The distinguishing difference of the University of Education (UE) with other universities (Us) is
pedagogical training activities (PTA) for students (Ss). Through this activity, students’ capacity is
formed and trained regularly. Students are equipped with necessary teaching and educational skills
prior to pedagogical practice at high schools. This contributes significantly to narrow the gap
"apprentice" of fresh young teachers just graduated, to help them quickly become familiar,
integrated and can fulfill well the teaching and educational task in order to meet the professional
standards of teachers of the high school.
Through factuality of pedagogical professional training in past years, the University of Education
of Thai Nguyen University has determined that improvement the quality and effectiveness of this
work is a routine task and innovated step by step to enhance the teaching skills for students. But in
fact, there are still many shortcomings. In this article, I present the current status and solutions for
pedagogical professional training at the University of Education of Thai Nguyen University in the
trend of integration and globalization.
6 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 422 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tại trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên - thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
99
VẤN ĐỀ RÈN LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
- ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Nguyễn Mậu Đức1*, Đào Việt Hùng2
1Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên
2Trường Đại học Nông lâm – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Điểm khác biệt với Trường Đại học sư phạm (ĐHSP ) với các trường Đại học (ĐH) khác là hoạt
động đào tạo nghiệp vụ sư phạm ( NVSP ) cho sinh viên ( SV) . Thông qua hoạt động này, năng
lực sư phạm SV được hình thành và được rèn luyện thường xuyên. SV được trang bị các kỹ năng
dạy học, kỹ năng giáo dục cần thiết trước khi xuống trường phổ thông thực tập sư phạm; góp phần
quan trọng rút ngắn khoảng cách "tập sự" của giáo viên trẻ mới ra trường, giúp họ nhanh chóng
làm quen, hòa nhập và có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ dạy học – giáo dục, đáp ứng chuẩn nghề
nghiệp giáo viên phổ thông trung học.
Qua thực tế đào tạo NVSP trong những năm qua, trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên đã xác định
việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác này là nhiệm vụ thường xuyên và cải tiến từng
bước để nâng cao tay nghề cho sinh viên. Song trên thực tế vẫn còn có nhiều bất cập. Trong bài
viết này tôi xin trình bày thực trạng và giải pháp đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở trường ĐHSP – ĐH
Thái Nguyên hiện nay trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa.
Từ khóa: Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, Đại học Sư phạm, thực trạng, giải pháp, kỹ năng sư phạm.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ THỰC TRẠNG RÈN
LUYỆN NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM TẠI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC
THÁI NGUYÊN*
Về chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo NVSP đã được thực
hiện nhiều năm nhưng chủ yếu chỉ mới dừng
lại ở việc hình thành các kỹ năng sơ đẳng như
cách trình bày vấn đề, viết, vẽ bảng, diễn giải,
gợi mở vấn đề bằng hệ thống câu hỏi, xử lý
tình huống sư phạm vv... Do đó, chương trình
này tỏ ra không phù hợp trước những biến đổi
của khoa học, kỹ thuật, thông tin và công
nghệ. Trong khi đó các kỹ năng như làm việc
với sách giáo khoa, kỹ năng sử dụng các thiết
bị dạy học, kỹ năng tổ chức các hoạt động
giáo dục, kỹ năng giao tiếp, hội nhập, kỹ năng
gắn nghiên cứu khoa học với đào tạo, gắn lý
thuyết với thực tiễn địa phương, kỹ năng định
hướng, kế hoạch hóa, kiểm tra, tự kiểm tra,
đánh giá, tự đánh giá vv... chưa được chú trọng.
Trường sư phạm đào tạo sinh viên trở thành
người giáo viên, nên sự kết hợp giữa các môn
chuyên ngành và đào tạo nghiệp vụ là cần
thiết. Tuy nhiên việc kết hợp này chưa được
rõ nét, vì chỉ lập danh sách các môn học cần
*
Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
thiết cho giáo sinh học chưa đủ để tạo tính
liên kết giữa các môn học. Chương trình đào
tạo do đó bao gồm những môn học "đứng
cạnh nhau", giảng viên chỉ phụ trách môn
được giao phó, chưa có sự phối hợp nhịp
nhàng trong đào tạo giữa các giảng viên giảng
dạy các môn khác nhau, cách thức tổ chức
đào tạo chưa tạo điều kiện thuận lợi để sinh
viên xây dựng kỹ năng nghiệp vụ.
Hoạt động tổ chức học và hiệu quả của các
học phần Tâm lí học và Giáo dục học
Hai môn học này làm nên đặc trưng nghề
nghiệp của trường ĐHSP. Xét về mặt lý
thuyết, nó có vai trò hết sức quan trọng trong
việc hình thành và phát triển năng lực nghề
cho SV. Môn Giáo dục học trang bị cho SV
năng lực dạy học, giáo dục, tổ chức và quản
lý. Môn Tâm lý học giúp SV hiểu và nắm
được đặc điểm tâm lý lứa tuổi của học sinh
phổ thông, các giá trị tâm lý, Nếu tổ chức
dạy học tốt, hai môn học này sẽ góp phần
đáng kể trong việc rèn luyện cho SV sư phạm
các năng lực nghề cần thiết, đủ tự tin xuống
trường PT thực tập sư phạm, là hành trang
cần thiết để hành nghề day học sau khi tốt
nghiệp ra trường. Tuy nhiên, do thiếu yếu tố cả
khách quan và chủ quan, hiệu quả của môn học
này thực tế còn chưa được như mong muốn.
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
100
Trong đợt điều tra khảo sát SV thực tập sư
phạm đợt 2 tại các trường PT ở Thái Nguyên,
Hòa Bình, Tuyên Quang năm học 2010 –
2011, kết quả phỏng vần như sau:
- Hầu hết SV cho rằng các môn học tâm lý
học, giáo dục học chưa giúp được SV các
kiến thức, kỹ năng trong dạy học và giáo dục.
Một số SV cho rằng nên giảm thời lượng học
hai môn này. Hỏi về nguyên nhân, SV trả lời
đó là do các môn học này được tổ chức học
trước đó khá lâu nên SV quên gần hết. Hơn
nữa chương trình học thiên về lý thuyết hàn
lâm, các kiến thức xa rời thực tế dạy học nên
khó nhớ. Mặt khác, thiếu các ví dụ cụ thể gần
với thực tế dạy học ở trường PT, tính thực
hành chưa được chú trọng. SV khi học hai
học phần này chỉ cốt để lấy điểm cho '' đẹp "
hồ sơ, còn tính ứng dụng, thực hành của môn
học phục vụ cho nghề nghiệp tương lai không
được chú ý.
- Trong số 60 SV năm thứ 4 năm học 2011 –
2012 được tập trung để phỏng vấn và điều tra
bằng phiếu hỏi, kết quả cũng không khả quan
hơn. Với câu hỏi trắc nghiệp: Bạn nhận xét gì
về hiệu quả của hai môn học Tâm lí học và
Giáo dục học trong rèn luyện nghiệp vụ sư
phạm thường xuyên, có 40/60 SV cho rằng
hai môn học này có hiệu quả ở mức bình
thường; 20/50 SV cho rằng không hiệu quả.
Không có SV nào khẳng định tính hiệu quả
của môn học đem lại. Khi được phỏng vấn,
nhiều SV cho biết khi học hai học phần này,
các em không có ý thức rèn luyện nghề mà
đơn giản chỉ là cố học để thi lấy điểm cao.
Với quan niệm như vậy, cộng với cách dạy
của giảng viên (chắc chắn chưa tạo ra sự đổi
mới về phương pháp), việc SV không chịu
"nhập tâm", không chịu nhớ "nằm lòng" các
tình huống thực hành của hai môn học này
cũng là điều dễ hiểu.
Học phần Lí luận dạy học bộ môn.
Với học phần này, khi được phỏng vấn, đa số
SV cho rằng việc trang bị kiến thức về lí luận
dạy học của môn chuyên ngành là khá tốt.
Tuy nhiên, việc triển khai các phương pháp
dạy học cụ thể chỉ dừng ở lý thuyết, thiếu tính
thực hành. Và đây là nguyên nhân chính dẫn
đến tình trạng SV xuống trường PT thực tập
còn bộc lộ nhiều sự non nớt, hạn chế cả về
các kỹ năng dạy học, giáo dục, cả về kỹ năng
sống, kinh nghiệm giao tiếp với các đối tượng
HS, GV, phụ huynh, các tổ chức trong và
ngoài trường.
Đa phần giảng viên bộ môn phương pháp dạy
học khi được phỏng vấn đều "tự nhận" rằng
khi triển khai tổ chức dạy học cho SV đều
hoàn toàn dựa vào kinh nghiệm riêng của mỗi
người. Và vì quỹ thời gian quá ít, SV lại quá
đông nên việc cho các em luyện tập thực hành
còn hạn chế. Hơn nữa, không phải SV nào
cũng ý thức được tầm quan trọng của việc "
học nghề" từ trong trường sư phạm. Hoạt
động tự học, tự rèn luyện các kỹ năng học
giáo dục đối với SV còn nhiều hạn chế.
Hội thi nghiệp vụ sư phạm
Đây là hoạt động thường niên của trường.
Hàng năm vào dịp 20/11, nhà trường tổ chức
hội thi rèn luyện NVSP giỏi giữa các khoa.
Các nội dung thi:
- Đồ dùng dạy học tự làm.
- Thiết kế một hoạt động ngoại khóa cho
học sinh.
- Thi dạy trên lớp.
- Sân khấu hóa:
+ Màn chào hỏi
+ Màn giải quyết tình huống SP
+ Hiểu biết kiến thức SP
Có thể thấy, nội dung thi NVSP cấp trường đã
có mặt cả kỹ năng dạy học và kỹ năng giáo
dục. Thực tế các cuộc tranh tài giữa các Khoa
đã làm nên những mùa thi sôi nổi, làm khuấy
động nên không khí NVSP trong toàn trường
dù chỉ trong thời gian ngắn. Nhược điểm dễ
nhận thấy là nội dung thi tuy có đủ cả dạy học
và giáo dục nhưng vẫn còn hết sức nghèo nàn.
Và dù không khí NVSP có được khuấy động
thì cũng vẫn chỉ dừng ở mức cuộc thi. Tác
dụng lâu dài cho mỗi SV trong quá trình rèn
luyện NVSP là không có. Hơn nữa, vì là cuộc
thi nên số lượng SV tham gia rất ít. Và những
SV được chọn lên sân khấu đã là những SV
ưu tú, năng động và đã tích lũy được ít nhiều
kinh nghiệm cũng như những kỹ năng SP.
Còn số đông SV, việc một đôi lần lên bục giảng
dạy thử trước cả nhóm, cả lớp là điều ít thấy.
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
101
Vấn đề kết hợp giữa lý thuyết và thực hành:
Thời điểm học lý thuyết (cả về môn chuyên
ngành lẫn môn nghiệp vụ) và thời điểm thực
tập không trùng nhau, có khi hai thời điểm
cách rất xa nhau khiến sinh viên lúng túng.
Các học phần về PPDH bộ môn tuy đã cố
gắng trang bị cho SV nắm vững hệ thống các
phương pháp DH và cập nhật những vấn đề
đổi mới về phương pháp giảng dạy ở phổ
thông, song vẫn còn khoảng cách khá xa giữa
lí thuyết và thực tiễn, giữa đào tạo ở trường
sư phạm với thực tế giảng dạy ở nhà trường.
Nhiều SV khi thực tập SP rất ngỡ ngàng, lúng
túng trước những yêu cầu của GV hướng dẫn
dưới phổ thông (như cách lập kế hoạch dạy
học, thiết kế giáo án; trình bày bài giảng, sử
dụng các phương tiện, đồ dùng trực quan, tổ
chức các hoạt động DH-GD ngoài giờ lên
lớp).
Thời gian đi xuống trường phổ thông thực tập
làm quen là quá ít. Mãi đến năm thứ 3 sinh
viên mới xuống trường phổ thông thực tập sư
phạm với 2 tín chỉ để dự giờ, tham gia
công tác chủ nhiệm lớp, dự các hoạt động
giáo dụcSinh viên không được tham gia
giảng dạy.
Ngoài đợt thực tập hầu như không có liên lạc
giữa các khoa và giáo viên phổ thông, cho
nên không có điều kiện thường xuyên cập
nhật kiến thức của người giáo viên phổ thông
để việc thực tập được phối hợp nhịp nhàng.
Từ thực tế này, cần xem xét và điều chỉnh nội
dung đào tạo cho phù hợp và hiệu quả theo
hướng: giảm bớt lý thuyết, tăng cường thực
hành theo hướng ứng dụng gắn kết với thực
tiễn phổ thông, chú trọng rèn luyện các kỹ
năng dạy học-giáo dục cho SV, đặc biệt là kỹ
năng ứng xử, giao tiếp. Đây là điểm yếu nhất
mà SV thấy cần phải bổ sung và tăng cường
trong công tác rèn luyện NVSP.
Khả năng tự đào tạo nghiệp vụ sư phạm
của sinh viên
Về tự đào tạo NVSP của sinh viên hầu như
còn thụ động, chưa sáng tạo trong việc tiếp
thu những kiến thức NVSP, thiếu kỹ năng sử
dụng các phương tiện dạy - học, kỹ năng quan
sát, kỹ năng biểu đạt ngôn ngữ, nhút nhát
trong khi giao tiếp trước tập thể.
Chúng tôi phỏng vấn và điều tra các sinh viên
năm cuối đi thực tập, kỹ năng sử dụng
phương tiện dạy học và ứng dụng công nghệ
thông tin vào dạy học là còn rất yếu. Ví dụ
như việc soạn thảo văn bản word đúng quy
định, đánh máy các công thức toán lí hóa, sử
dụng phần mềm chuyên ngành đơn giản để vẽ
hình, đồ thị, bảng biểuCó đến 70% trả lời
hầu như không biết sử dụng, kỹ năng soạn
giáo án điện tử rất kém. Ngoại trừ một số bạn
làm đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận
tốt nghiệp.
Rèn luyện NVSP thông qua các giảng viên
dạy các môn chuyên ngành
Với hoạt động này, nhà trường không có văn
bản chỉ đạo cụ thể các giảng viên chuyên
ngành ở các Khoa phải làm như thế nào, cụ
thể hóa tiết dạy ra sao để gián tiếp hướng dẫn
SV cách dạy, cách xử lý tình huống. Chính vì
vậy, giảng viên cũng không cho đó là nhiệm
vụ của mình, ai có thế mạnh cũng như điểm
yếu nào cứ " tự nhiên" thể hiện. Đa số các
giảng viên cho rằng việc rèn luyện NVSP là
của tổ phương pháp giảng dạy chứ không phải
là của các bộ môn chuyên ngành của mình.
Nhiều giảng viên vẫn lên lớp với những cách
dạy truyền thống không biết đến phương tiện
dạy học hiện đại, không quan tâm đến SV tiếp
thu nội dung bài giảng ra sao, phản ứng của
SV thế nào. Thậm chí, kể cả giảng viên bộ
môn Phương pháp dạy học cũng không phải
ai cũng có ý thức và năng lực để triển khai, cách
dạy đổi mới: lấy người học làm trung tâm.
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG RÈN LUYỆN NVSP
Giáo dục ý thức, định hướng nghề nghiệp
cho SV ngay từ năm thứ nhất
Khi đăng ký vào trường ĐHSP, SV phải ý
thức được rằng họ cần học tập, rèn luyện để
trở thành những giáo viên THPT trong tương
lai. Bởi vậy, bản thân họ phải nhận thức được
đầy đủ ý nghĩa và tầm quan trọng của công
tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm trong quá trình
học tập . Vì vậy, họ cần phải chủ động, tự
giác, tự học và tham gia các hoạt động về
nghiệp vụ sư phạm. Việc định hướng cho SV
hiểu về nghề dạy học và hiểu rõ nội dung,
chương trình mà bản thân mình phải rèn luyện
để trở thành những giáo viên có năng lực sau
này là điều hết sức quan trọng và thiết thực.
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
102
Bản thân người thầy dạy đại học phải là
tấm gương cho cách dạy theo phương pháp
đổi mới
Người thầy ở đây là các giảng viên đại học,
bao gồm tất cả các giảng viên của tất cả các
môn giáo dục đại cương ( Ngoại ngữ, Giáo
dục quốc phòng, các môn khoa học Mác –
Lênin,.); giáo dục chuyên nghành và
nghiệp vụ sư phạm (Tâm lý học, Giáo dục
học, Phương pháp dạy học bộ môn). Rèn kỹ
năng là một quá trình. Người thầy không thể
chỉ ngồi nghiên cứu tài liệu Đông, Tây, Kim
cổ, tìm ra biết bao phương pháp mới, so sánh,
đối chiếu phát hiện ra những ưu điểm so với
phương pháp truyền thống để truyền tải
những kiến thức rất mới này cho SV bằng
phương pháptruyền thống. Đây là những "
tấm gương" cho SV về cách dạy, cách học.
Thiết nghĩ, việc đổi mới cách dạy, cách học
trong các trường đại học, nhất là các trường
ĐHSP chính là cái gốc, là “căn cốt” để SV –
Người giáo viên tương lai học cách dạy sáng
tạo, học cách học sáng tạo và cũng chính là
rèn luyện bản lĩnh nghề nghiệp.
Các môn học cung cấp tri thức sư phạm
cần được gắn kết chặt chẽ với hoạt động
rèn luyện các kỹ năng sư phạm.
Các môn tâm lý học, giáo dục học, phương
pháp dạy học bộ môn được xem là những
môn học cung cấp tri thức sư phạm cho sinh
viên. Điều đó cũng có nghĩa là chúng có mối
quan hệ mật thiết với việc hình thành các kỹ
năng sư phạm. SV sẽ vận dụng các kiến thức
SP này để xử lý các tình huống giáo dục cụ
thể. Từ đó, sẽ làm giàu thêm vốn NVSP của
mình. Muốn thực hiện được nhiệm vụ này,
nội dung của các môn học phải rất sát với
thực tiễn dạy học – giáo dục ở PT; quá trình
giảng dạy môn học phải theo sát các hoạt
động thực hành SP, hoạt động kiến tập, thực
tập ở trường PT. Giảng viên bộ môn phương
pháp dạy học nên trực tiếp dự giờ giáo viên
PT, và tốt hơn nữa nếu giảng viên có tham gia
giảng dạy tại trường PT.
Phải tăng cường thực hành cho SV
Trường SP là cơ sở đào tạo nghề đào tạo,
không chỉ và không phải đơn thuần là cơ sở
nghiên cứu. Vì vậy phải tổ chức cho SV tiếp
cận được các đối tượng giáo dục càng sớm càng
tốt. Hơn nữa, việc học lý thuyết phải được thực
hiện song song với hoạt động thực hành.
Hội thi rèn luyện NVSP được tổ chức tuy có
quy mô hoành tráng (ở tất cả các khoa trong
toàn trường). Nhưng lại dưới hình thức các
cuộc thi. Vì thế, hoạt động này chỉ dồn vào
một số em có năng lực riêng (hát, múa, đọc
thơ, ngâm thơ, đọc diễn cảm, trình bày
bảng) Hầu hết các sinh viên không và chưa
được tham gia rèn luyện một các đúng nghĩa.
Bài viết đề xuất một số biện pháp để tăng
cường tính thực hành cho SV:
- Tổ chức cho SV xuống các trường PT sớm
hơn, ngay từ năm thứ nhất. Có thể không cần
phải tổ chức quy mô như các đợt kiến tập,
thực tập mà định hướng cho các khoa, từ các
khoa triển khai cho các lớp cụ thể về việc
đăng ký kết nghĩa với các trường PT gần
trường SP; Làm việc với Ban Giám hiệu các
trường PT cho SV về trường tham gia làm
công tác chủ nhiệm, tham gia dự giờ, sinh
hoạt với nhóm, tổ chuyên môn, tất nhiên là chưa
cho SV tham gia dạy thử trên đối tượng HS;
Không đặt ra vấn đề có giáo viên hướng dẫn.
- Tại trường SP, nên phân SV thành các nhóm
nhỏ hoặc vẫn duy trì các nhóm tham gia sinh
hoạt ở trường PT. Giảng viên tùy vào nội
dung môn mình phụ trách để đưa ra các vấn
đề, các tình huống hoặc tổ chức cho SV nghĩ
ra các vấn đề, các tình huống khác để suy
nghĩ tìm ra các phương án giải quyết.
Phải xây dựng được chương trình khung
mang tính đặc thù cho từng Khoa và Bộ môn
Hiện tại trong trường ĐHSP Thái Nguyên,
hầu hết các khoa đều chưa có chương trình
rèn luyện NVSP riêng của Khoa mình. Giảng
viên tổ Phương pháp dạy học hoàn thành
phần việc của mình theo kinh nghiệm riêng
của mỗi các nhân. Ai có thế mạnh nào thì thể
hiện thế mạnh ấy và dẫn đến là SV không
được rèn luyện một cách bài bản các kỹ năng
NVSP cần thiết trước khi xuống trương PT
thực tập. Thiết nghĩ, muốn thực hiện được
điều này, nhà trường phải có định hướng chỉ
đạo các Khoa xây dựng chương trình, có sự
giám sát quản lý trong quá trình thực hiện.
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
103
Phải xây dựng được phòng rèn luyện
NVSP đủ tiêu chuẩn
Phòng NVSP là môi trường, là không gian để
SV rèn luyện, thực hành các kỹ năng đã được
tiếp thu lý thuyết. Mỗi khoa tối thiểu phải có
một phòng NVSP. Ở đây có hai điều kiện: có
phòng rèn luyện NVSP và phòng rèn luyện
NVSP phải đảm bảo tiêu chuẩn. Học lý
thuyết, SV có thể học chung một lớp đông.
Nhưng triển khai thực hành, chắc chắn phải
chia thành các nhóm nhỏ. Điều kiện thực
hành cũng khác so với trên lớp học lý thuyết.
Nếu như học lý thuyết, giảng viên có thể chỉ
cần bảng, bút hoặc phấn, hoặc máy chiếu,
màn hình. Nhưng trong phòng NVSP, ngoài
những điều kiện tối thiểu trên, phải cần thêm:
máy móc (máy tính, máy chiếu, trang thiết bị
nghe nhìn,); Đồ dùng thí nghiệm, đồ dùng
rèn luyện kỹ năng (đàn, đồ dùng vẽ, thiết bị
thí nghiệm,); máy ảnh ,máy quay ghi băng
hình camera, hồ sơ, sổ sách, tư liệu, tài
liệu tham khảo, bản đồ, sách giáo khoa, sách
giáo viên,Quan sát phòng NVSP đủ tiêu
chuẩn với các trang thiết bị cần thiết cho
người dạy, người học cảm giác hưng phấn,
sẵn sàng cho việc dạy – học có hiệu quả.
Phải xây dựng được trường thực hành ở
các cấp học.
Hiện tại trường ĐHSP – ĐH Thái Nguyên chỉ
có một trường thực hành ở cấp THPT đó là
trường THPT Thái Nguyên, các hệ thống
trường thực hành từ mầm non đến THCS hiện
đang còn thiếu. Trường thực hành phải được
đầu tư thật tốt về mọi mặt từ đội ngũ giáo
viên đến điều kiện cơ sở vật chất trang thiết
bị, phương tiện kĩ thuật cần thiết để phục vụ
dạy- học, đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu đào tạo
và rèn luyện nghiệp vụ sư phạm cho SV. SV
thiếu gì, cần gì cứ đến trường thực hành sẽ
được đáp ứng đầy đủ tựa như vận động viên
thể thao vào nhà thi đấu đa năng vậy.
Tổ chức tuần lễ nghiệp vụ sư phạm.
Đây phải là hoạt động thường niên của
trường. Hàng năm vào dịp 20/11, nhà trường
tổ chức tuần lễ rèn luyện NVSP giỏi giữa các
khoa. Thời gian dành cho hoạt động này là 10
tiết. Với SV năm thứ nhất, có bốn tiết lý
thuyết và 6 tiết thực hành. Đối với SV năm
thứ hai, ba, bốn tập trung rèn luyện các kỹ
năng, không dạy lý thuyết.
Nội dung lý thuyết SV được trang bị:
- Giới thiệu về ngành nghề sư phạm: Bản chất
và các nội dung hoạt động của nghề SP.
- Vai trò của nhà giáo trong hoạt động của
nghề SP.
- Quan điểm của Đảng và Nhà nước về phát
triển giáo dục và phát triển nhà giáo.
- Các đặc điểm cơ bản trong lao động SP của
nhà giáo.
Những phẩm chất và năng lực cơ bản mà nhà
giáo cần có.
- Chức năng, nhiệm vụ và các kỹ năng cơ bản
của giáo viên bộ môn trong nhà trường.
- Chức năng, nhiệm vụ và các kỹ năng cơ bản
của giáo viên chủ nhiệm lớp
Đổi mới cách đánh giá hoạt động rèn luyện
NVSP cho SV
Chúng ta vấn biết, một SV có thể rất giỏi về
kiến thức khoa học cơ bản, nhưng không giỏi
về NVSP, không có kĩ năng nói, viết, phong
cách sư phạm, cách thức tổ chức giờ lên lớp,
khả năng xử lí linh hoạt và hiệu quả các tình
huống sư phạm thì không thể đánh giá đó là
một SV giỏi theo tiêu chí của trường sư phạm.
Thế nhưng, hiện nay, do sự chi phối bởi quan
niệm: NVSP chỉ là một môn phụ, có tính chất
bổ trợ. Kết quả rèn luyện NVSP cũng chỉ có
tính chất điều kiện, không quyết định nhiều
tới chất lượng và tiêu chí đánh giá trình độ tốt
nghiệp của SV. Vì thế, hoạt động rèn luyện
NVSP có nhiều hạn chế.
Để đánh giá một cách khác quan, chính xác,
công bằng và thực hiện có hiệu quả mục tiêu
đào tạo, Trường ĐHSP cần đánh giá trình độ
NVSP của SV qua một Hội đồng riêng với sự
tham gia của các GV, các nhà sư phạm có
chuyên sâu về NVSP. (Có thể mời những GV
phổ thông dạy giỏi tham gia Hội đồng này).
Hội đồng này có trách nhiệm đánh giá NVSP
của SV qua một giờ lên lớp hoàn chỉnh. Điểm
NVSP này được coi là một trong những điểm
đánh giá tốt nghiệp bắt buộc của giáo sinh, kể
cả giáo sinh làm luận văn tốt nghiệp. Đây là
cách đánh giá công bằng, khoa học và quan
Nguyễn Mậu Đức và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 102(02): 99 - 104
104
trọng hơn là nó định hướng cho SV sư phạm
ý thức, trách nhiệm cao đối với việc nâng cao
tay nghề.
Tóm lại, ĐHSP là một trường đào tạo nghề
đặc biệt - nghề dạy học. Năng lực sư phạm
của mỗi SV có được chính là do kết quả của
sự rèn luyện NVSP mà nên. Bởi vậy, phải đổi
mới và coi việc đào tạo NVSP là nét đặc thù,
là hoạt động cơ bản để rèn luyện tay nghề cho
SV. Các Khoa có sự chủ động, triển khai cho
sinh viên rèn luyện nâng cao tay nghề dạy học
và giáo dục. Tuy nhiên, việc triển khai hoạt
động này giữa các Khoa trong trường chưa
được đều tay. Thêm nữa, các ý kiến phản hồi
từ GV phổ thông qua mỗi đợt SV sư phạm về
trường thực tập (SV còn bộc lộ sự non, yếu cả
về cách tổ chức dạy cả về kỹ năng sống, ứng
xử, giao tiếp kém, trang phục chưa chuẩn)
Đã cho thấy rằng chương trình đào tạo nghề
trong trường ĐHSP còn có vấn đề cần được
tháo gỡ. Các biện pháp đề xuất trong bài viết
cũng chỉ là những dự kiến trên lý thuyết.
Muốn triển khai thành hiện thực rất cần sự
quan tâm của các cán bộ, giảng viên, các nhà
quản lý giáo dục trong các trường ĐHSP
nói chung và trường ĐHSP- ĐH Thái
Nguyên nói riêng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Đình Chỉnh. Nghiệp vụ sư phạm –
Vấn đề lớn cảu các trường sư phạm hiện nay. Tạp
chí công tác khoa giáo tháng 11/1994
[2]. Trần Bá Hoành. Định hướng tích hợp đào tạo
chuyên môn và nghiệp vụ trong các giáo trình Đại
học sư phạm. Tạp chí nghiên cứu giáo dục, số
11/2000
[3]. Phạm Minh Hùng. Rèn luyện kỹ năng nghiệp
vụ sư phạm cho sinh viên – thực trạng và giải
pháp. Tạp chí Giáo dục, số 211/4/2009.
[4]. Kỉ yếu Hội thảo khoa học: “Đào tạo NVSP tại
các trường ĐHSP”. Viện NCGD-ĐHSP TPHCM
tháng 4/2006.
SUMMARY
THE ISSUE ON THE PEDAGOGICAL PROFESSIONAL TRAINING
AT THE UNIVERSITY OF EDUCATION OF THAI NGUYEN UNIVERSITY:
THE STATUS AND SOLUTIONS
Nguyen Mau Duc1*, Dao Viet Hung2
1College of Education - TNU
2College of Agriculture and Forestry - TNU
The distinguishing difference of the University of Education (UE) with other universities (Us) is
pedagogical training activities (PTA) for students (Ss). Through this activity, students’ capacity is
formed and trained regularly. Students are equipped with necessary teaching and educational skills
prior to pedagogical practice at high schools. This contributes significantly to narrow the gap
"apprentice" of fresh young teachers just graduated, to help them quickly become familiar,
integrated and can fulfill well the teaching and educational task in order to meet the professional
standards of teachers of the high school.
Through factuality of pedagogical professional training in past years, the University of Education
of Thai Nguyen University has determined that improvement the quality and effectiveness of this
work is a routine task and innovated step by step to enhance the teaching skills for students. But in
fact, there are still many shortcomings. In this article, I present the current status and solutions for
pedagogical professional training at the University of Education of Thai Nguyen University in the
trend of integration and globalization.
Keywords: pedagogical professional training, University of Education, current status, solutions,
pedagogical skills
Ngày nhận bài: 14/1/2012, ngày phản biện:27/2/2013, ngày duyệt đăng:26/3/2013
*
Tel: 0983 834724, Email: mauducsptn@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_38327_41881_682013851099_573_2052018.pdf