất"mà Aristote đã đúc kết qua nhiều vở kịch thành
công.
Có ba lí do chọn vở “Eudipe làm vua"làm tác phẩm bi kịch mẫu mực:
Đề tài và sự tích vua Eudipe có ý nghĩa đặc biệt trong lịch sử văn học châu Âu.
Hầu như trong giai đoạn nào cũng có tác giả lớn tìm đến đề tài này mà tiếp tục
khai thác. Ngay thời cổ đại, cả ba tác giả lớn chứ không riêng Sophocle sáng
tác về vua Eudipe.
Trong cuốn Thi pháp (Poetics) của Aristote, vở kịch này được nhắc đến nhiều
nhất, góp phần khẳng định lí luận về bi kịch. Về sau, nhà soạn kịch Pháp thế kỉ
17 Corneill và nhiều nhà soạn kịch Tây Âu đều phải công nhận vở “Eudipe làm
vua"là “hiện thân tuyệt đối của tư tưởng thể loại".
Vở kịch dựa theo “Truyền thuyết cổ xưa về vua Eudipe"lưu hành với nhiều dị
bản.
Nguyên văn tựa đề là: Eudipe - tiranos
(nghĩa là Eudipe - kẻ tiếm quyền).
Tóm tắt truyển thuyết như sau:
Các vị thần linh phán truyền lệnh cấm vua Laios và hoàng hậu Jocaste ở thành
Thebes sinh con nối dõi. Nếu trái lệnh thần linh, đứa con sẽ phạm tội giết cha
lấy mẹ Nhưng họ lại lỡ sinh được một đứa con trai. Hoảng sợ, hai người sai
một đầy tớ đem đứa bé vào rừng sâu vứt bỏ. Đứa bé bị xâu chân bằng một sợi
dây thép nên chân sưng tấy lên, người đầy tớ gọi là thằng bé Eudipe (nghĩa là
chân sưng). May thay anh đầy tớ động lòng thương đứa bé nên giao cho một
người chăn cừu ở xứ Corinte láng giềng đem đứa bé làm con nuôi đi biệt
tích.Người chăn cừu đem đứa bé sang nước láng giềng Corinte rồi đem dâng
cho vua và hoàng hậu không có con để làm con nuôi.Họ rất mừng, nuôi đứa bé
nuông chiều hết mực, cho học hành luyện tập trở thành một hoàng tử tài giỏi.
Eudipe lớn lên không hề biết rõ nguồn gốc thực sự của mình.
Tình cờ trong một buổi tiệc rượu, một viên quan say rượu đã nói chàng không
phải con đẻ của nhà vua. Chàng buồn bã hỏi cha mẹ. Mọi người đều khẳng định
chàng là hoàng tử ruột. Vẫn còn hoài nghi, chàng vào đền thờ thần hỏi về
nguồn gốc của mình. Vị thần trả lời “ngươi sẽ giết cha và cưới mẹ". Kinh hoàng
vì lời phán truyền, Eudipe lẳng lặng bỏ xứ Corinte ra đi để tránh lời nguyền. Đến
một đoạn đường hẹp, chàng gặp một cỗ xe ngựa có lính hộ tống một ông già
ngồi trên xe. Đám lính hách dịch quát mắng chàng phải tránh đướng cho xe
qua. Chàng nổi giận đánh trả những tên lính thô bạo và giết chết toàn bộ đoàn
xe trừ một người hầu nhanh chân bỏ chạy thoát thân.Người ngồi trên xe chính
là vua Laios, còn người chạy thoát lại là lão đầy tớ ngày xưa đã đem Eudipe
vào rừng.
Chàng Eudipe tiếp tục cuộc hành trình hướng về thành Thebes định mệnh.Lúc
này thành Thebes gặp tai họa liên tiếp. Vua vừa bị một đám cướp giết chết
(theo lời người đầy tớ thoát thân về thuật lại) thì xuất hiện một con quái vật tên
là Sphinx. Nó là một con nhân sư - thân mình sư tử đầu người khuôn mặt khá
giống phụ nữ.Nó đứng ở ngã ba đường chặn cửa vào thành Thebes đưa ra câu
đố: “Con gì sáng đi bốn chân, trưa di hai chân, chiều đi ba chân?". Ai không trả
lời đúng bị nó ăn thịt. Nhiều người dân thành Thebes đã bị nó giết hại. Hoàng
hậu vừa góa chồng đành phải ra thông cáo tìm người tài giỏi giải đáp câu đố
của con quái vật, ai đáp được sẽ nhường ngôi vua. Eudipe nghe thông báo liền
nhận lời. Chàng gặp con Sphinx và trả lời - “đó là con người". Con quái vật xấu
hổ chịu thua và biến mất.
Dân chúng thành Thebes thoát nạn, hoàng hậu giữ lời cam kết, đưa Eudipe lên
làm vua. Chàng hoàng tử lang thang nhờ trí tuệ bước thẳng lên đỉnh vinh quang
và quyền lực. Và khoảng cách từ chiếc ngai vàng đến cái giường của hoàng
hậu chẳng bao xa, vua trẻ Eudipe đã cưới hoàng hậu Jocaste.Họ sống hạnh
phúc, sinh hai trai hai gái.
Cốt truyện kịch chỉ bắt đầu từ đây:
Một tai họa mới giáng xuống dân chúng thành Thebes: mất mùa trồng trọt, gia
súc chết toi, đàn bà không sinh nở được. Dân chúng chỉ còn trông chờ trí tuệ
siêu phàm của nhà vua trẻ tài ba Eudipe cứu dân. Thần linh phán truyền rằng
tai họa đó là sự trừng phạt thành Thebes phạm tội đang chứa chấp kẻ giết vua
Laios. Muốn tránh khỏi tai họa phải tìm ra và trừng trị kẻ sát nhân. Vua Eudipe
quyết tâm truy tìm thủ phạm. Nhà tiên tri mù Tiretias được vua mời đến. Lúc đầu
ông từ chối trả lời, sau bị vua ép quá ông buộc phải nói ra sự thật - chính
Eudipe là thủ phạm! Nhà vua nổi giận trước sự tố giác quá bất ngờ. Nhưng điều
đó khiến Eudipe trăn trở suy tư tìm hiểu lai lịch của mình. Tình cờ người chăn
cừu ngày xưa xuất hiện, thuật lại những sự kiện trước đây, khiến Eudipe càng
nghi ngờ lai lịch của mình.. Người đầy tớ già bị ép phải nói sự thật, và ông lão
đã thú nhận mọi chuyện ngày xưa. Trong quá trình điều tra, hoàng hậu Jocaste
đã đoán biết sự thật nên lo sợ mà can ngăn vua thôi không điều tra nữa. Nhung
vua quyết tâm đi đến cùng. Khi sự thật được sáng tỏ, hoàng hậu đã thắt cổ tự
vẫn. Trước thi hài của hoàng hậu, vua Eudipe rút cây trâm tự chọc thủng đôi
mắt mình để tự trừng phạt thủ phạm. Rồi chàng bỏ kinh thành Thebes ra đi tự
lưu đày tha phương. Vở bi kịch kết thúc.
Truyền thuyết còn kể thêm đoạn chót. Một trong hai con gái của họ đã tự
nguyện theo cha đi lang thang để săn sóc người cha mù lòa. Cuối cùng, nhà
vua Eudipe chết rụi ở một xó rừng.
Cũng như những tác phẩm lớn, “Eudipe làm vua"lung linh nhiều tầng ý
nghĩa.Trải qua mỗi thời đại, người ta lại phát hiện những ý nghĩa mới, sự tranh
luận không bao giờ cạn
1) Quan điểm phê bình truyền thống:
Cho rằng vở kịch nhấn mạnh tư tưởng về sự phù phiếm của vinh quang và sự
mỏng manh của hạnh phúc đời người. Quan điểm của giới văn học bi quan cho
rằng vở bi kịch này chỉ là sự ý thức về cái phù phiếm của con người. Họ bám
chặt những lời ca của dàn hợp xướng: “ Ôi hỡi con người tội nghiệp ! Thế hệ
này qua thế hệ khác, ta chỉ thấy ở các người một sự hư vô “.
Họ căn cứ vào lời hát kết thúc của dàn đồng ca hợp xướng:” Vinh quang của
thành công như ánh hào quang mặt trời chói lọi nhưng rồi sẽ tắt lịm khi trời đã
về chiều “. Vua Eudipe đã đạt tới tột đỉnh vinh quang hạnh phúc mà phút chốc
tất cả đổ sụp.Eudipe thấm thía nỗi cay đắng của bất hạnh. Số phận con người
như chiếc thuyền lênh đênh trên biển rộng. Con thuyền Eudipe ghé vào thành
Thebes, rồi ghé vào giường hoàng hậu, tưởng rằng đó là nơi yên ổn. Nào ngờ
chính nơi ấy là vực thẳm. Nhiều nhà văn lớn về sau cũng có cách nhìn hiện
thực cuộc sống một cách tỉnh táo như vậy. Con người duy trì và xây dựng cuộc
sống với bao lo toan và nỗ lực nhằm tạo ra những giá trị thực đóng góp cho
cuộc sống. Nỗ lực tìm tòi chân lí, theo nghĩa rộng bao gồm cả cái Đẹp và cái
Thiện.
Dù sao tác phẩm này vẫn có ý thức xây dựng chứ không phải như những tác
phẩm hiện đại theo chủ nghĩa hư vô phù phiếm suy đồi.
Phê phán quan điểm suy đồi:
Những triết gia và thi sĩ suy đồi đời sau đã coi lời hát ấy là tư tưởng chủ đạo
của tác phẩm. Sai lầm của họ là đem tách “một lời hát - một chi tiết"ra khỏi toàn
cảnh mà quên tập trung nghiên cứu tác phẩm như một chỉnh thể, nhất là cần
phải chú ý đến cao trào xung đột. Đấy chỉ là một thói thường của người đời: lẩy
ra một đôi câu văn, câu thơ từ một tác phẩm nào đó để áp dụng cho những
cảnh đời khác theo lối “ tư biện “.
Vở bi kịch “Eudipe làm vua"sẽ không phải là một kiệt tác của nhân loại nếu tư
tưởng chủ đạo của nó là triết lí về sự phù phiếm của vinh quang và hạnh phúc.
2) Quan điểm phê bình hiện đại:
Cho rằng tư tưởng về sự phù phiếm của vinh quang hạnh phúc chỉ là phụ, có
một tư tưởng quan trọng hơn thể hiện trong vở bi kịch - đó là cảm hứng chân lí,
cảm hứng khát khao sự thật. Ấy là chưa kể đến ước mơ của nhân dân về một
minh quân của đất nước. Và bao trùm hơn nữa là triết lí về khả năng của con
người trong việc khám phá thế giới và khám phá ngay bản thân mình.
Ngay ở nước ta, trong những giai đoạn trước đây, văn học chú trọng nêu cao
yêu cầu đấu tranh cho Tự do hơn là yêu cầu Chân lý. Thực ra hai mục tiêu này
gắn bó mật thiết với nhau. Hãy đọc lời tâm sự của nhà văn Maxim Gorki: "Sự
thật là tôn giáo của người tự do, dối trá là tôn giáo của kẻ nô lệ".
Trong vở bi kịch của Sophocle, chủ đề “tìm tòi sự thật"đã được triển khai ngay
từ đầu ở nhân vật chính - Eudipe. Chàng khát khao muốn biết rõ lai lịch của
mình. Nhân vật phụ nhưng rất quan trọng là nhà tiên tri mù Tiretias đã không sợ
sự trừng phạt, dám công bố sự thật phũ phàng.
PHÂN TÍCH HAI NHÂN VẬT TIRETIAS VÀ EUDIPE
Nhân vật Tiretias:
Nhà tiên tri mù lòa có năng lực tiên tri phi thường, hiểu thấu mọi việc đã qua và
thấy trước việc phải đến. Khi được triệu vào cung, ông đã chỉ ra đích danh thủ
phạm giết vua. Nhà vua nổi giận, la thét, đe dọa... ông không hề nao núng và
không chịu cải chính. Ông trả lời “Ta chẳng có gì phải sợ hãi vì ta nuôi trong
mình sức mạnh của chân lí". Ông biết sự thật và tin ở sức mạnh và uy tín của
nó. Lúc đầu ông từ chối trả lời chỉ vì thương xót, tiếc rẻ một nhà vua trẻ phải
đau khổ quá sớm khi nhận ra sự thật phũ phàng của y.. Lúc ấy ông không định
che giấu sự thật mà chỉ vì ông tin rằng sớm muộn sự thật cũng được công bố,
lúc này còn sớm quá, không nỡ lòng... Nhưng khi vua Eudipe nài ép, lại toan đổ
tội cho ông đồng lõa với thủ phạm thì cực chẳng đã ông phải trả lời, mà khi đã
nói thì ông quyết giữ lời, kiên quyết bảo vệ chân lí.
Nhân vật chính Eudipe - nhân vật bi kịch
Điều đẹp đẽ nhất của nhân vật chính Eudipe là thái độ dũng cảm của con người
trước sự thật về chính bản thân mình. Nhưng trước đó, cảm hứng tìm kiếm sự
thật đã phải trải qua những thử thách ghê gớm. Lúc đầu, Eudipe sốt sắng mở
cuộc điều tra với mục đích chân chính cứu dân thành Thebes khỏi tai họa do
thần thánh trừng phạt. Quá trình điều tra khiến anh có thêm khao khát mới - sự
thật về bản thân mình và nỗi sợ hãi phạm tội lỗi cũng phát sinh.
Trong mỗi giai đoạn điều tra, Eudipe đều có thể ngừng lại để xóa tội: Khi nhà
tiên tri nói ra sự thật chưa được chứng minh, Eudipe chỉ nổi giận xỉ mắng nhà
tiên tri chứ không trừng phạt hoặc thủ tiêu ông ta để giấu tội.
Sau khi người chăn cừu nói ra một phần sự thật: Eudipe không phải là con đẻ
của vua xứ Corinte. Aùnh sáng sự thật đã le lói. Eudipe vẫn còn khả năng dập
tắt hẳn. Anh dày vò trăn trở, giằng xé. Chỉ cần vài bước nữa sẽ tới sự thật, một
sự thật khủng khiếp. Anh có dám bước tiếp hay không?. Dàn hợp ca (và khán
giả nữa) lo lắng, hồi hộp theo dõi. Hoàng hậu Jocaste nhạy cảm đã can ngăn
anh thôi không điều tra nữa. Có lẽ bà sợ hãi sự thật.
Eudipe đã quyết định, quyết hành động theo ý muốn da diết, khắc khoải của
mình là tìm ra sự thật. Anh ra lệnh cho gọi lão đầy tớ - nhân chứng của vụ án và
nhân chứng của lai lịch Eudipe buộc phải nói sự thật.
Khi lão đầy tớ ra mặt, Eudipe vẫn còn khả năng ngừng lại. Nhưng không, anh
chỉ chần chừ một thoáng, rồi đi tới. Chi tiết bí ẩn cuối cùng của vụ án bật ra, tâm
hồn Eudipe rơi xuống vực thẳm. Nhưng đây cũng là sự chiến thắng của chính
anh - sự tự nhận thức cao cả đã hoàn thành.
Và đó chính là ý nghĩa lạc quan sâu sắc của vở kịch,. Nhà thơ Sophocle có
cùng quan điểm với triết gia Socrat - “người đưa triết học từ trên rời cao xuống
đất"rằng: “anh hãy tự biết lấy mìnhJ".
Quá trình nhận biết của Eudipe khá gay go. Anh đã sẵn sàng đi tìm bằng được
sự thật nhưng cũng muốn bám lấy một cọng rơm mong manh để giữ lấy thân
mình. Đí là chi tiết lão đầy tớ khai: “một đám cướp đông đúc hung dữ đã giết
vua Laios"đã khiến anh khấp khởi mừng thầm và hi vọng mơ hồ.
Xung đột chính của vở kịch là: anh vừa muốn biết sự thật lại vừa sợ hãi nó Do
vậy anh bị giằng xé, giữa tâm lí trăn trở và tâm lí tráo trở của mình.
Từ đó chúng ta có thể nói - kết quả anh đã giành chiến thắng. Lí tưởng đã thắng
lợi nhưng anh phải tự nguyện trả giá thích đáng ở màn chót.
Chúng ta hãy đánh giá tài năng của Eudipe:
Trước hết, Eudipe có một trí tuệ siêu phàm nên đã giải đáp được câu đố hóc
hiểm của con Sphinx. Đấy là một câu hỏi triết học: hỡi con người, anh là ai?
Nhìn chung anh đã hiểu thế giới, nhưng còn một điều quan trọng thì anh mù tịt -
Eudipe là ai?. Như vậy, anh là kẻ tài giỏi hay ngu dốt?
Thật ra vở kịch trình bày hai loại trí tuệ tương phản nhau. Một là loại trí tuệ giúp
con người hiểu biết thế giới khách quan, khám phá được bí ẩn trong thế giới
bên ngoài khiến anh ta có sức mạnh và quyền lực. Trí tuệ ấy giúp anh giải được
câu đố hóc hiểm của con Sphinx và giành được ngôi vua. Khoa học tự nhiên và
kĩ thuật đem lại cho con người loại trí tuệ này. Hai là loại trí tuệ của sự hiền
minh, là ánh sáng bên trong giúp con người hiểu biết thế giới chủ quan của
chính mình, rồi tiến tới làm chủ bản thân mình.. Kẻ nào không biết thì là kẻ ngu
dốt, biết mà không sống như cái trí tuệ ấy dẫn dắt là kẻ dối mình Văn học nghệ
thuật đem lại cho con người loại trí tuệ này.
Vua Eudipe đã đạt được loại trí tuệ thứ nhất nhưng mù quáng về loại thứ hai -
anh chẳng hiểu gì về bản thân mình. Đó là ngọn nguồn của bi kịch.
Eudipe dẫn tới chủ đề thứ hai: tham vọng quyền lực đến mức mù quáng cũng
gây ra bi kịch. Ngay cái tựa đề vở kịch “ Eudipe - Tiranos “ nghĩa là “Eudipe kẻ
tiếm quyền"hoặc bạo chúa Eudipe cũng đã rõ. Số phận của y là số phận một
bạo chúa. Hãy nghe dàn đồng ca hát rằng:
• Thói kiêu ngạo quá đáng đẻ ra bạo chúa
• Sự kiêu ngạo trong một đầu óc say sưa
• Say quá hóa rồ, sai lầm dại dột
• Nó sẽ leo cao leo lên tót đính
• Để rồi ngã xuống tận vực thẳm sâu.
Tội giết cha là do vô tình ngộ sát, không biết cha là ai. Tội đó không có ý ngĩa
pạm tội để giành quyền lực. Dàn hợp xướng chỉ than vãn về tội loạn luân.
Nhưng nếu bảo loạn luân cũng do vô tình không biết mẹ thì Eudipe vô tội
chăng?
Hành động thắng con nhân sư, theo truyền thuyết, có liên quan đến việc cưới
hoàng hậu. Con nhân sư là giống cái. Eudipe thánh con nhân sư nghĩa là hiểu
biết sự bí mật của nó. Theo quan niệm cổ đại,hôn nhân, ăn nằm với ai nghĩa là
đã “biết người đó". Kinh thánh Ki tô giáo cũng nói “Adam biết Eva và nàng có
mang". Khi con nhân sư biến mất, ấy là lúc nó hỏa thân ẩn mình vào hoàng hậu
Jocaste. Hoàng hậu lại trở thành “ câu đố mới “ thách thức chàng Eudipe. Đến
màn chót, khi Eudipe giải đáp được “câu đố mới"ấy thì hoàng hậu treo cổ - biến
mất.
Hành động cười hoàng hậu có ý nghĩa quan trọng nhất. Có phải là tội loạn luân
như dàn đồng ca than vãn?
Căn cứ vào mê tín và sách giải mộng của nền văn hóa cổ Hi Lạp còn lại: giấc
mộng “ăn nằm với mẹ"được giải thích như sau. Đó là giấc mộng lành đối với
những thủ lĩnh, chính khách. Mẹ có nghĩa là “đất nước"., là nguồn gốc sinh ra
tất cả. Nằm mộng như thế là sắp được làm vua (làm chồng đất nước, hiểu biết
đất nước). Hoàng đế La Mã Caesar từng kể đã nằm mơ cưỡng hiếp mẹ và nhà
tiên tri giải thích: ngài sẽ trở thành hoàng đế.
Eudipe lấy mẹ là bắt đầu nắm quyền cai trị đất nước. Chính hoàng hậu cũng
thản nhiên an ủi Eudipe khi anh nghe lời đồn đạivề mình: “Trên thế gian này có
bao kẻ nằm mộng ăn nằm với mẹ mình".
Hai mẹ con tuổi tác chênh lệch quá xa, không thể cho rằng anh lấy hoàng hậu vì
say đắm dục vọng. Thật ra, đó là vì danh vọng, anh đã hành động chính trị để
giữ chắc ngôi vua mà thôi. Hành động ấy là quan trọng nhất - anh phải chịu
trách nhiệm và tự trừng phạt...
3) Hành động tự trừng phạt của Eudipe:
Tự chọc mù mắt có ý nghĩa gì?
Người Hi Lạp cổ nghĩ rằng con người có hai cặp mắt. Một “cặp mắt thịt"chỉ là
giác quan bên ngoài, nhìn thấy cái biểu kiến của sự vật, có khi nó gây ra nhiễu
cho con mắt tâm linh ở bên trong. Con mắt bên trong mới có khả năng nhìn thấu
sự vật, nắm bắt cái thần của sự vật.. Khi người ta mù mắt, như nhà tiên tri
Tiretias chẳng hạn, thì lại sáng lòng (sáng mắt bên trong). Do vậy nhà tiên tri tuy
mù mà biết sự thật, còn Eudipe sáng mắt lại chẳng biết gì về bản thân mình.
Nhà thơ Homer tác giả hai bộ sử thi vĩ đại bị mù và bắt đầu sáng tác, mặc dù
truyền thuyết kể rằng thấy ông mù lòa, nữ thần thơ ca thương tình bèn nhập
vào ông. Ca sĩ Demodek mù mắt thì bắt đầu hát hay. Cũng theo truyền thuyết,
triết gia Democrite tự chọc mù để nghiên cứu những cái ông chưa hiểu biết
được.
Sự việc Eudipe tự chọc mù mắt góp phần chót xác định chủ đề tư tưởng vở bi
kịch. Phạm tội một cách vô thức có đôi chút do tham vọng nhưng sự trừng phạt
là có ý thức, tự giác cao, bảo vệ công lí. trong phạm vi xã hội, vua Eudipe sụp
đổ thất bại thảm hại. Trong lĩnh vực đấu tranh vươn lên bản chất người, y đã
thắng bản thân và đây là chiến thắng lớn lao. Y quằn quại đau đớn giống như
một cái chết. Y “chết đi" để sống lại - đó là ý nghĩa lạc quan sâu sắc của vở bi
kịch kết thúc vô cùng bi thảm này.
Tư tưởng lạc quan chính là đặc trưng cao nhất của thể loại bi kịch.
Theo thi pháp kịch truyền thống, khi tình thế bi kịch bị phá vỡ thì xảy ra tai biến.
Đó là lúc báo hiệu tột đỉnh sự tiêu vong và tột đỉnh sự thắng lợi của nhân vật bi
kịch. Phần kết thúc ắt phải có đau buồn và phấn khích, có chết đi và sống lại, có
bi thảm và lạc quan. Vở Eudipe làm vua là vở tiêu biểu điển hình của thể loại bi
kịch vậy.
Thật vậy, ta đi ngược về ngọn nguồn bi kịch là số phận thần Rượu nho
Dionisos. Theo nghi lễ tế thần,những cảnh đau khổ của thần “chết đi sống lại"
bao lần.
Tư tưởng “chết đi sống lại" có ý nghĩa nhân sinh sâu sắc như hành động văn
hóa cơ bản nhất của con người: gieo trồng. hạt giống phải chết đi để rồi sống lại
với cây mầm non và ra hoa trái. Đó là khát vọng của loài ngườivề lẽ sống và
ước vọng trường tồn.
Nhân vật hoàng hậu Jocaste cũng phải chịu kết cục bi thảm - khi không ngăn
cản được sự thật, bà thắt cổ tự vẫn. Trước đó, bà cũng đã có sự lớn lên về
nhân cách: bà đã biết sự thật nhưng bà ngăn cản Eudipe để một mình chịu
đựng bi kịch của sự ô nhục. Khi Eudipe đã biết sự thật thì bà lại không chịu
đựng nổi nữa nên tìm cách tự hủy diệt. Tuy vậy bà không phải là nhân vật bi
kịch. Cái chết của bà không có ý nghĩa sâu xa mà chỉ là sự chấm dứt tồn tại -
tức là phi tồn tại.
Cảm hứng chủ đạo của thể bi kịch là khẳng định sự bất tử của con người, bất
tử ngay ở cõi trần gian (tôn giáo chỉ cầu mong bất tử ở thiên đường). Nhân vật
bi kịch có thể chết nhưng giá trị nhân bản chân chính lóe ra, ngời sáng trong sự
phát triển tiếp tục của nhân loại, sẽ đi vào kí ức và kinh nghiệm của nhân dân
bất tử.
Sophocle còn những vở kịch đặc sắc khác như: Antigon, Những người phụ nữ
Trasi, Ajax, Eudipe ở Cologne, Philoctet, Electre.
Euripide (484 - 406) và vở bi kịch “Medee"
Euripide được mệnh danh là " nhà thơ của thời kì dân chủ suy vong", thời kì
bộc lộ bản chất xấu xa của giai cấp thống trị.Những dục vọng nổi lên mãnh liệt ở
mỗi cá nhân và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong xã hội. Nhân vật của
Euripide được gọi là “nhân vật dục vọng" luôn luôn day dứt dằn vặt vì ý đồ
riêng. Họ chẳng còn là những nhân vật siêu phàm như của Eschyle, lí tưởng
như của Sophocle. Bi kịch của Euripide không còn là “trường học của những
tâm hồn cao cả" mà là “phòng giải phẫu những căn bệnh xã hội".
Euripide viết được 90 vở, nay chỉ còn 19. Đặc sắc cách tân của ông là: lần đầu
tiên đưa lên sân khấu sự phân tích tâm lí nhân vật. Ông được gọi là “nhà triết
học trên sân khấu"
“Medee" là một trong những vở bi kịch cảm động nhất, tiêu biểu nhất của thiên
tài Euripide.
Cốt truyện kịch cũng lấy từ truyền thuyết “Zadon sang xứ Consite đoạt bộ lông
cừu vàng"
Nhờ sự giúp đỡ và tình yêu của Medee - công chúa xứ Consite, Zadon lấy được
bộ lông cứu vàng -báu vật quốc gia mang về nộp cho ông chú Creon để đòi lại
ngôi vua Hi Lạp. Medee bỏ đất nước chạy theo người yêu, dắt theo đứa em trai
nhỏ. Trên đường đi, bị quân lính của vua cha truy đuổi, nàng giết em trai để cản
bước những kẻ đuổi theo. Hai người về nộp bộ lông cừu vàng, ông vua chú
tham lam tráo trở yêu câu Zadon phải cưới con gái ông thì mới được nhận ngai
vàng. Zadon yêu Medee nên chối từ. Họ sống hạnh phúc bên nhau, sinh hai
đứa con xinh đẹp. Một ngày kia, Zadon lại muốn giành lấy ngai vàng, liền tỏ ý
muốn cưới công chúa Hi Lạp theo điều kiện của ông vua chú. Medee can ngăn,
ghen tuông, giận dữ. Bị phụ tình, nàng trả thù tàn bạo, khốc liệt. Đầu tiên, nàng
dùng phép thuật giết chết kẻ tình địch (tặng chiếc khăn choàng làm thiêu cháy
cả hai cha con công chúa Hi Lạp). Sau đó, nàng giết hai đứa con rồi bỏ sang xứ
khác.
Đây là vở bi kịch tình yêu vô cùng thảm khốc và đau xót. Nàng lên án Zadon là
kẻ vong ân bội nghĩa. Y ngụy biện khôn khéo để che giấu dục vọng của mình.
Medee là một tính cách phụ nữ mãnh liệt từ đầu đến cuối, từ lúc nảy sinh mối
tình đầu đến phút chót - nàng hóa điên.
Nhân vật chính của tấn bi kịch là Medee. Từ dục vọng tình yêu say đắm thủy
chung rất mực, khi bị phản bội, tâm lí Medee đã chuyển dạng thành dục vọng
ghen tuông và trả thù dữ dội. Nhà thơ trình bày cuộc đấu tranh nội tâm bão táp
của Medee, cuộc giằng co giữa tình mẫu tử và khát vọng trả thù. Trước khi
hành động, nàng còn nói những lời xé lòng: “Các con ơi ! Hãy đưa tay cho mẹ
nắm... Oâi bàn tay thân thương,đôi môi yêu quí và mặt mày tuấn tú của các con
tôi. Ôi làn da của chúng êm dịu biết nhường nào ! Hơi thở của chúng thơm tho
biết bao nhiêu ! Ta không đủ can đảm nhìn con ta nữa. Ta đau đớn quá rồi.
Phải, ta biết việc ta làm là tàn ác, nhưng dục vọng đã thắng ý chí ta rồi". Kết cục
của tất cả các nhân vật đều bi thảm.
Một câu hỏi từng gây tranh luận bao lâu nay: vì sao Medee hành động tàn ác
như vậy mà nhân vật này vẫn được coi là nhân vật bi kịch? Tạm giải thích rằng -
Medee là nhân vật nhân danh phụ nữ mà hành động đòi quyền được yêu
thương và chung thủy. Vở bi kịch còn là một lời răn đáng sợ cho những kẻ bạc
tình.
Euripide còn nhiều tác phẩm về người phụ nữ như: Andromac (vợ Hector),
Helen (nguyên hoàng hậu Akay, chạy theo Paris sang thành Troie), Những
người phụ nữ xứ Phenici, Những người đàn bà cầu xin, Iphigieni ở Olite.Những
người đàn bà thành Troie, Những người con của Heracles...
Sự nghiệp của nhà thơ viết kịch Euripide đã kết thúc nền bi kịch Hi Lạp với
những đóng góp cuối cùng - chân dung con người bình thường nổi lên với
những yêu thương căm giận sục sôi nhất.
(Bài tập: sinh viên thảo luận nhóm: đánh giá nhân vật Medee)
Bài đọc thêm
GIỚI THIỆU VĂN HỌC TRUNG CỔ TÂY ÂU
1 - MỘT NGÀN NĂM ĐÊM TRƯỜNG TRUNG CỔ CHÂU ÂU:
Thời cổ đại chấm dứt năm 146 trước C.N cùng với sự sụp đổ của đế quốc Hi
Lạp. Đất nước Hi Lạp trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã vừa nổi lên. La Mã
tiếp nhận gia tài văn hóa cổ đại của Hi Lạp, dịch thuật sang tiếng La tinh, mô
phỏng sáng tạo bổ sung. Triều đại Constantinope là thời kì toàn thịnh nhất của
đế quốc La Mã. Mhưng đến năm 476, đế quốc La Mã cũng sụp đổ. Các dân tộc
Tây Âu vùng lên xây dựng quốc gia độc lập thoát khỏi ách cai trị bạo lực của đế
quốc La Mã.
Giáo hội La Mã lại tiếp tục đưa Kinh Thánh và Thiên chúa giáo rải ra khắp Tây
Âu để giúp giai cấp thống trị xây dựng chế độ phong kiến.
Nhà thờ trung cổ và giai cấp phong kiến thống trị Tây Âu đã xếp xó kho tàng văn
hóa cổ đại Hi Lạp - La Mã. Các giáo sĩ Thiên chúa giáo giữ độc quyền văn hóa
bằng môn Thần Học(theology). Giáo hội Thiên chúa giáo La Mã trở thành trung
tâm văn hóa quốc tế lớn và có thế lực bao trùm các quốc gia Tây Âu. Họ ra sức
tuyên truyền cho quyền thống trị của giaó hội. (Lời của giáo hoàng Inocant III:
chúng ta được phó sứ mệnh thống trị mọi người và mọi đất nước. Lời thánh
Ogustine: quyền lực của giáo hội cao hơn mọi quyền lực thế tục)...
Giáo điều Thiên chúa giáo trở thành những nguyên lí của chính trị. Sách kinh
thánh có giá trị hiệu lực xét sử mọi hành vi của công dân (các nhà khoa học
Copecnich, Galilleo, Bruno bị kết tội vì phát minh khoa học traí với kinh thánh).
Môn triết học - thực ra là thần học - đươc giảng dạy ở nhà trường, cố gắng
thuyết phục con người rằng chế độ phong kiến là do Thượng đế tạo ra. Ai
chống lại chế độ quân chủ tức là chống lại ý chí của Chúa. Triết học kinh viện
không nghiên cứu giới tự nhiên mà chỉ tìm cách chứng minh lịch sử bi thảm của
con người từ khi "mang tội tổ tông" cho đến lúc chúa Ki Tô (Jesus Christ) xuất
hiện và chỉ còn kéo dài đến "ngày phán xét cuối cùng". Họ khuyên con người tin
vào sự mặc khải (tiếng Anh Pháp mặc khải là: Revelation - nghĩa là sự nhận
biết điều bí mật huyền diệu của Chúa Trời. Cuốn sách cuối cùng của bộ kinh
Tân Ước gọi là sách Khải Huyền. “Mặc khải” chỉ là sự nhận biết qua gợi ý chứ
không dùng lí trí giảng giải được). Bên cạnh đó, giáo hội thuyết phục mọi người
tin tưởng rằng mục đích của cuộc đời là sự cứu rỗi linh hồn. Nói chung, họ
tuyên truyền một thứ nhân sinh quan tối tăm và nghiệt ngã - trần gian là một
thung lũng đầy nước mắt, còn thiên đường là nơi cực lạc vĩnh viễn (trước họ rất
lâu Đạo Phật cũng đã nói vậy!). Ai coi khinh đời trần tục và lạc thú vật chất, chịu
đựng khổ hạnh, hi sinh phần xác để cứu lấy phần hồn thì sẽ được lên thiên
đường; Ngược lại bị đày xuống địa ngục gánh chịu những hình phạt khủng
khiếp.
Tất cả những điều đó trói buộc con người, chà đạp lên quyền sống, quyền tự do
của con người. Mặt khác nó kìm hãm nền văn hóa nghệ thuật và khoa học. Thời
trung cổ đúng là đêm trường ngàn năm, thiếu ánh sáng của văn hóa, kìm hãm
lịch sử phát triển của châu Âu và loài người. Do đó, văn học thời trung cổ không
thể phát triển được, chỉ có một nền văn học hiệp sĩ tiểu thuyết hiệp sĩ ca ngợi
những quí tộc thượng võ trung thành với nhà thờ và vua chúa.
2 - ĐÊM TRƯỚC CỦA PHỤC HƯNG - ĐÊM LE LÓI TRĂNG SAO
Gần cuối thời trung cổ xuất hiện những tiến bộ lớn lao về khoa học kĩ thuật.
Những người trí thức chân chính không thể ngủ yên với Kinh Thánh. Những
dân tộc quật cường trỗi dậy. Văn học nghệ thuật chân chính bắt đầu nhúc
nhích. Nước Pháp lúc ấy được coi là trung tâm của chế độ phong kiến châu Âu.
Miền nam nước Pháp có dân tộc Provence đạt tới trình độ phát triển cao hiếm
có ở châu Âu. Nghệ thuật thi ca của họ được coi như mẫu mực mới cho các
dân tộc latinh (ý kiến nhận xét của Engels).
Sự ra đời các đô thị lớn Âu châu, đặc biệt sự tiếp xúc với phương Đông xa hoa
tráng lệ trong các cuộc "thập tự chinh" đã mở ra cho họ một chân trời tinh thần
"mới" làm thay đổi đời sống quí tộc. Từ chỗ chỉ biết say mê lí tưởng hiệp sĩ
thánh chiến với ngựa và thanh kiếm, họ bắt đầu ưa thích "cầm kì thi họa". Giới
quí tộc bắt đầu sùng bái phụ nữ, thích "mốt" đàm luận văn chương. Phụ nữ trở
thành nhân vật trung tâm, "bà chúa trái tim" của các nhân vật hiệp sĩ quí tộc.
Dòng văn học quí tộc ra đời, tư tưởng chu đạo là ngợi ca tình yêu phong nhã,
sùng bái tình yêu khiến cho con người cao thượng hơn. Văn học này đánh thức
trong con người những ước vọng cao cả,tính hào hiệp ý chí hào hùng và tình
cảm tao nhã.
Chúng ta hãy đọc một tác phẩm xuất sắc trong dòng văn học kị sĩ ấy - Truyện
tình Tristant et Yseult. Vốn là truyện khuyết danh sau được nhà văn Pháp
Bédier biên soạn lại. Thi hào Đức Goeth đã coi đây là "một kiệt tác của thế giới"
(Việt Nam trước đây chuyển thể cải lương gọi là Cánh buồm đen).
Tristant et Yseult là truyện dài viết bằng thơ là một huyền thoại tình yêu. Tristant
là một kị sĩ văn võ song toàn, mồ côi sống với cậu ruột là vua Marc xứ Cornuay.
Anh đi đánh xứ Ieclan, giết được tướng Morhon, phá bỏ lệ cống nạp hàng năm
của xứ sở mình. Bị thương vì mũi tên tẩm thuốc độc vô phương cứu chữa, anh
tự leo lên chiếc thuyền không buồm không lái thả trôi lênh đênh trên mặt biển
mặc cho dòng nước mang đi. Dạt vào bờ biển xứ Ieclan, chàng được công chúa
tóc vàng tên Yseult vốn là thầy thuốc giỏi đã cứu chữa chàng thoát chết. Éo le
thay công chúa Yseult lại là em gái của kẻ thù - tướng Morhon là anh trai
nàng.Nhưng nàng không hề biết chàng là kẻ thù. Sau khi lành vết
thương,Tristant trở về xứ sở.
Bọn gian thần ghen ghét, lo sợ Tristant lên nối ngôi vua nên giục giã vua Marc
cưới vợ. Một con chim nhạn bay qua để rơi một sợi tóc vàng. Vua nhặt lên và
yêu cầu Tristant đi tìm người phụ nữ có sợi tóc ấy về làm hoàng hậu. Chàng lại
lên đường đi tìm. Đến xứ sở Ieclan, thấy dân chúng nơi đây đang bị một con
rồng tàn phá. Vua xứ này hứa gả công chúa cho ai giết được con rồng. Tristant
nhận lời, nhưng sau khi giết được quái vật, chàng bị nhiễm nọc độc ngã ra bất
tỉnh. Một lần nữa công chúa Yseult tóc vàng lại cứu chàng thoát chết. Tình cờ
khi lau chùi thanh kiếm của chàng, nàng đã nhận ra Tristant là kẻ đã giết chết
anh trai nàng. Yseult thét lên:
-Tristant, chính mi là kẻ đã giết người thân của ta. Bây giờ mi đã tới giờ đền tội.
Tristant khôn ngoan đáp lại:
-Vâng tôi đành chịu tội. Bây giờ nàng dư sức giết tôi. Nàng lại có quyền giết tôi
nữa, vì hai lần nàng đã cứu sống tôi.
Yseult kêu lên:
- Trời ơi, những lời chàng nói khiến ta xúc động làm sao !
- Nàng hãy nhìn sợi tóc vàng của nàng được thêu với những sợi chỉ vàng trên
áo chiến bào của ta đây này. Chỉ vàng đã nhợt nhạt sắc màu, còn tóc vàng của
nàng vẫn chưa phai.
Yseult ném thanh kiếm xuống đất, ôm hôn chàng hiệp sĩ anh hùng và si tình.
Nàng đã tha thứ cho chàng. Sau đó, khi chàng ngỏ lời cầu hôn cho ông vua
Marc thì nàng buồn bã thất vọng nhưng rồi cũng nhận lời (!).
Trên chiếc thuyền đưa dâu về xứ sở vua Marc, đi theo hai người còn có một cô
hầu trung thành. Cô mang theo một chai rượu tình do mẹ công chúa chuẩn bị
sẵn cho con gái uống đêm tân hôn - chai rượu thần kì có phép màu làm cho đôi
vợ chồng mãi mãi chung thủy. Tristant và Yseult khát nước quá, họ đã cùng
uống nhầm chai rượu ấy. Thế là họ yêu nhau không thể kìm chế ngay trên
đường về. Về đến triều đình, đám cưới được tổ chức tưng bừng. Đêm tân hôn,
cô nữ tỳ đành phải thay thế cô dâu để che giấu vua Marc. Hai người tiếp tục mối
tình vụng trộm. Về sau bị bại lộ, họ bị dẫn đi hành quyết. Họ chạy trốn vào rừng.
Chàng hối hận, muốn chấm dứt cuộc tình từ đây, Nhà vua đuổi kịp, nhìn thấy họ
nằm ngủ trong căn lều - thanh kiếm sắc đặt giữa hai người. Vua lấy lại thanh
kiếm đã tặng cháu và gỡ chiếc nhẫn cưới trên tay Yseult rồi bỏ đi. Thức dậy,
biết nhà vua đã tha thứ, hai người suy nghĩ mãi rồi quyết định trở lại cung vua.
Tristant chịu án đi đày phương xa. Đến xứ sở Bretani, chàng giúp họ đánh giặc
ngoại xâm, được gả công chúa Yseult tay trắng. Nhưng chàng vẫn không nguôi
nhớ nàng Yseult tóc vàng, Chàng cải trang, giả điên trở lại tìm gặp người yêu
xưa trong cung diện vua Marc-"tôi say vì cái thứ rượu tình ngày xưa ấy, chẳng
thể nào quên được !". Hai người lại đắm chìm trong một tình yêu khó cưỡng lại.
Nhưng rồi chàng lại bỏ đi, đến xứ Bretani sống với Yseult tay trắng. Tham gia
một trận đánh, chàng bị thương nặng. Nhờ người bạn trở về xứ tìm nàng Yseult
tóc vàng đến trị vết thương may ra có hi vọng được cứu sống. Chàng hẹn: khi
trở về nếu có nàng Yseult tóc vàng thì giương sẵn cánh buồm trắng, nếu không
có nàng thì giương cánh buồm đen. Ngày nào chàng cũng nằm trên giường
bệnh và ngóng hỏi Yseult tay trắng cánh buồm màu gì đã cập bến. Vốn đã ghen
tuông với nàng Yseult tóc vàng, lại nghe biết lời dặn dò của chồng, nên khi nhìn
thấy cánh buồm trắng vào bờ, nàng bảo Tristant "cánh buồm đen". Quá tuyệt
vọng đau buồn, Tristant tắt thở. Yseult tóc vàng gặp chàng cũng đau đớn mà tự
sát chết bên người yêu.
Vua Marc chôn cất đôi bạn tình ở hai bên vườn nhà thờ. Đêm đêm, từ bên mộ
Tristant mọc lên một cành lá xanh tươi leo qua nóc nhà thờ, rủ ngọn xuống ngôi
mộ Yseult tóc vàng. Người ta chặt bỏ cành, đến đêm cành lá mới lại mọc nhanh
mạnh hơn trước. Engels gọi đó là "một mối tình mạnh hơn cái chết". Truyện tình
của họ là bản tình ca của giới hiệp sĩ tiến bộ cuối thời trung cổ. Rượu tình chỉ là
biện pháp nghệ thuật tạo ra để tránh dư luận xã hội chỉ trích đôi tình nhân. Cái
cây trường sinh bất tử trong nhà thờ là biểu tượng của tình yêu bất diệt mạnh
mẽ hơn tất cả, vượt qua tất cả. Hình tượng Cái cây đã phê phán quyết liệt nhà
thờ và chế độ phong kiến cản trở tình yêu của con người. Tristant vẫn còn băn
khoăn giữa tình yêu và nghĩa vụ, chỉ có Yseult - nàng tự do vì nàng không hàm
ơn cái xã hội ấy, lúc nào nàng cũng sẵn sàng đến với tình yêu không hề do dự.
Truyện tình hiếm hoi Tristant et Yseult được coi là ngôi sao nhỏ le lói trong đêm
trường trung cổ ngàn năm, là nốt nhạc dạo cho bản đại giao hưởng Phục Hưng
- một phong trào văn hoá, văn học huy hoàng sắp trỗi lên.
MỘT SỐ THÀNH TÍCH CỦA NỀN VĂN MINH THIÊN CHÚA GIÁO
Bên cạnh tác hại ngăn cản sự phát triển của văn hoá khoa học và chống lại chủ
nghĩa nhân văn ở Tây Âu, thiên chúa giáo trung cổ Tây Âu cũng để lại một số
thành tích như:
1.VĂN HỌC: bộ Kinh Thánh và Dòng văn học hiệp sĩ.
2. KIẾN TRÚC VÀ NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH: những ngôi nhà thờ, thánh đường
trung cổ Châu Âu. Những tranh và tượng thánh. Tranh tượng thời Phục Hưng
nối tiếp sáng tạo.
3. ÂM NHẠC nhà thờ, góp phần dẫn đến đỉnh cao âm nhạc bác học Tây Âu, âm
nhạc cổ điển thế kỉ 18 và 19.
4.TẠO RA MỘT SỐ PHONG TỤC TẬP QUÁN có giá trị như lễ hội, đám cưới,
tang ma...
5. KHẲNG ĐỊNH MỘT SỐ NỀN TẢNG ĐẠO ĐỨC TỐT ĐẸP như đề cao tình
chung thuỷ, trung thực, kìm chế dục vọng, sám hối...
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- van_hoc_phuong_tay_1_p1_4739.pdf