Vấn đề đối thoại trong tiểu thuyết "những kẻ thiện tâm" của Jonathan Littell - Trần Đình Nhân

Thông qua sự đối thoại đó, câu chuyện đau thương của lịch sử được mở ra và dần hé lộ bản thông điệp “gửi anh em con người” Người kể chuyện đưa ra bốn lí do để viết: viết vì nó liên quan đến tất cả chúng ta: “các người sẽ thấy rõ nó liên quan đến các người”; viết để “khuyến thiện” bởi đây là một “câu chuyện ngụ ngôn thực sự”; viết để tiêu thời gian; và cuối cùng là viết để “soi sáng một hoặc hai điểm còn khó hiểu, có thể đối với người khác và chính tôi” (Littell, 2008a, tr. 11) Từ những “khoảng trắng” còn để ngỏ trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn Max, chúng ta nhận ra rằng câu chuyện thực sự là một cuộc hành trình đi tìm bản thể của con người trong chiến tranh Max ra khỏi chiến tranh “với tư cách một con người trống rỗng, chỉ có trong mình niềm cay đắng và mộtTạp chí nỗi xấu hổ dài dặc, giống như thứ cát nghiến lạo xạo trong hàm răng”, “có lẽ vì thế mà tôi viết những kỉ niệm này để tự kích thích, xem liệu tôi còn có thể cảm thấy điều gì nữa hay không, liệu tôi còn biết đau khổ chút nào không (Littell, 2008a, tr. 19) Như vậy, nếu như thời gian từ trong chiến tranh trở về trước, đó là cuộc hành trình của vô thức, thì sau chiến tranh, với hành động viết lại tất cả, đó là một ước muốn kiểm chứng có ý thức Anh ta muốn nghiệm lại xem thực sự mình là ai, là cái gì trong cuộc đời này? Mình muốn tìm cái gì trong cuộc sống? Và tại sao lại phải kéo dài kiếp sống lê thê này? Max không phải là một kẻ có bản chất độc ác, và xét cho cùng cũng chẳng phải là một kẻ thực sự cuồng tín đối với hệ tư tưởng Volkisch Tuy nhiên, dù có trăn trở, có băn khoăn suy nghĩ nhưng thực sự anh ta cũng không quá đau khổ khi thực hiện hành vi tội ác Thậm chí, anh ta còn từ chối cả lời đề nghị được chuyển đi khỏi công việc diệt trừ Do Thái đầy ghê tởm đó: “tôi cũng có thể xin được đi khỏi, hẳn là thậm chí tôi còn có thể có được lời giới thiệu tốt từ lobel hoặc tiến sĩ Rasch Vậy tại sao tôi không làm việc đó? Chắc là vì tôi chưa hiểu những gì mà tôi muốn hiểu Liệu rằng có bao giờ tôi hiểu được chúng hay không?” (Littell, 2008a, tr. 161). Nhân vật cứ mò mẫm dò tìm một cái gì đó mơ hồ trong cuộc sống mà không ý thức được rằng mình đang đi tìm chính câu trả lời về chính bản thể của mình Với một nhân cách còn dang dở, Max đã để lại một cuộc hành trình còn dang dở Hành động viết lại câu chuyện cũng chính là một sự thể hiện rằng anh ta vẫn còn đang tiếp tục cuộc hành trình khổ đau của mình “Những kẻ thiện tâm” còn là lời cảnh tỉnh của tác giả đối với “anh em con người” về nguy cơ suy kiệt lương tâm và sự lên ngôi của cái Ác Kate Hambuger trong cuốn Logic về các thể loại văn học đã cho rằng: “sự chuyển hóa về ngữ nghĩa là ở chỗ thời quá khứ mất chức năng về ngữ pháp để chỉ quá khứ” (Hambuger, 2004, tr. 112). Không ai viết về quá khứ chỉ vì quá khứ Người ta luôn viết về quá khứ từ hiện tại và cho hiện tại. Tác phẩm cũng cho thấy được sự bất lực của con người trong thế giới hậu hiện đại Chúng ta nhiều khi phải cưỡng lại những ham muốn làm người; điều đó có thể dẫn đến một hậu quả con người có thể đánh mất chính bản thân mình, mất luôn cả lòng tin vào cuộc sống Cuối cùng, tất cả những gì còn lại chỉ là một sự bất lực trước hiện thực đầy phi lý “Những kẻ thiện tâm” như là một hồi chuông cảnh tỉnh con người đang chìm đắm trong guồng máy danh vọng, quyền lực của xã hội hậu hiện đại, mà không hay biết rằng, chính điều đó đôi khi vô tình đã tiếp tay cho cái ác lên ngôi.

pdf7 trang | Chia sẻ: thucuc2301 | Lượt xem: 350 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vấn đề đối thoại trong tiểu thuyết "những kẻ thiện tâm" của Jonathan Littell - Trần Đình Nhân, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 101 VẤN ĐỀ ĐỐI THOẠI TRONG TIỂU THUYẾT "NHỮNG KẺ THIỆN TÂM" CỦA JONATHAN LITTELL Trần Đình Nhân1 ABSTRACT “The Kindly Ones” (French: Les Bienveillantes) is the novel awarded two big prizes in France: Grand Prix du Roman and Goncourt 2006. This novel has given readers a new perspective of the Jewish pogrom by German Fascists in World War II. With a cold tone, Jonathan Littell posed a question: How would the humans be if evil governed the society? In the area of this work , we aim to inquire futher into the forms of dialogue in "The Kindly Ones" from the perspective of intertextuality in order to clarify the issues about culture, history and human rights which have been raised in this novel. TÓM TẮT “Những kẻ thiện tâm” (tiếng Pháp: Les Bienveillantes) (2) là cuốn tiểu thuyết đạt hai giải thưởng lớn của nước Pháp: Grand Prix du Roman và Goncourt 2006. Tác phẩm đã mang lại cho người đọc một cái nhìn hoàn toàn mới về cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai. Bằng một giọng văn lạnh lùng, Jonathan Littell đã đặt ra câu hỏi: tương lai con người sẽ đi về đâu một khi cái ác trở thành thế lực thống trị xã hội? Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu những hình thức đối thoại trong “Những kẻ thiện tâm” từ góc nhìn lý thuyết liên văn bản để làm sáng tỏ những vấn đề về văn hoá, lịch sử và nhân quyền được đặt ra trong tác phẩm 1. VÀI NÉT VỀ LÝ THUYẾT LIÊN VĂN BẢN Liên văn bản (tiếng Pháp Intertextualité; tiếng Anh Intertextuality) là một thuật ngữ của văn bản học chỉ mối liên hệ tác động qua lại giữa văn bản đang được xem xét với những văn bản khác (có thể là/ không là văn bản văn học) hoặc với môi trường (context) văn hóa - lịch sử nói chung (3). Thuật ngữ liên văn bản lần đầu tiên được nhà lý luận về chủ nghĩa hậu hiện đại Julia Kristéva đưa ra năm 1967 trong bài viết “Bakhtin, lời nói, đối thoại và tiểu thuyết. Kristéva đã giới thiệu về sự vận dụng và phát triển một cách sáng tạo quan điểm về ngôn ngữ học của erdinand de Saussure của akhtin Tuy nhiên, tư tưởng "đối thoại" của akhtin được Kristéva tiếp nhận hoàn toàn theo cách của chủ nghĩa hình thức, tức là chỉ hạn chế trong lĩnh vực văn học, như là sự đối thoại giữa các văn bản Sau đó, đến lý thuyết kí hiệu của J Derrida, lý thuyết của chủ nghĩa hậu cấu trúc của R arthes, J Lacan, M oucault thì khái niệm liên văn bản mới được mở rộng Họ cho rằng rốt cuộc mọi thứ như văn học, văn hoá, xã hội, lịch sử, bản thân con người đều được khảo sát như văn bản Lịch sử và xã hội có thể "đọc" như văn bản Văn hoá của nhân loại cũng được coi như một thứ liên văn bản mà 1 ThS. Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Huế, Đại học Huế Email: dinhnhandhsp@gmail.com 2“Những kẻ thiện tâm” là tên bản dịch cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Pháp “Les ienveillantes” của nhà văn Mỹ Jonathan Littell Cuốn tiểu thuyết tái hiện một cách toàn diện cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trong thế chiến thứ hai thông qua hồi ức của nhân vật Maximilien Aue (viết tắt là Max), một sĩ quan SS, kẻ trực tiếp tham gia vào cuộc diệt chủng này Với độ dày 900 trang (bản tiếng pháp), cuốn tiểu thuyết gồm bảy chương , mỗi chương mang tên một bản tổ khúc của nhạc sĩ Sebastian ach Tác phẩm được Cao Việt Dũng dịch sang tiếng việt và được phát hành bởi nhà xuất bản Hôi nhà văn (liên kết với công ty Nhã Nam) năm 2008 3Phạm Gia Lâm, Motip Kyto giáo trong tiểu thuyết 'Nghệ nhân và Margarita' của M ulgakov Đọc từ: www.nguoibanduong.net/index.php?... Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 102 đến lượt mình, nó đóng vai trò tiền văn bản cho bất cứ văn bản nào xuất hiện tiếp theo (Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân & Nguyễn Thị Hoài Thanh, 2003, tr. 32). Sự xuất hiện của lí thuyết liên văn bản vào những năm 60 - 70 của thế kỉ XX mang lại cho chúng ta một cách hiểu mới về tác phẩm văn học ản chất của tác phẩm văn học không phải gì khác mà chính là sự kết nối, hấp thu và chuyển đổi với các văn bản khác nhau 2. BẢN CHẤT CỦA ĐỐI THOẠI MANG TÍNH LIÊN VĂN BẢN “Ngôn từ đối thoại là sự giao tiếp qua lại (thường là giữa hai phía) trong đó sự chủ động và sự thụ động được chuyển đổi luân phiên từ phía này sang phía kia (giữa những phía tham gia giao tiếp; mỗi phát ngôn đều được kích thích bởi phát ngôn có trước và là sự phản xạ lại phát ngôn ấy” (Lại Nguyên Ân, 2004, tr. 130). Trong học thuật hiện đại, nhân tố đối thoại được xem như một đặc tính phổ quát hết sức quan trọng của hoạt động ngôn từ, bởi ở các phát ngôn luôn hiện diện sự chờ đợi (sự kích thích) một lời đáp lại nào đó, cũng tức là phản ứng lại kinh nghiệm ngôn ngữ trước đó: “ý thức mang tính đối thoại hướng tới những tiếp xúc rộng, liên cá nhân và được làm giàu bởi kinh nghiệm của người khác” (Lại Nguyên Ân, 2004, tr. 133). Như vậy, chúng ta thấy rằng, bản chất của bất kì một phát ngôn đối thoại nào cũng mang những mối quan hệ đối với những phát ngôn tồn tại trước nó Cùng với sự phát triển của việc nghiên cứu văn học, người ta dần coi sự đối thoại không còn khuôn hẹp lại theo nghĩa truyền thống của nó là sự trao đổi qua lại giữa các lượt lời của các bên tham gia giao tiếp nữa mà nội hàm của nó được mở rộng hơn Tất cả những gì có sự giao thoa, tiếp xúc và ảnh hưởng lẫn nhau, tạo nên mối quan hệ liên đới, kích thích và phản biện với nhau đều có thể được xem là chúng đang ở trong trạng thái đối thoại Như vậy, đúng như akhtin đã nói, bản chất của thế giới này thực sự là một cuộc đối thoại lớn Thông qua sự đối thoại, con người thể hiện được sự tồn tại của mình 3. CÁC HÌNH THỨC ĐỐI THOẠI VÀ SỰ HOÀI NGHI, PHÊ PHÁN TRONG “NHỮNG KẺ THIỆN TÂM” 3.1 Đối thoại của nhân vật Có thể nói, toàn bộ tác phẩm là một cuộc đối thoại lớn được cấu thành từ những cuộc đối thọai nhỏ với nhiều hình thức đa dạng Những kẻ thiện tâm là những kí ức của Max Aue về một thời kì đen tối trong lịch sử của loài người Câu chuyện kinh hoàng của lịch sử được tái hiện lại theo bước chân của Max Aue, một sĩ quan trực tiếp tham gia vào cuộc tàn sát người Do Thái của phát xít Đức trên toàn châu Âu Những cuộc hành quyết, những hố chôn người tập thể, những trại tập trung và những kế hoạch tàn độc của phát xít là phông nền chung của câu chuyện Trên phông nền đó là một câu chuyện khác bi thương không kém: đó là câu chuyện về sự tha hoá của con người Từ những đau khổ dằn vặt khi lần đầu giết người, Max dần trở nên vô cảm Và tất cả những gì còn lại là một Max Aue, hiện thân của cái ác Ở vào thời kì mà cái bắt đầu có thể là cái kết thúc ấy, có lẽ khó có thể có được một chân lý nào là tuyệt đối Mọi giá trị dường như đều trở nên mong manh Trong những thời khắc lịch sử như vậy, đâu đúng, đâu sai, đâu chính, đâu tà không phải là một điều dễ xác định Có lẽ vì thế mà đối thoại xem ra là một phương pháp ưu trội trong việc “đánh bật” ra bản chất của mọi vấn đề Đối thoại giữa các nhân vật là dạng thức đối thoại cơ bản nhất của văn học Thông qua đối thoại, những quan điểm, những tư tưởng khác nhau, thậm chí trái chiều nhau liên tục được va chạm và dần dần tự bộc lộ chính mình Trong tác phẩm tồn tại nhiều luồng tư tưởng khác nhau Là một sĩ quan SS, Max mang trong mình một tư tưởng vị chủng(4) Ước mong trở thành một người quốc xã chân chính, Max dốc hết khả năng để phục vụ cho Volk Nhưng chủ nghĩa quốc xã thực chất chỉ là một 4 Vị chủng văn hóa hay thuyết vị chủng (tiếng Anh ethno-centrism) “là thông lệ đánh giá văn hóa khác bằng văn hóa của chính mình” Những người theo lối tư duy này cho rằng giữa các nền văn hóa không tồn tại sự bình đẳng với nhau, mà đó là quan hệ có tính “tôn ti thứ bậc” (hiérachique). Họ đề cao nền văn hóa của mình trong mối quan hệ với những nền văn hóa khác và thường tự lấy mình làm trung điểm “égocentrique” để bàn xét các vấn đề thuộc về văn hóa, sắc tộc Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 103 trò mị dân Lòng tin của Max dựa trên những khẩu hiệu chính trị mơ hồ do những kẻ cầm đầu khởi xướng Nó trở nên lung lay khi anh ta đối thoại với những luồng tư tưởng khác nhau Kết quả cuối cùng là một quá trình tự ý thức của Max Trong khi Max mong muốn được cống hiến cho chủ nghĩa quốc xã thì Thomas, bạn chí cốt của anh ta lại là một kẻ thực dụng Hắn sử dụng chủ nghĩa quốc xã như một chiêu bài để tiến thân Có lẽ vì thế mà những cuộc đối thoại giữa hai nhân vật này lần nào cũng là những cuộc đối thoại về tư tưởng cực kì sâu sắc Thomas đã cười vào thứ lý tưởng viễn vông, xa rời thực tế của Max: “cứ phục vụ đất nước của cậu, chết nếu cần thiết, nhưng trong khi chờ đợi thì tận hưởng hết mức cuộc đời đi Cái huân chương Ritterkreuz được truy tặng sau khi chết có thể sẽ an ủi được bà mẹ già của cậu, nhưng với cậu, đó sẽ chỉ là một thứ tặng thưởng lạnh lẽo” (Littell, 2008b, tr. 238) Chính Thomas là người đã cho Max thấy rõ bản chất thực sự của chủ nghĩa quốc xã: “Max thân mến của tớ, tớ đã giải thích cho cậu hàng trăm lần rằng chủ nghĩa quốc xã là một khu rừng rậm, nó vận hành theo các nguyên lý mô phỏng học thuyết của Darwin một cách chặt chẽ Đó là sự tồn tại của kẻ mạnh hơn hoặc khôn khéo hơn Nhưng cái đó thì có bao giờ cậu muốn hiểu đâu” (Bakhtin, 1993, tr. 431). Thông qua những cuộc đối thoại giữa các nhân vật, chúng ta thấy được sự va chạm giữa những ý thức hệ khác nhau Sự va chạm giữa ý thức hệ olshevik(5) của những người Cộng sản Liên Xô và ý thức hệ Volkisch(6) của phát xít Đức là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự đối đầu giữa hai dân tộc Từ cuộc đối thoại giữa Max và viên chính ủy Liên Xô bị bắt ở mặt trận Stalingrad đã bật ra những điểm tương đồng và dị biệt của hai hệ tư tưởng: “nơi mà chủ nghĩa cộng sản hướng đến một xã hội không có giai cấp thì các anh rêu rao Volksgemeinschaft (cộng đồng nhân dân), cái về bản chất hoàn toàn vẫn vậy, nhưng được thu gọn lại trong vòng biên giới của các anh Nơi mà Marx coi người vô sản là người mang chân lý thì các anh quyết định rằng cái gọi là chủng tộc Đức là một chủng tộc vô sản, hiện thân của cái Thiện và của luân lý; do đó, thay vì đấu tranh giai cấp các anh sử dụng chiến tranh vô sản Đức chống lại các nhà nước tư bản chủ nghĩa” (Littell, 2008b, tr. 477). ên cạnh sự va chạm của các ý thức hệ, chúng ta còn nhận thấy được sự va chạm của hai luồng tư tưởng xuyên suốt tác phẩm: thiện – ác. Đó dường như là hai phạm trù tách bạch, đối lập nhau Nhưng về một khía cạnh nào đó, đôi khi sự phân biệt giữa chúng là không rõ ràng Một kẻ xét ở phương diện này có thể là hiện thân của cái ác, nhưng xét ở một phương diện khác, nó có thể là cái thiện Max cho rằng: “Cái thiện và cái ác là những phạm trù có thể sử dụng để đánh giá hiệu ứng của các hành động của một con người lên một kẻ khác; nhưng theo tôi, về bản chất chúng không thích hợp, thậm chí là vô tích sự trong việc phán xét những gì diễn ra trong tim kẻ đó Doll giết người hoặc sai những kẻ khác giết người, do vậy đó là cái ác; nhưng xét về tự thân, đó là một người tốt đối với người thân ông ta” (Littell, 2008b, tr. 72). Sự mong manh giữa cái thiện và cái ác khiến cho các nhân vật trở nên khó phán xét về mặt nhân cách; bởi đó là những con người chưa hoàn kết, luôn âu lo, trăn trở trong thì hiện tại chưa bao giờ hoàn thành này Từ sự đối thoại giữa các nhân vật thuộc những nền văn hoá khác nhau, chúng ta nhận ra một cuộc đối thoại lớn giữa các nền văn hóa Trong tác phẩm có sự hiện diện của nhiều vấn đề thuộc phạm trù văn hóa của các nền văn hóa dân tộc khác nhau Các nền văn hóa đó được tác giả sắp đặt bên cạnh nhau theo một tư duy so sánh liên văn hóa Chúng liên tục được va chạm, tác động và cao hơn nữa là đối thoại với nhau Các nền văn hóa đối thoại với nhau không phải bằng lời mà bằng sự tự khẳng định giá trị và sự tồn tại của mình Người Đức với tư duy “vị chủng văn hóa” luôn đề cao nền văn hóa của dân tộc mình, đồng thời hạ thấp các nền văn hóa khác Nhưng những nền văn hóa như Do 5 olshevik là những thành viên của phe olshevik của Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga Marxist tách ra khỏi phe Menshevik Việc chia rẽ này đã xảy ra tại Đại hội Đảng năm 1903 và cuối cùng đã trở thành Đảng Cộng sản Liên Xô 6 Völkisch: (chủ nghĩa) dân tộc Đây là ý thức hệ của phát xít Đức với nội dung đề cao tinh thần dân tộc hẹp hòi. Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 104 Thái, Nga, các dân tộc miền núi đã “đối đáp”, “trả lời” lại quan điểm đó bằng chính những giá trị thuộc về tinh hoa bản sắc của mình Và rốt cuộc, dù muốn hay không, người Đức cũng phải công nhận sự thật khách quan ấy Dù là kẻ mang tư duy vị chủng văn hóa, nhưng sau những sự tiếp xúc và đối thoại với người Do Thái, Max đã kết luận: “Người Do Thái cũng có cái tình cảm cộng đồng, tình cảm về Volk mạnh mẽ đó, họ khóc thương những người chết, chôn cất họ, nếu có thể và đọc kinh Kaddish, nhưng chừng nào chỉ duy nhất một người còn sống thì Israel vẫn sống Có lẽ chính vì thế mà bọn họ đã trở thành kẻ thù được ưu tiên của chúng tôi, vì bọn họ giống chúng tôi quá mức” (Littell, 2008a, tr. 127). 3.2 Đối thoại trong độc thoại hay hiện tượng “tư duy kẻ khác trong ta” Trong “Những kẻ thiện tâm”, chúng ta còn bắt gặp một dạng thức đối thoại hết sức đặc biệt: Đối thoại trong độc thoại. Đây là dạng đối thoại độc đáo mà akhtin đã chỉ ra trong sáng tác của Dostoievski Dostoievski đã nói về kiểu đối thoại đó trong bài tựa ông viết cho tác phẩm Người vợ dịu hiền: “Hãy tưởng tượng một người chồng mà vợ anh ta vừa tự sát đang nằm trên bàn, cô ta vừa nhảy qua cửa sổ mấy giờ trước đó Anh ta bối rối và chưa kịp sắp xếp các ý nghĩ của mình Anh ta đi lại qua các phòng của mình và cố gắng lý giải điều vừa xảy ra, “tập trung các ý nghĩ vào một điểm”, hơn nữa đó lại là một người bị chứng nghi bệnh kinh niên, một trong số những người thường tự nói với mình Đấy, anh ta đang tự nói với mình, kể ra sự việc, giải thích nó cho mình Mặc dù lời kể có vẻ mạch lạc, anh ta thực ra đã mấy lần tự mâu thuẫn với mình cả về logic lẫn trong tình cảm Anh ta vừa biện bạch cho mình vừa trách cứ cô ta, vừa đưa ra những cách giải thích của người ngoài cuộc” (Bakhtin, 1993, tr. 43). Những cuộc tự đối thoại của Raskolnikov mà akhtin đã chỉ ra trong Tội ác và trừng phạt đã cho chúng ta hiểu rõ hơn về dạng thức đối thoại đặc biệt này Dạng đối thoại này xuất hiện trong suy nghĩ của nhân vật, trong đó bản thể của nhân vật đó tự tách mình ra thành những bản thể khác nhau và giữa chúng xảy ra sự đối thoại ản thể được phân xuất ra đó hiện diện với tư cách là một “kẻ khác” tồn tại trong “ta” như một cái tôi hoàn toàn độc lập Nói như akhtin, “mỗi nhân vật chính của Dostoievski đều có một tiếng nói thứ hai” (Bakhtin, 1993, tr. 215), “đối thoại cho phép ta thay thế tiếng nói kẻ khác bằng tiếng nói của chính mình” (Bakhtin, 1993, tr. 210). J. Littell đã kế thừa kiểu đối thoại độc đáo này của Dostoievski Tuy nhiên chúng ta thấy rằng, trong sự kế thừa đó có rất nhiều điểm cách tân Đối thoại trong độc thoại của Dostoievski xét cho đến cùng chính là sự đối thoại giữa những cái tôi khác nhau của một cá nhân Trong đó, A1, A2được tách ra từ A để đối thoại với A Nhưng đối thoại trong độc thoại của J Littell lại có những điểm mới khá thú vị Vẫn là những cuộc đối thoại trong tâm tưởng của nhân vật, nhưng trong cuộc đối thoại đó, A đã tự giả định có những nhân vật B, C đối thoại với mình Thực chất , C chỉ là sản phẩm tưởng tưởng tượng của A, hay nói đúng hơn, B, C chính là A dưới hình thức khác và mang tư duy kẻ khác để đối thoại với A. Đó là một cách để A tự chất vấn mình Hiện tượng đó xuất hiện trong “Những kẻ thiện tâm” ở hình tượng nhân vật Max Aue Vào những thời điểm thực sự khủng hoảng tinh thần, Max không chỉ thấy mình như tách ra thành một bản thể thứ hai đối lập với mình mà còn tự tưởng tượng ra những cuộc đối thoại với “kẻ khác” trong tâm tưởng Chương Courante kể về thời gian Max đi nghỉ dưỡng tại nhà người chị gái khi quân Nga đã đến rất gần erlin Vào thời điểm đó, Max đã rơi vào một sự khủng hoảng trầm trọng Mọi niềm tin mà Max cố gắng bám lấy đều đã đổ vỡ Lúc này, trong Max xuất hiện một cuộc đấu tranh tư tưởng cực kì dữ dội Max tưởng tượng mình đang ngồi đối diện và tranh cãi khá gay gắt với hai vợ chồng chị gái Thông qua cuộc đối thoại giả định giữa Von Uxkul với Max, chúng ta có dịp đánh giá được tính đúng đắn của việc giết Do Thái: “Tại sao người Đức lại hăng hái như vậy trong việc giết Do Thái?” - “Ông đã nhầm nếu ông tưởng rằng đó chỉ là người Do Thái, tôi bình thản nói Người Do Thái chỉ là một loại kẻ thù, chúng tôi diệt trừ tất cả kẻ thù của chúng tôi, dù cho chúng có là ai và ở đâu ” “Tại sao các anh phải loại trừ những người bị bệnh thần kinh, những người tàn phế tại các bệnh viện? Họ đã gây ra nguy cơ gì, những con người bất hạnh đó” – “những cái tàu há mồm vô ích Ông có biết làm như vậy chúng tôi có thể tiết Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 105 kiệm được bao nhiêu triệu Reichmark không? Đấy là còn chưa nói đến những cái giường bệnh viện được giải phóng để cho thương binh từ các mặt trận” (Littell, 2008b, tr. 421) Thực chất, vợ chồng người chị song sinh không hề có mặt ở đó Tất cả chỉ là sự tưởng tượng của Max Nói một cách chính xác hơn thì đó chính là quá trình Max tự chất vấn, tự đối thoại với mình Đó là sự giằng co giữa con người lý tưởng và con người của ý thức Max đang cố đấu tranh để tự chỉ ra những sai lầm mà anh ta vẫn đang cố bám lấy, bởi lúc đó lòng tin của anh ta vào chủ nghĩa quốc xã đã bắt đầu sụp đổ Khi đối thoại với nhau, bản chất của tư tưởng sẽ được lộ diện trong quá trình “phản bác” và “đáp ứng” lẫn nhau Điều đó cùng với bản chất đặc trưng của dòng văn học hậu hiện đại là hiện tượng “bất tín nhận thức” (sự thiếu tin tưởng đối với khả năng nhận thức của con người về thế giới, sự mất niềm tin đối với những tri thức đã được xem là đã định hình) đã dẫn đến thái độ hoài nghi, phê phán đối với bản chất các sự vật hiện tượng Sự hoài nghi được thể hiện ở nhiều bình diện Trước hết là sự hoài nghi về chiến tranh. Tư tưởng Volkisch thúc đẩy nước Đức tiến hành chiến tranh để đòi lại vị trí bá chủ của mình, để cho mỗi người dân Đức có cuộc sống tốt hơn Nhưng liệu đó có phải là sự thật không khi Max thấy những đoàn tàu vơ vét của cải từ những nước bị chiếm đóng đưa về Đức, nhìn thấy cảnh máu người Đức (và các dân tộc khác) liên tục đổ một cách phi lý để cho những kẻ cầm đầu ăn chơi phè phỡn Liệu rằng người Đức có được sung sướng hơn không khi mà những người lang thang, những người tâm thần, thậm chí những người thương binh không còn khả năng chiến đấu cũng bị loại bỏ một cách không thương tiếc Chúng ta cảm nhận được một luồng tư tưởng phản chiến xuyên suốt tác phẩm, đi ngược lại với cái guồng quay sục sôi của những con người đang điên cuồng với lý tưởng quốc xã Không chỉ hoài nghi về chiến tranh, sự hoài nghi đó còn hướng đến chính sách bài Do Thái của hệ tư tưởng Volkisch Littell đã cho thấy được bản chất của tư tưởng cực đoan đó Người Do Thái bị tàn sát không phải bởi họ là một dân tộc thấp kém, không phải do họ là những kẻ keo kiệt, bủn xỉn và mang lại tai họa cho loài người như chủ nghĩa quốc xã đã tuyên truyền mà đó chỉ là vấn đề chính trị: “vấn đề Do Thái không phải là một vấn đề nhân loại, đó không phải là vấn đề tôn giáo, nó chỉ duy nhất một vấn đề vệ sinh chính trị” (Littell, 2008a, tr. 21). Littell còn thể hiện sự phê phán của mình đối với chủ nghĩa quốc xã Chính Ohlendorf, một nhân vật cấp cao trong bộ máy phát xít đã nói: “nhà nước phải được đặt dưới Volk. Dưới chủ nghĩa phát xít, con người không còn chút giá trị tự thân nào nữa, họ trở thành những thứ đồ vật của nhà nước” (Littell, 2008a, tr. 253) Max là một kẻ có lòng đam mê đối với lý tưởng quốc xã như phần lớn thế hệ trẻ Đức lúc bấy giờ Thế nhưng, sau khi phải chứng kiến tất cả những gì chủ nghĩa quốc xã đã làm, anh thực sự vỡ mộng: “một người có lòng tin? Trước đây tôi đã từng là một người như thế, nhưng giờ đây nó đâu mất rồi, sự sáng sủa của niềm tin trong tôi?” (Littell, 2008a, tr. 579). Khi lòng tin đã mất, khi mọi nền tảng làm điểm tựa đã bị đổ vỡ thì con người thực sự thấy bế tắc, tuyệt vọng Tất cả chỉ còn lại sự giả dối, bịp bợm và độc ác Đâu là giá trị vĩnh hằng? Đâu là chân lý? Đâu là sự thật? Con người có thực sự tồn tại hay không? Thế giới này rồi sẽ đi về đâu? Những câu hỏi đó thực sự là những mũi dao đâm vào tâm can của những ai có lương tri, trách nhiệm Khi con người thực sự khổ đau, tuyệt vọng thì đó là lúc để Chúa, đấng cứu thế toàn năng giang tay cứu vớt con người Nhưng Chúa ở đâu khi mà con người đang đi sai đường, linh hồn con người đang lạc lối? Chân lý không còn ở luật pháp, quyền năng không còn trong tay Chúa mà nằm trong tay kẻ độc tài Liệu Chúa có thực sự tồn tại hay không khi người ta tuyên bố: “không có Chúa, chỉ có Adolf Hitler, uhrer của chúng ta và sức mạnh bất khả chiến bại của Reich Đức” (Littell, 2008a, tr. 76). 3.3 Đối thoại với người nghe chuyện và bản thông điệp gửi “anh em con người” Người nghe chuyện (narrataire) là khái niệm được G Prince đề xuất năm 1971, sau đó được Genette bổ sung khá đầy đủ trong công trình Dẫn luận nghiên cứu người nghe chuyện. Lê Phong Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 106 Tuyết (2005), trong bài viết “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu văn học đã phân tích khá rõ quan điểm của Prince: “Theo Prince, trái với người đọc (chúng ta hiểu là người đọc thực tế tức là chúng ta), người nghe chuyện là một hư cấu tương ứng với hình ảnh do người kể chuyện tạo ra” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83). Trong phần viết về Độ 0 người nghe chuyện, Prince đã cho rằng: “người nghe chuyện ở độ 0 tức là người nghe chuyện biết tiếng nói của người kể, có một trí nhớ chắc chắn không sai, nhưng anh ta không biết trước về các nhân vật của truyện và một mình anh ta không thể bình luận về giá trị của những hành động các nhân vật đó” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83]. Cũng theo Prince, “những dấu hiệu để nhận biết người nghe chuyện được toát ra từ truyện: đó là khi tác giả có những lời như người đọc, thính giả hoặc những quán ngữ như bạn thân mến của tôi, bạn của tôi; đó là những câu hỏi đôi khi phát ra không phải từ người kể chuyện hay nhân vật; đó là những câu xin lỗi của người kể chuyện” (Lê Phong Tuyết, 2005, tr. 83). Đối thoại với người nghe chuyện là một hình thức đối thoại rất độc đáo trong “Những kẻ thiện tâm”. Ngoài những cuộc đối thoại tư tưởng được thực hiện bởi các nhân vật, sự va chạm của các nền văn hóa, tác phẩm còn hướng đến sự tiếp xúc liên cá nhân thông qua sự mở rộng đối thoại với những người nghe chuyện Ngay từ những trang đầu tiên của tác phẩm, ý thức đối thoại đó đã được thể hiện khá rõ Đối tượng mà người kể chuyện hay nói đúng là người kể chuyện thay mặt tác giả hướng tới là “các anh em con người”, là tất cả những ai có lương tri, trách nhiệm, tất cả những ai quan tâm đến một thời kì lịch sử đau thương của nhân loại: “Này các anh em con người, hãy nghe tôi kể chuyện đã xảy ra như thế nào Chúng ta không phải là các anh em của ngươi, các người sẽ vặn lại, và chúng ta không muốn biết” (Littell, 2008a, tr. 9) Mặc dù là một kẻ nằm trong cấu trúc văn bản tự sự, nhưng người nghe chuyện không phải là kẻ có khả năng tranh biện trực tiếp với người kể chuyện Anh ta là đối tượng hướng đến của người kể chuyện, là người mà người kể chuyện tưởng tượng đang trực tiếp nghe câu chuyện của mình Trong ý thức của người kể chuyện, người nghe chuyện vẫn là kẻ có có tư duy độc lập, nhưng “hắn” là kẻ sinh ra để “nghe” chứ không phải để phát ngôn Do đó, cuộc đối thoại giữa người kể chuyện và người nghe chuyện là cuộc đối thoại một chiều mang tính chất giả định Người kể chuyện tự đặt ra câu hỏi và giả định như người nghe chuyện đang vặn lại mình, rồi anh ta lại tự thanh minh, giải thích: “đừng nghĩ tôi tìm cách thuyết phục các người một điều gì; mà ý kiến của các người đâu có quan hệ gì tới tôi, sau từng ấy năm, tôi quyết định viết chỉ là để sắp xếp lại mọi chuyện, vì tôi, không phải vì các người” (Littell, 2008a, tr. 9). Sự đối thoại đó đôi khi được người kể chuyện đẩy lên một mức độ khá gay gắt: “tôi không nói rằng tôi không có tội về điều này hay điều kia Tôi có tội, các người không có tội, thế là tốt rồi” (Littell, 2008a, tr. 30). Qua sự đối thoại đó bản chất của nhiều vấn đề được lộ diện: “các người hẳn phải thấy rằng tôi nói cho các người tất cả những cái đó một cách hết sức lạnh lùng: chỉ đơn giản để chứng tỏ cho các người thấy rằng việc tiêu diệt dân tộc của Moise dưới bàn tay của chúng tôi không chỉ phát sinh từ một niềm căm thù phi lý tính đối với người Do Thái Chúng tôi chỉ khác biệt với bên ônsêvich ở những ưu tiên của hai bên đối với các hạng mục vấn đề cần giải quyết: cách tiếp cận của họ dựa trên một cách đọc xã hội theo chiều ngang (các giai cấp), còn cách của chúng tôi, theo chiều dọc (các chủng tộc), nhưng cả hai đều có tính mục đích luận ngang nhau” (Littell, 2008b, tr. 169). Thông qua sự đối thoại đó, câu chuyện đau thương của lịch sử được mở ra và dần hé lộ bản thông điệp “gửi anh em con người” Người kể chuyện đưa ra bốn lí do để viết: viết vì nó liên quan đến tất cả chúng ta: “các người sẽ thấy rõ nó liên quan đến các người”; viết để “khuyến thiện” bởi đây là một “câu chuyện ngụ ngôn thực sự”; viết để tiêu thời gian; và cuối cùng là viết để “soi sáng một hoặc hai điểm còn khó hiểu, có thể đối với người khác và chính tôi” (Littell, 2008a, tr. 11) Từ những “khoảng trắng” còn để ngỏ trong cuộc sống cũng như trong tâm hồn Max, chúng ta nhận ra rằng câu chuyện thực sự là một cuộc hành trình đi tìm bản thể của con người trong chiến tranh Max ra khỏi chiến tranh “với tư cách một con người trống rỗng, chỉ có trong mình niềm cay đắng và một Tạp chí Khoa học – Số 01 (2013): 101 – 107 Trường Đại học An Giang 107 nỗi xấu hổ dài dặc, giống như thứ cát nghiến lạo xạo trong hàm răng”, “có lẽ vì thế mà tôi viết những kỉ niệm này để tự kích thích, xem liệu tôi còn có thể cảm thấy điều gì nữa hay không, liệu tôi còn biết đau khổ chút nào không (Littell, 2008a, tr. 19) Như vậy, nếu như thời gian từ trong chiến tranh trở về trước, đó là cuộc hành trình của vô thức, thì sau chiến tranh, với hành động viết lại tất cả, đó là một ước muốn kiểm chứng có ý thức Anh ta muốn nghiệm lại xem thực sự mình là ai, là cái gì trong cuộc đời này? Mình muốn tìm cái gì trong cuộc sống? Và tại sao lại phải kéo dài kiếp sống lê thê này? Max không phải là một kẻ có bản chất độc ác, và xét cho cùng cũng chẳng phải là một kẻ thực sự cuồng tín đối với hệ tư tưởng Volkisch Tuy nhiên, dù có trăn trở, có băn khoăn suy nghĩ nhưng thực sự anh ta cũng không quá đau khổ khi thực hiện hành vi tội ác Thậm chí, anh ta còn từ chối cả lời đề nghị được chuyển đi khỏi công việc diệt trừ Do Thái đầy ghê tởm đó: “tôi cũng có thể xin được đi khỏi, hẳn là thậm chí tôi còn có thể có được lời giới thiệu tốt từ lobel hoặc tiến sĩ Rasch Vậy tại sao tôi không làm việc đó? Chắc là vì tôi chưa hiểu những gì mà tôi muốn hiểu Liệu rằng có bao giờ tôi hiểu được chúng hay không?” (Littell, 2008a, tr. 161). Nhân vật cứ mò mẫm dò tìm một cái gì đó mơ hồ trong cuộc sống mà không ý thức được rằng mình đang đi tìm chính câu trả lời về chính bản thể của mình Với một nhân cách còn dang dở, Max đã để lại một cuộc hành trình còn dang dở Hành động viết lại câu chuyện cũng chính là một sự thể hiện rằng anh ta vẫn còn đang tiếp tục cuộc hành trình khổ đau của mình “Những kẻ thiện tâm” còn là lời cảnh tỉnh của tác giả đối với “anh em con người” về nguy cơ suy kiệt lương tâm và sự lên ngôi của cái Ác Kate Hambuger trong cuốn Logic về các thể loại văn học đã cho rằng: “sự chuyển hóa về ngữ nghĩa là ở chỗ thời quá khứ mất chức năng về ngữ pháp để chỉ quá khứ” (Hambuger, 2004, tr. 112). Không ai viết về quá khứ chỉ vì quá khứ Người ta luôn viết về quá khứ từ hiện tại và cho hiện tại. Tác phẩm cũng cho thấy được sự bất lực của con người trong thế giới hậu hiện đại Chúng ta nhiều khi phải cưỡng lại những ham muốn làm người; điều đó có thể dẫn đến một hậu quả con người có thể đánh mất chính bản thân mình, mất luôn cả lòng tin vào cuộc sống Cuối cùng, tất cả những gì còn lại chỉ là một sự bất lực trước hiện thực đầy phi lý “Những kẻ thiện tâm” như là một hồi chuông cảnh tỉnh con người đang chìm đắm trong guồng máy danh vọng, quyền lực của xã hội hậu hiện đại, mà không hay biết rằng, chính điều đó đôi khi vô tình đã tiếp tay cho cái ác lên ngôi. TÀI LIỆU THAM KHẢO Đào Tuấn Ảnh, Lại Nguyên Ân và Nguyễn Thị Hoài Thanh sưu tầm và biên soạn, (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, những vấn đề lý thuyết, Hà Nội, NX Hội nhà văn, trang 32. Lại Nguyên Ân (2004), 150 Thuật ngữ văn học, Hà Nội, NX Đại học quốc gia Hà Nội. Bakhtin, M. (1993), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, Trần Đình Sử dịch, Hà Nội, NX Giáo Dục Hambuger, K. (2004), Logic về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch, Hà Nội, NX Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 112 Littell, J. (2008a), Những kẻ thiện tâm, tập 1, CaoViệt Dũng dịch, Hà Nội, NX Hội nhà văn Littell, J. (2008b), Những kẻ thiện tâm, tập 2, CaoViệt Dũng dịch, Hà Nội, NX Hội nhà văn Phạm Gia Lâm, Motip Kyto giáo trong tiểu thuyết 'Nghệ nhân và Margarita' của M ulgakov Đọc từ: www.nguoibanduong.net/index.php?... Lê Phong Tuyết (2005), “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr. 75 – tr. 89 Ngày nhận bài: 08/09/2013 Ngày bình duyệt 01/10/2013 Ngày chấp nhận: 06/11/2013

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf13_tran_dinh_nhan_6085_2034797.pdf