1. Đặt vấn đề
Là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người, ngôn ngữ không ngừng lớn mạnh. So với ngữ âm và ngữ pháp thì từ vựng là bộ phận biến đổi nhiều và nhanh nhất bởi vì nó trực tiếp phản ánh đời sống xã hội. Theo Stalin: “ từ vựng của một ngôn ngữ là bộ phận dễ chuyển biến nhất thì nó ở trong tình trạng biến đổi liên miên”. Tuy nhiên, muốn nhận ra những đặc điểm mới sinh ra và phát mới phát triển của trong từ vựng của mỗi ngôn ngữ thì thường phải theo dõi sự phát triển từ vựng của nó trong một thời gian dài. Mấy chục năm so với lịch sử phát triển của một ngôn ngữ chỉ là một quãng ngắn, không đáng kể. Nhưng với tiếng Việt, mấy chục năm gần đây lại là thời kỳ diễn ra những biến đổi toàn diện và sâu sắc của hệ thống từ vựng. Cũng như mọi thứ tiếng khác, trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã tiếp nhận thêm nhiều từ ngữ, nhiều ý nghĩa và cách cấu tạo từ của ngoại ngữ để làm giàu cho từ vựng của mình.
9 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 6177 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt (Môn: Phân tích từ vựng tiếng Việt), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt (Mơn: Phân tích từ vựng tiếng Việt) (2)
1. Đặt vấn đề
Là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người, ngơn ngữ khơng ngừng lớn mạnh. So với ngữ âm và ngữ pháp thì từ vựng là bộ phận biến đổi nhiều và nhanh nhất bởi vì nĩ trực tiếp phản ánh đời sống xã hội. Theo Stalin: “…từ vựng của một ngơn ngữ là bộ phận dễ chuyển biến nhất thì nĩ ở trong tình trạng biến đổi liên miên”. Tuy nhiên, muốn nhận ra những đặc điểm mới sinh ra và phát mới phát triển của trong từ vựng của mỗi ngơn ngữ thì thường phải theo dõi sự phát triển từ vựng của nĩ trong một thời gian dài. Mấy chục năm so với lịch sử phát triển của một ngơn ngữ chỉ là một quãng ngắn, khơng đáng kể. Nhưng với tiếng Việt, mấy chục năm gần đây lại là thời kỳ diễn ra những biến đổi tồn diện và sâu sắc của hệ thống từ vựng. Cũng như mọi thứ tiếng khác, trong quá trình phát triển, tiếng Việt đã tiếp nhận thêm nhiều từ ngữ, nhiều ý nghĩa và cách cấu tạo từ của ngoại ngữ để làm giàu cho từ vựng của mình.
Tù ngoại lai là từ mà tiếng Việt tiếp nhận của các ngơn ngữ cả về nội dung và hình thức. Nguồn tiếp nhận trước hết vẫn phải kể đến tiếng Hán. Từ đầu thế kỷ đến nay, tiếng Việt vẫn chủ yếu tiếp nhận các từ ngữ mới từ tiếng Hán. Nếu tiếp nhận qua con đường sách vở thì những từ gốc Hán này được đọc theo cách đọc Hán-Việt chứ khơng đọc theo cách phát âm của tiếng Hán phổ thơng: cộng hồ, chính trị, đại sứ quán, độc lập,... Nếu tiếp nhận qua con đường khẩu ngữ thì từ ngoại lai lại được đọc theo âm địa phương nào đĩ: ca la thầu, mì chính, quẩy,…
Sau tiếng Hán, một số ngơn ngữ Ấn –Âu mà trước hết là tiếng Pháp là những nguồn quan trọng cung cấp từ ngữ mới cho tiếng Việt: cà rốt, ghi đơng, may ơ,…Cũng cĩ những từ tiếng Việt tiếp nhận từ các ngơn ngữ của các dân tộc ít người ở Việt Nam nhưng số này khơng nhiều: buơn, bản, phai,..
Do đĩ, căn cứ vào nguồn gốc của các từ, người ta chia từ vựng thành hai lớp: từ bản ngữ và từ ngoại lai. Hai khái niệm này cần được xác định một cách biện chứng và lịch sử.
2. Phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai
Bất kì ngơn ngữ nào, trong quá trình hình thành và phát triển của mình cũng thu hút nhiều yếu tố của các ngơn ngữ khác, do đĩ cĩ nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ của các ngơn ngữ khác. Tiếng Việt hiện đại của chúng ta ngày nay chứa đựng nhiều từ ngữ giống hoặc tương tự với các từ ngữ trong nhiều thứ tiếng khác như: tiếng Mường, tiếng Thái, tiếng Tày-Nùng, tiếng Bana, tiếng Gialai, tiếng Êđê, tiếng Khmer, tiếng Hán, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Anh... Nếu khơng nhìn nhận vấn đề một cách biện chứng và lịch sử thì rất khĩ xác định đâu là từ bản ngữ, đâu là từ ngoại lai. Cĩ người cho rằng chỉ cĩ thể gọi một cách hợp lí từ ngoại lai trong một ngơn ngữ nhất định là những yếu tố đã thâm nhập sau cái thời kì ít nhiều chính xác đánh dấu một cách quy ước giai đoạn đầu của ngơn ngữ ấy. Trong thực tế, vấn đề xác định thời gian hình thành của một ngơn ngữ dân tộc nào đĩ là rất phức tạp và khơng phải bao giờ cũng cho một câu trả lời chắc chắn. Vì vậy, chúng ta vẫn vấp phải cái khĩ khăn trong khi phân biệt từ bản ngữ và từ ngoại lai. Nội dung của hai khái niệm này chỉ cĩ thể xác định một cách tương đối chắc chắn nếu xét chúng trong những giai đoạn lịch sử cụ thể nhất định.
Các giai đoạn phát triển của một ngơn ngữ kế tiếp lẫn nhau, mỗi giai đoạn bao gồm những yếu tố thuộc ba loại:
- Những yếu tố cũ từ giai đoạn trước để lại.
- Những yếu tố mới du nhập vào từ các ngơn ngữ khác trong giai đoạn ấy.
- Những sản phẩm mới được cấu tạo trên cơ sở những yếu tố cũ và những yếu tố mới du nhập vào.
Xét trong giai đoạn ấy, những từ thuộc loại một và loại ba cĩ thể được coi từ bản ngữ, cịn những từ thuộc loại hai là những từ ngoại lai. Tuy nhiên, khái niệm từ ngoại lai và từ bản ngữ được quan niệm một cách biện chứng. Chúng cĩ mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Những từ ngoại lai trong giai đoạn này cĩ thể trở thành từ bản ngữ trong giai đoạn tiếp theo.
Cách xác định từ bản ngữ và từ ngoại lai căn cứ vào nguồn gốc địi hỏi phải biết từ nguyên của các từ. Cơng việc này khơng phải bao giờ cũng thực hiện được dễ dàng. Trong việc sử dụng ngơn ngữ, chỉ những khác biệt phản ánh tình trạng hiện thời của ngơn ngữ là quan trọng. Vì vậy, từ bản ngữ và từ ngoại lai cịn được xác định về phương diện đồng đại thuần tuý. Một số nhà nghiên cứu đã đưa ra các khái niệm từ bản ngữ đồng đại và từ ngoại lai đồng đại.
Từ ngoại lai đồng đại là từ cĩ những nét khơng nhập hệ vào cấu trúc đương thời của tiếng Việt. Từ ngoại lai đồng đại cĩ thể là những từ ngoại lai cịn giữ những đặc trưng của ngoại ngữ khiến cho chúng khác với các từ bản ngữ đồng đại. Trong tiếng Việt thì đĩ là những từ như:
- Những từ phiên âm nhưng viết liền như: cácbon, amin, amoniac, ampe...
- Những từ phiên âm nhưng viết rời như: a-xít, a-mi-la-da, a-ni-lin, a-nơ-phen, a-pa-tít, a-xê-ti-len...
- Những đơn vị cĩ cách kết hợp âm vị bất thường như: pa-tê, nỗn xào, xoong, séc, loong toong...
- Những từ Hán Việt khơng hoạt động tự do như: sơn, thuỷ, gia, quốc, hải...
- Tổ hợp các từ Hán Việt khơng hoạt động tự do như: ba đào, giai nhân, tham quan, sở dĩ, phạm trù, tiền phong...
- Những từ khơng phải tiếp thu của ngoại ngữ nào nhưng lại cĩ những nét làm cho nĩ khác hẳn các từ khác và được xử lí một cách khác cũng là từ ngoại lai đồng đại. Thí dụ: leeng keeng, loong coong, bù nhìn, mồ hĩng, mồ hơi, lê ki ma, chơơc...
Từ bản ngữ đồng đại trong tiếng Việt là những từ mà xét về cấu trúc ngữ âm cũng như hình thái học hồn tồn nằm trong cấu trúc đương thời của tiếng Việt mặc dù xét về phương diện lịch đại đĩ cĩ thể là những từ cĩ nguồn gốc ngoại lai:
- Những từ mượn tiếng Hán cổ, những từ Hán Việt đã Việt hố về ngữ âm và những từ tiếp nhận từ các ngơn ngữ Ấn-Âu nhưng cĩ dạng ngữ âm trùng với âm tiết: xăng, bì, lốp, gần, đầu, thần, ngọc, bia, phin, phớt...
- Những từ Hán Việt đã cĩ khả năng hoạt động tự do như tất cả các từ thuần Việt khác: ơng, bà, tài, đức, thọ, học, thanh, hiếm, trí, phơ, chúc thọ, chức tước, ơng bà, nguy hiểm, sự vật, trí não, học tập, thành phố...
3. Từ ngoại lai
Trong lớp từ ngoại lai cịn cĩ thể chia thành các loại sau:
3.1. Căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm
Trong tiếng Việt, nếu căn cứ vào mối liên hệ với sự vật và khái niệm, cĩ thể chia từ ngoại lai thành hai loại:
-Những từ ngoại lai biểu thị những sự vật và khái niệm mới xuất hiện, trong bản ngữ chưa cĩ từ biểu thị như: xơ viết, cơng xơ mơn, đồng chí, hợp tác xã, may ơ, xà phịng,…
-Những từ biểu thị những sự vật và khái niệm đã cĩ từ trước trong bản ngữ đã cĩ từ biểu thị rồi. Trong trường hợp này, từ ngoại lai đồng nghĩa với từ bản ngữ. Tiếng Việt tiếp nhận từ ngữ tiếng Hán một cách hệ thống, vì vậy cĩ hàng loạt từ gốc Hán đồng nghĩa với các từ thuần Việt như: thiên – trời, địa – đất, cử – cất, tồn – cịn, tử – con, tơn – cháu...
3.2. Căn cứ vào thành phần ngoại lai.
Nếu xét về thành phần ngoại lai, cĩ thể chia từ ngoại lai thành từ phiên âm và từ sao phỏng.
3.2.1. Từ phiên âm
Là từ tiếp nhận cả hình thức lẫn nội dung của từ của ngơn ngữ khác. Hình thức ngữ âm của các từ của ngoại ngữ cĩ thể thay đổi ít nhiều cho phù hợp với quy luật ngữ âm của bản ngữ. Ví dụ:
Pháp
Việt
glạeul
layơn, dơn
planton
loong toong
fromage
pho mát
cravate
ca la vát, ca ra vát, ca vát,...
3.2.2. Từ sao phỏng
Là những từ tiếp nhận một mặt nào đĩ của từ của ngơn ngữ khác. Từ sao phỏng cĩ hai loại: sao phỏng cấu tạo từ và sao phỏng ngữ nghĩa.
Sao phỏng cấu tạo từ là trường hợp dùng chất liệu của bản ngữ để cấu tạo một từ nào đĩ dựa theo mẫu về kết cấu của các từ tương ứng trong ngơn ngữ khác. Thực chất của loại này là dịch từng yếu tố cĩ tính chất hình thái học của các từ của ngơn ngữ khác. Như vậy, nĩ chỉ tiếp nhận mẫu cấu tạo từ trong ngơn ngữ khác mà thơi. Ví dụ: từ tiếng Nga подразделение là sao phỏng cấu tạo từ của từ tiếng Pháp subdivision (sự chia nhỏ). Nĩ được thực hiện bằng cách dịch tiền tố sub- bằng tiền tố под-, chính tố -divis- bằng -раздел- và hậu tố -ion bằng -ение. Trong tiếng Việt, các đơn vị từ vựng như chắn bùn, chắn xích, chiến tranh lạnh... cũng là sao phỏng cấu tạo từ của các đơn vị tương ứng trong tiếng Pháp là garde boue, garde chain, guerre froide... Ngồi hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ hồn tồn như những thí dụ trên, cịn cĩ hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ khơng hồn tồn. Những từ sao phỏng kiểu này một phần là dịch các yếu tố tương đương của ngoại ngữ, phần cịn lại là tiếp nhận nguyên si của ngơn ngữ đĩ. Chẳng hạn từ идолослвужение của tiếng Nga bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là từ eidololatreia (sự thờ thần tượng), trong đĩ, chính tố идоло- được tiếp nhận, cịn chính tố latr- và phụ tố -eia được dịch ra tiếng Nga là служ- và -ение.
Từ телевидение (vơ tuyến truyền hình) bắt nguồn từ từ televisia trong đĩ chính tố теле- cĩ nguồn gốc Hi Lạp, cịn chính tố -vis- và phụ tố -ia (gốc Latin) được dịch ra tiếng Na là -вид- và -ение.
Sao phỏng ngữ nghĩa là hiện tượng các từ tiếp nhận thêm ý nghĩa của các từ tương ứng trong ngơn ngữ khác. Cơ sở để từ này cĩ thể tiếp thu thêm ý nghĩa của từ tương ứng trong ngơn ngữ khác là ý nghĩa định danh trực tiếp của chúng phải giống nhau. Từ này chỉ tiếp nhận thêm ý nghĩa bĩng vốn chỉ cĩ ở từ kia. Ví dụ: Từ tiếng Nga трогать cĩ thêm ý nghĩa "gây xúc động" là nhờ sao phỏng ý nghĩa của từ toucher trong tiếng Pháp. Cơ sở của sự sao phỏng này là cả hai từ đều cĩ ý nghĩa trực tiếp là "sờ mĩ". Ý nghĩa "tầm thường, vơ vị" của từ плоскиы cũng là do sao phỏng ý nghĩa của từ tiếng Pháp plat mà cĩ. Cả hai từ này đều cĩ ý nghĩa trực tiếp là "bằng phẳng". Từ ngựa trong tiếng Việt và từ cheval trong tiếng Pháp cùng chỉ một lồi động vật, nhưng từ cheval cịn chỉ một đơn vị sức kéo, do đĩ, từ ngựa đã cĩ thêm cả ý nghĩa này. Nếu hiện tượng sao phỏng cấu tạo từ dẫn đến sự xuất hiện trong ngơn ngữ những từ mới thì hiện tượng sao phỏng ngữ nghĩa chỉ dẫn đến sự xuất hiện những từ đồng âm hoặc những ý nghĩa mới của từ đã cĩ.
Hiện tượng tiếp nhận từ ngữ của ngơn ngữ khác khơng diễn ra một cách đơn giản mà các từ ngữ ngoại lai phải chịu sự biến đổi theo quy luật phát triển của tiếng Việt. Nĩi chung, quá trình đồng hố các từ ngoại lai diễn ra trên cả ba mặt ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp. Mỗi ngơn ngữ cĩ hệ thống ngữ âm riêng. Khi một từ chuyển từ ngơn ngữ khác sang tiếng Việt phải cĩ sự biến đổi diện mạo của mình cho phù hợp với hệ thống ngữ âm của ngơn ngữ chủ thể. Chẳng hạn, các từ tiếng Pháp gare, poste, gramme sang tiếng Việt đã đổi thành ga, bốt, gam. Khi đã tồn tại với tư cách là một thành viên của tiếng Việt, từ ngoại lai lại chịu sự biến đổi theo quy luật riêng của tiếng Việt. Từ ngoại lai và từ gốc mà nĩ xuất thân cĩ thể phát triển theo những hướng hồn tồn khác nhau.
Ví dụ: Vào thời kì của tiếng Hán cổ, cả tiếng Việt và tiếng Hán đều cĩ phụ âm vơ thanh. Từ can của tiếng Hán cổ khi chuyển sang tiếng Việt vẫn giữ nguyên diện mạo như vậy. Nhưng sau đĩ, các từ trong tiếng Hán biến đổi theo quy luật vơ thanh hố, cịn các từ trong tiếng Việt lại biến đổi theo quy luật hữu thanh hố. Do đĩ, từ can trong tiếng Hán hiện đại vẫn đọc như vậy, cịn trong tiếng Việt, can đã đổi thành gan.
Ở bình diện ngữ nghĩa, quá trình đồng hố cũng diễn ra tương tự như vậy. Khi tiếp nhận, tiếng Việt cĩ thể thể khơng tiếp nhận tất cả các ý nghĩa của từ trong ngơn ngữ khác.
Thí dụ: từ balle trong tiếng Pháp cĩ các nghĩa: 1) quả bĩng, 2) đầu đạn, nhưng tiếng Việt chỉ tiếp nhận từ này với ý nghĩa thứ nhất mà thơi. Do mối quan hệ với các từ bản ngữ, ý nghĩa của các từ hồng, hồng, thanh trong tiếng Hán cĩ ý nghĩa tương tự như các từ đỏ, vàng, xanh của tiếng Việt. Khi du nhập vào tiếng Việt, các từ này cũng được dùng để biểu thị những màu ấy nhưng ở sắc độ nhạt hơn.
Về mặt ngữ pháp, các từ ngoại lai cũng được đồng hố theo tiếng Việt. Tiếng Việt là ngơn ngữ khơng biến hình, hiện tượng chuyển loại xảy ra rất dễ dàng. Nhiều từ tiếng Việt tiếp nhận của tiếng Pháp cũng tuân theo quy luật đĩ: double, blue là tính từ, vào tiếng Việt đúp, lơ cĩ thể làm động từ. Nhiều cụm từ tiếng Pháp khi vào tiếng Việt đã được nhận thức như một từ, thí dụ: à la xơ (à l’assaut), phú la căng (foutre le camp – "cuốn xéo"), cập bà lời (t’as pas k’eoil) v.v...
4. Kết luận
Từ ngoại lai chiếm một số lượng lớn trong vốn từ vựng tiếng Việt nên đây là một trong những vẫn đề được quan tâm nhiều nhất của từ vựng học tiếng Việt. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển của mình, khơnng chỉ tiếng Việt mà ngơn ngữ nào cũng cĩ sự tiếp thu các yếu tố từ ngơn ngữ khác. Do đĩ, vấn đề về từ ngoại lai đã được phân tích ở trên khơng phải chỉ dành riêng cho tiếng Việt. Đây là vấn đề cĩ tính khái quát cao, được các nhà nghiên cứu áp dụng với các ngơn ngữ nĩi chung .
Những từ ngoại lai cĩ xu hướng bị đồng hố trong quá trình phát triển của bản ngữ. Một từ ngoại lai, nếu khơng bị thay thế, thì cịn trải qua một quá trình chịu những tác động của người bản ngữ mới cĩ vị trí vững vàng. Quá trình ấy là sự đồng hố từ ngoại lai. Nĩi chung, nĩ biểu thị mặt tích cực, sáng tạo, của người bản ngữ đối với từ mượn để nhằm tạo nên tính chất thuần nhất trong bản ngữ. Trong tiếng Việt, sự đồng hố thể hiện ở các hiện tượng đồng hố về ngữ âm, đồng hố về ngữ pháp, đồng hố về ngữ nghĩa, đồng hố về chính tả,... Một từ ngoại lai khi mới được chấp nhận thì chỉ cĩ một nghĩa và cĩ thể giữ mãi cái nghĩa đĩ, thường là trong trường hợp thuật ngữ. Nhưng ngồi trường hợp ấy, nĩ cĩ thể biến đổi nghĩa, sự biến đổi nghĩa cũng là một hình thái đồng hố của từ ngoại lai, mà lại ở mức độ sâu sắc, tế nhị.
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thiện Giáp-Từ và nhận diện từ tiếng Việt-Nxb Giáo dục,1996
2. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên)- Dẫn luận ngơn ngữ học- Nxb Giáo dục,1998
3. Nguyễn Thiện Giáp-Từ vựng học tiếng Việt-Nxb Giáo dục,2003
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vấn đề từ ngoại lai trong tiếng Việt (Môn- Phân tích từ vựng tiếng Việt).doc