- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
31 trang |
Chia sẻ: tuanhd28 | Lượt xem: 3476 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Vấn đề cơ bản của triết học sự đối lập giữa quan điểm duy vật và duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c vào sự phát triển.
- Quan điểm phát triển đòi hỏi khi xem xét sự vật, hiện tượng phải nhìn thấy khuynh hướng biến đổi trong tương lai của chúng: cái cũ, cái lạc hậu sẽ mất đi; cái mới, cái tiến bộ sẻ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu. Phải có thái độ lạc quan tin tưởng ở sự tất thắng của cái mới, cái tiến bộ.
VẤN ĐỀ 5
CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
1. Quy luật chuyển hóa từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Nó nói lên cách thức của sự phát triển.
a. Khái niệm chất, lượng
* Khái niệm “chất”
Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải là cái khác.
Chất là khái niệm triết học, là khái niệm rộng nhất, không đồng nhất với khái niệm chất của các ngành khoa học cụ thể.
Chất xuất phát từ cấu trúc bên trong của sự vật và biểu hiện ra thông qua các thuộc tính của sự vật.
Ví dụ: chất của nước do cấu trúc phân tử của nước là H2O, khác với cấu trúc phân tử của rượu là C2H5OH. Thuộc tính của nước và rượu khác nhau.
* Mối quan hệ giữa chất và thuộc tính:
- Thuộc tính là những tính chất của sự vật, là những cái vốn có của sự vật đó:
Ví dụ: Thuộc tính của Kim loại: Có ánh kim, dẫn điện, dẫn nhiệt, có khả năng dát mỏng, có khả năng kéo thành sợi. (Đây là thuộc tính chung của các loại kim loại).
- Những tính chất (thuộc tính) của sự vật chỉ bộc lộ ra bên ngoài thông qua sự tác động qua lại của sự vật mang thuộc tính đó với sự vật khác.
Ví dụ: Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường chênh lệch về điện áp. Tính dẫn điện của kim loại chỉ bộc lộ ra khi chúng ta đặt nó trong môi trường có sự chênh lệch về nhiệt độ.
- Do vậy, để nhận thức được thuộc tính của sự vật, chúng ta phải nhận thức mối quan hệ giữa sự vật đó với sự vật khác.
Thuộc tính về chất là gì? Thuộc tính về chất là một khía cạnh nào đó về chất của một sự vật, nó được bộc lộ ra trong mối quan hệ qua lại với sự vật khác.
- Chất là tổng hợp các thuộc tính, trong đó có thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản. Chỉ có thuộc tính cơ bản mới phân biệt chất. Sự phân biệt thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản chỉ có tính tương đối.
* Khái niệm “lượng”
Lượng phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, biểu thị số lượng, quy mô, cường độ, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như các thuộc tính của sự vật.
Lượng có thể đo được bằng con số. Tuy nhiên, sự vật phức tạp thì thông số về lượng của nó cũng phức tạp; do đó để nhận thức được lượng của nó, phải sử dụng nhiều con số thống kê và phải thông qua sự phán đoán, đánh giá của tư duy.
* Phân biệt chất và lượng
- Sự vật sẽ không còn là nó khi chất thay đổi, ngược lại lượng có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định, sự vật chưa thành cái khác. Do đó, có thể thấy mức độ hữu cơ khác nhau trong sự gắn bó giữa chất và lượng với sự vật. Chất là cái tương đối ổn định, còn lượng là cái thường xuyên thay đổi.
- Chất trước hết nói lên sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, lượng là đặc trưng cho những mặt đồng nhất, giống nhau giữa các sự vật trong cùng một nhóm, một loại... Chúng ta chỉ nhận thức được lượng của một nhóm, một loại... khi tạm thời trừu tượng những sự khác biệt, chỉ giữ lại những cái giống nhau, đồng nhất giữa các sự vật trong nhóm đó.
Ví dụ: Khi nói tới “5 người” ta không để ý tới trong đó có nam hay nữ, trẻ hay già... các nhân tố của tập hợp “5 người” được xem là hoàn toàn đồng nhất.
- Mỗi sự vật có nhiều chất do đó có nhiều lượng tương ứng. Hơn nữa, mỗi đặc trưng về chất có nhiều mức độ khác nhau về lượng.
Chúng ta cần chú ý rằng, sự phân biệt giữa chất và lượng chỉ có tính tương đối.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng
* Lượng đổi chất đổi
- Chất và lượng là hai mặt thống nhất hữu cơ với nhau. Chất nào có lượng đó; lượng nào có chất đó. Khi sự vật còn tồn tại trong một chất xác định, nghĩa là sự vật còn tòn tại trong khuôn khổ của “độ”.
- Độ là gì? Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, là giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật.
+ Độ biểu hiện khuôn khổ ổn định tương đối của sự vật, độ của sự vật có thể thay đổi khi điều kiện thay đổi.
+ Trong khuôn khổ của độ, lượng biến đổi từ từ, tiện tiến, tăng dần hoặc giảm dần, khi lượng biến đổi đạt tới giới hạn, chất của sự vật sẽ thay đổi, giới hạn đó gọi là “điểm nút”.
- Điểm nút là gì? Là giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi về chất của sự vật. Bất kỳ độ nào cũng được giới hạn bởi hai điểm nút.
- Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời của chất mới, sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới gọi là “bước nhảy”.
- Bước nhảy là gì? Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do sự thay đổi về lượng trước đó gây ra.
Ví dụ: CH4 là chất khí. Cứ mỗi lần thêm một lượng CH2 thì ta có một chất khí mới. Nếu thêm mãi đến C16H34 thì ta được một chất rắn.
Như vậy, quá trình phát triển bao gồm sự tiệm tiến về lượng và thông qua những bước nhảy vọt tạo ra sự chuyển hoá từ chất cũ sang chất mới. Bước nhảy là giai đoạn kết thúc sự phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một giai đoạn phát triển mới. Nó là sự gián đoạn trong quá trình phát triển liên tục của sự vật.
Nói cách khác, danh giới giữa sự vật hiện tượng cũ và sự vật hiện tượng mới do chất quy định. Sự thay đổi của sự vật, hiện tượng bao giờ cũng bắt đầu từ sự thay đổi về lượng. Sự biến đổi về lượng dẫn tới sự thay đổi về chất của sự vật có nhiều hình thức. Sau đây là ba hình thức cơ bản:
+ Sự tăng lên hoặc giảm đi đơn thuần về mặt số lượng.
+ Sự dung hợp giữa các lực lượng cá biệt để tạo thành “hợp lực” mà về cơ bản “hợp lực” này khác về chất so với lực lượng cá biệt.
+ Sự thay đổi về tổ chức, về kết cấu, về quy mô (đặc biệt trong lĩnh vực xã hội).
* Ảnh hưởng của chất mới đến lượng mới trong sự biến đổi
- Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Khi chất mới ra đời nó sẽ tác động trở lại đối với sự biến đổi của lượng trong quá trình phát triển của sự vật. Sự tác động trở lại đó diễn ra theo 3 hướng sau:
+ Ảnh hưởng đến quy mô biến đổi của lượng.
+ Ảnh hưởng đến tốc độ phát triển của lượng
+ Ảnh hưởng đến tính chất biến đổi của lượng
* Các hình thức của bước nhảy và các hình thức của bước nhảy
Bước nhảy là một hình thức tất yếu của quá trình vận động và phát triển, nếu không có bước nhảy thì sẽ không có sự chuyển hoá chất cũ thành chất mới được.
Các hình thức của bước nhảy diễn ra rất đa dạng phong phú tùy theo bản chất của sự vật và điều kiện tồn tại của sự vật:
+ Bước nhảy trong tự nhiên và bước nhảy diễn ra trong xã hội (tự phát đến tự giác)
Bước nhảy đột biến và bước nhảy từ từ (Khác nhau về nhịp điệu)
Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận (khác nhau về quy mô)
Nội dung quy luật lượng chất
Quy luật lượng chất là quy luật về tác động biện chứng giữa lượng và chất, từ những thay đổi về lượng dẫn tới những sự thay đổi về chất và ngược lại. Chất là mặt tương đối ổn định, lượng là mặt luôn biến đổi. Lượng biến đổi mâu thuẫn với chất cũ, chất mới được hình thành với lượng mới, lượng mới lại tiếp tục biến đổi, đến một giới hạn nhất định nó lại phá vỡ chất cũ đang kìm hảm nó. Qúa trình tác động lẫn nhau giữa hai mặt chất và lượng tạo nên con đường vận động liên tục, từ biến đổi dần dần tới nhảy vọt rồi lại biến đổi dần dần để chuẩn bị cho bước nhảy tiếp theo, cứ thế làm cho sự vật không ngừng biến đổi và phát triển.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn khi muốn thay đổi về chất thì phải không ngừng tích luỹ về lượng
- Khi tích luỹ đủ về lượng phải thực hiện bước nhảy để chuyển sang chất mới.
- Để chuyển sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất chúng ta phải linh hoạt trong việc thực hiện những bước nhảy.
- Khẳng định mối quan hệ biện chứng giữa chất và lượng trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, phép biện chứng yêu cầu chúng ta trong quá trình nhận thức và trong hoạt động thực tiễn cần tránh và chống 2 khuynh hướng sau đây:
+ Khuynh hướng “tả khuynh”: Không chú đến quá trình tích luỹ về lượng nhưng lại vội vàng, nôn nóng, chủ quan áp đặt những bước nhảy vọt khi chưa có đủ điều kiện (họ cho rằng sự phát triển chỉ toàn những bước nhảy vọt).
+ Khuynh hướng “hữu khuynh”: trần trừ, do dự không dám thực hiện những bước nhảy vọt khi đã có đủ những điều kiện cần thiết.
2. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Tất cả mọi sự vật, hiện tượng đều bao hàm mâu thuẫn bên trong, quá trình đấu tranh của các mặt đối lập hay là quá trình giải quyết mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển.
Đây là một trong 3 quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật duy vật. Nó nói lên nguồn gốc, động lực của sự phát triển. Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng.
a. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mâu thuẫn
* Khái niệm mâu thuẫn và mặt đối lập
- Khái niệm mâu thuẫn:
Mâu thuẫn là khái niệm dùng để chỉ mối liên hệ, thống nhất, đấu tranh và chuyển hoá giữa các mặt của sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật, hiện tượng với nhau.
Quan điểm siêu hình thì ngược lại.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập.
- Khái niệm mặt đối lập:
Mặt đối lập là khái niệm dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính có khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành mâu thuẫn.
Ví dụ: Hưng phấn - ức chế; chân lý – sai lầm; điện tích âm - điện tích dương; .....
* Tính chất chung của mâu thuẫn
- Tính khách quan, phổ biến.
- Tính đa dạng và phong phú.
Phép biện chứng duy vật khẳng định, mâu thuẫn tồn tại khách quan phổ biến và đa dang, phong phú trong tự nhiên, xã hội và tư duy và không chịu sự chi phối của ý thức con người.
Ví dụ: Trong tự nhiên, đó là mâu thuẫn giữa điện tích dương và điện tích âm; giữa sức hút và sức đẩy; đồng hóa và dị hóa ; di truyền và biến dị; giống đực và giống cái; sống và chết.
Trong xã hội: mâu thuẫn giữa giai cấp bị bóc lột với giai cấp bóc lột; giữa thiện và ác; giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa hòa bình và chiến tranh.
Trong tư duy, đó là mâu thuẫn giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm; giữa biện chứng và siêu hình; vô thần và hữu thần; chân lý chân lý và sai lầm.
b. Quá trình vận động của mâu thuẫn
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
- Khái niệm mặt đối lập:
Mặt đối lập là những mặt có thuộc tính, khuynh hướng vận động trái ngược nhau, bài trừ, gạt bỏ, chống đối lẫn nhau, nhưng tồn tại gắn bó với nhau trong một thể thống nhất hợp thành một mâu thuẫn.
+ Mặt đối lập có thể là bản thân những thuộc tính, khuynh hướng đối lập, cũng có thể là những yếu tố, bộ phận, sự vật trong đó chứa những thuộc tính, khuynh hướng đối lập.
+ Một mâu thuẫn bao gồm hai mặt đối lập có mối liên hệ với nhau.
- Khái niệm thống nhất giữa các mặt đối lập:
Thống nhất của các mặt đối lập là sự ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, làm tiền đề tồn tại cho nhau, quy định lẫn nhau, chuyển hóa lẫn nhau của các mặt đối lập.
- Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập:
Đấu tranh của các mặt đối lập là sự bài trừ gạt bỏ, phủ định, chống đối nhau của các mặt đối lập.
+ Thống nhất của các mặt đối lập là tương đối. Đấu tranh của các mặt đối lập là tuyệt đối.
+ Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập có quá trình phát triển từ thấp đến cao.
º Sự giải quyết mâu thuẫn không chỉ phụ thuộc vào bản chất và trình độ chín muồi của mâu thuẫn, mà còn phụ thuộc vào những điều kiện cụ thể nhất định của sự tồn tại của nó.
- Khái niệm chuyển hoá giữa các mặt đối lập:
Chuyển hoá giữa các mặt đối lập không phải là sự thay đổi vị trí của các mặt đối lập một cách giản đơn. Chuyển hoá giữa các mặt đối lập ở đây là sự chuyển hoá về chất.
* Mâu thuẫn là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển
- Đấu tranh giữa các mặt đối lập dẫn đến mâu thuẫn được giải quyết, khi mâu thuẫn được giải quyết sẽ làm cho sự vật không ngừng được đổi mới. Mâu thuẫn cơ bản của sự vật được giải quyết sẽ tạo ra bước nhảy của sự vật: sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời.
- Thông qua đấu tranh của các mặt đối lập, những gì lạc hậu, lỗi thời sẽ bị loại bỏ, cái mới, cái tiến bộ ra đời thay thế cái cũ, cái lạc hậu.
Như vậy, mâu thuẫn và việc giải quyết mâu thuẫn chính là nguồn gốc và động lực của sự vận động và phát triển.
* Các loại mâu thuẫn
- Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
- Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản
- Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu
- Mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng
Nội dung của quy luật mâu thuẫn
Mọi sự vật, hiện tượng đều chứa đựng những mặt, những khuynh hướng đối lập tạo thành mâu thuẫn trong bản thân mình; sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung lực nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn tới sự mất đi của cái cũ và sự ra đời của cái mới.
c. Ý nghĩa phương pháp luận
- Khẳng định tính khách quan của mâu thuẫn, PBCDV yêu cầu chúng ta muốn tìm hiểu mâu thuẫn thì phải tìm ngay trong bản thân sự vật, hiện tượng đó và muốn tìm bản chất của sự vật, hiện tượng thì phải phân đôi cái thống nhất và nhận thức từng bộ phận của nó. Muốn tìm bản chất của sự vật thì chúng ta phải xem xét các mặt đối lập bên trong bản thân mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng đó.
- Sự khác nhau giữa các sự vật, hiện tượng, các quá trình sẽ có các mâu thuẫn khác nhau, do vậ, cần phải có những phương pháp cụ thể, phù hợp để giải quyết từng loại mâu thuẫn.
- Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn đó là phương pháp đâu tranh.
- Cần phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn xã hội là phải đứng trên lập trường của giai cấp tiên tiến, phương pháp nhận thức là phương pháp duy vật biện chứng, chú ý đến mối quan hệ hài hoà giữa lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể.
VẤN ĐỀ 6
LÝ LUẬN NHẬN THỨC DUY VẬT BIỆN CHỨNG
1. Thực tiễn, nhận thức và vai trò của thực tiễn với nhận thức
a. Thực tiễn và các hình thức cơ bản của thực tiễn
* Khái niệm thực tiễn
- Các nhà duy vật trước C.Mác đã có công lao to lớn trong việc phát triển thế giới quan duy vật, và đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết không thể biết. Tuy nhiên, lý luận của họ còn nhiều khuyết điểm. Như C.Mác đã chỉ rõ: “Khuyết điểm chủ yếu, từ trước cho đến nay của mọi chủ nghĩa duy vật (kể cả chủ nghĩa duy vật của Phoi-ơ-bắc) là không thấy được vai trò của thực tiễn” (t1, 252).
+ Phoi-ơ-bắc đã có đề cập đến thực tiễn, song ông không thấy được thực tiễn như là hoạt động vật chất cảm tính, có tính năng động của con người. Do đó, ông coi thường hoạt động thực tiễn, xem thực tiễn là cái gì đó có tính chất con buôn bẩn thỉu, ông không hiểu được vai trò, ý nghĩa của thực tiễn đối với việc nhận thức và cải tạo thế giới. Phoi-ơ-bắc viết: “Con người có vừa đủ các giác quan cần thiết để có thể hiểu được toàn bộ thế giới một cách đại thể” hay như “chúng ta đọc cuốn sách của giới tự nhiên bằng giác quan ... nhưng chúng ta không dùng giác quan để hiểu nó được”.
+ Khi đề cập đến “ý niệm thực tiễn”, Hêghen đã có tư tưởng hợp lý, sâu sắc: bằng thực tiễn, chủ thể của tự “nhân đôi” mình, đối tượng hoá bản thân mình trong quan hệ với thế giới bên ngoài. Song, do quan niệm duy tâm nên ông chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư tưởng, đối với ông thực tiễn là một “suy lý lôgíc”.
- Kế thừa những yếu tố hợp lý và khắc phục những thiếu sót trong quan điểm của các nhà triết học trước mình về thực tiễn C.Mác và Ph.Ăngghen đã đem lại một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Với việc đưa phạm trù thực tiễn vào lý luân của mình C.Mác và Ph.Ăngghen đã thực hiện một bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nói chung và lý luận nhận thức nói riêng.
V.I.Lênin đã nhận xét, “quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
Vậy thực tiễn là gì?
Thực tiễn là những hoạt động vật chất có mục đích mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và cải tạo chính bản thân con người.
* Các hình thức cơ bản của thực tiễn
Nói đến thực tiễn, trước hết ta phải nói đến hoạt động vật chất (khách quan tồn tại), hoạt động thực tiễn có nhiều hình thức khác nhau, trong đó phải kể đến ba hình thức cơ bản sau đây:
- Hoạt động sản xuất vật chất: Đây là hình thức cơ bản của hoạt động thực tiễn, có vai trò quyết định và là cơ sở cho các hoạt động khác của thực tiễn.
- Hoạt động làm biến đổi các quan hệ xã hội: Đây là hình thức cao nhất của hoạt động thực tiễn.
- Quan sát và thực nghiệm khoa học: Nó được xem là khâu tring gian giữa người nghiên cứu khoa học và ứng dụng vào trong thực tế. Đây là khâu quan trọng nhất trong các khâu của hoạt động thực tiễn khoa học.
* Hoạt động mang thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội:
- Thực tiễn trong mỗi giai đoạn lịch sử nó khác nhau về tính chất, khác nhau về hình thức biểu hiện, nó khác nhau về nội dung.
- Thực tiễn là một hoạt động mang tính xã hội, nhưng không phải hoạt động cá nhân nào cũng mang tính thực tiễn.
- Hoạt động thực tiễn bao giờ cũng mang tính cách mạng, đó là hoạt động cải tạo thế giới và cải tạo chính bản thân con người.
Vì vậy, có thể nói rằng, thực tiễn là phương thức thức tồn tại cơ bản của con người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa con người với thế giới.
b. Nhận thức, các giai đoạn và các cấp độ của nhận thức
* Khái niệm nhận thức
* Định nghĩa nhận thức:
Nhận thức là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào trong bộ não người. Đó là sự phản ánh năng động, sáng tạo, dựa trên hoạt động tích cực của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể.
* Bản chất của nhận thức
- Thừa nhận đối tượng nhận thức là thế giới khách quan, tồn tại độc lập với ý thức con người.
- Khẳng định con người có khả năng nhận thức được thế giới khách quan.
- Nhận thức là một quá trình biện chứng, từ chưa biết đến biết, biết ít đến biết nhiều.
- Thực tiễn là cơ sở trực tiếp và chủ yếu nhất hình thành nên quá trình nhận thức.
* Các giai đoạn của quá trình nhận thức:
Quá trình nhận thức của con người và loài người nói chung trải qua hai giai đoạn là nhận thức cảm tính và nhận thức thức lý tính.
Nhận thức cảm tính (trực quan sinh động) là giai đoạn đầu của quá trình nhận thức, là sự phản ánh trực tiếp, cụ thể, sinh động, hiện thực khách quan vào các giác quan của con người. Nhận thức cảm tính bao gồm các hình thức là: cảm giác, tri giác và biểu tượng.
- Cảm giác là gì? Cảm giác là hình thức đầu tiên của phản ánh hiện thực khách quan. Sự vật, hiện tượng tác động vào giác quan gây nên sự kích thích của tế bào thần kinh làm xuất hiện các cảm giác. Cảm giác là sự phản ánh các thuộc tính riêng lẻ của sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan của con người.
- Tri giác là gì? Tri giác là sự phản ánh nhiều thuộc tính của sự vật, hiện tượng trong sự liên hệ giữa chúng với nhau. Tri giác được hình thành từ nhiều cảm giác kết hợp lại. Tri giác là sự phản ánh trực tiếp các sự vật, hiện tượng thông qua giác quan của con người.
- Biểu tượng là gì? Biểu tượng xuất hiện trên cơ sở những hiểu biết về sự vật do tri giác đem lại. Biểu tượng là hình ảnh được lưu giữ trong chủ thể khi không còn sự vật, hiện tượng hiện diện trực tiếp trước chủ thể.
Nhận thức lý tính (tư duy trừu tượng), đây là giai đoạn tiếp theo của quá trình nhận thức, đây là giai đoạn phản ánh trình độ cao, nó không dừng lại ở cái bề ngoài, cái hiện tượng mà nó là sự phản ánh bên trong, mối liên hệ bản chất. Chính vì vậy mà nó phản ánh, vạch ra được quy luật của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Nhận thức lý tính gồm ba giai đoạn cơ bản sau: Khái niệm, phán đoán và suy lý:
- Khái niệm là gì? Khái niệm là hình thức cơ bản của tư duy phản ánh một cách tương đối đầy đủ và có hệ thống về bản chất, quy luật của đối tượng và thường được biểu đạt bằng ngôn ngữ dưới dạng những thuật ngữ.
- Phán đoán là gì? Là sự liên hệ giữa các khái niệm theo một quy tắc xác định mà chúng ta có thể xác định được trị số lôgíc của nó.
- Suy lý là gì? Là một thao tác của tư duy để đi đến những tri thức mới từ những tri thức đã có.
* Các cấp độ nhận thức:
- Nhận thức kinh nghiệm: là trình độ nhận thức hình thành từ sự quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng trong giới tự nhiên, xã hội, hay trong các thí nghiệm khoa học. Kết quả của nhận thức kinh nghiệm là những tri thức kinh nghiệm.
- Nhận thức lý luận: là trình độ nhận thức gián tiếp, trừu tượng, có tính hệ thống trong việc khái quát bản chất, quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạn nhận thức khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
+ Nhận thức kinh nghiệm là cơ sở của nhận thức lý luận, nó cung cấp cho nhận thức lý luận những tư liệu phong phú, cụ thể; bổ sung cho lý luận đã có và tổng kết, khái quát thành lý luận mới. Tuy nhiên, nhận thức kinh nghiệm chỉ dừng lại ở cấp độ mô tả, phân loại các sự kiện... Do đó, nó chỉ mang lại những hiểu biết rời rạc, riêng lẻ, chưa phản ánh được cái bản chất, mối liên hệ của sự vật, hiện tượng.
+ Nhận thức lý luận không hình thành một các tự phát, trực tiếp từ kinh nghiệm. Do tính đối lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm, hướng dẫn sự hình thành những tri thức kinh nghiệm có giá trị, lựa chọn những kinh nghiệm hợp lý để phục vụ cho hoạt động thực tiễn, góp phần làm biến đổi đời sống con người. Thông quan đó mà nâng những tri thức kinh nghiệm từ chỗ là cái cụ thể, riêng lẻ, đơn nhất thành cái khái quát, cái phổ biến.
- Nhận thức thông thường: là loại nhận thức được hình thành một cách tự phát, trực tiếp từ trong hoạt động hàng ngày của con người. Nó phản ánh sự vật, hiện tượng xảy ra với tất cả những đặc điểm chi tiết, cụ thể và những sắc thái khác nhau của sự vật. Vì vậy, nhận thức thông thường mang tính phong phú, nhiều vẻ và gắn liền với những quan niệm sống thực tế hàng ngày.
- Nhận thức khoa học: là nhận thức được hình thành một cách tự giác và gián tiếp từ sự phản ánh đặc điểm, bản chất, những quan hệ tất yếu của đối tượng nghiên cứu. Nhận thức trừu tượng vừa có tính khách quan, vừa có tính trừu tượng, khái quát lại vừa có tính hệ thống, có căn cứ và có tính chân thực.
Nhận thức thông thường và nhận thức khoa học là hai bậc thang khác nhau về chất của quá trình nhận thức nhằm đạt tới những tri thức chân thực. Giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau:
+ Nhận thức thông thường là chất liệu để xây dựng nội dung của các khoa học. Song nhận thức thông thường chủ yếu vẫn chỉ dừng lại ở sự phản ánh cái bề ngoài, cái không bản chất của đối tượng. Muốn phát triển thành nhận thức khoa học cần phải có quá trình tổng kết, trừu tượng hoá, khái quát hoá đúng đắn của các nhà khoa học.
+ Khi đạt tới trình độ nhận thức khoa học, nó sẽ tác động trở lại đối với nhận thức thông thường, xâm nhập vào nhận thức thông thường và làm cho nhận thức thông thường phát triển, tăng cường nội dung khoa học cho quá trình con người nhận thức thế giới.
c. Vai trò của thực tiễn với nhận thức
* Thực tiễn là cơ sở và động lực của nhận thức
- Loài vật cũng phản ánh thế giới khách quan, nhưng thông qua các giác quan, cho nên chỉ phản ánh được cái bề ngoài và thụ động. Con người cũng phản ánh thế giới khách qanh, nhưng thông qua lao động, tức là tác động vào thế giới khách quan, để nhận thức được cái bản chất của thế giới khách quan. Cho nên, thực tiễn giữ vai trò quyết định nhất để khẳng định rằng, chỉ có con người mới có khả năng nhận thức.
- Đối tượng của nhận thức là thế giới khách quan, nhưng nó không tự bộc lộ các thuộc tính, nó chỉ bộc lộ khi con người tác động vào - hoạt động thực tiễn. Cho nên, thực tiễn là cơ sở trực tiếp nhất hình thành nên quá trình nhận thức.
Ví dụ: Khoa học nói riêng và tri thức của con người nói chung nó bắt nguồn từ thực tiễn, thông qua quá trình sản xuất. Nhưng đến lượt nó những tri thức khoa học đó lại trở lại phục vụ cho thực tiễn, phục vụ sản xuất, phục vụ đấu tranh của xã hội.
- Chúng ta nói thực tiễn là động lực của quá trình nhận thức là vì, thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, những nhiệm vụ mới cho quá trình nhận thức. Thực tiễn cũng luôn luôn vận động, luôn biến đổi, do vậy, mỗi bước tiến, thay đổi của thực tiễn nó lại đặt ra cho nhận thức những vấn đề phải giải quyết.
* Thực tiễn là mục đích của quá trình nhận thức
Nhận thức đầy đủ hiện thực khách quan là để áp dụng vào hiện thực, cải tạo hiện thực. Sự áp dụng đó không còn cách nào khác là phải thông qua thực tiễn, đó là sự vật chất hoá những quy luật, tính tất yếu đã nhận thức được. Điều đó không chỉ là mục đích của con người, mà còn là mục đích nói chung của các ngành khoa học. Các quy luật, định luật của khoa học khái quát được nhờ hoạt động thực tiễn, mà còn là vì thực tiễn nó mới tồn tại.
* Thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm nghiệm tính chân lý
- Thực tiễn là nguồn gốc, cơ sở, động lực của nhận thức, hình thành nên quá trình nhận thức, cho nên việc kiểm tra tính đúng đắn của tri thức là phải dựa vào thực tiễn, chứ không phải theo lối lập luận chủ quan.
Như C.Mác đã khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn”.
- Chính thông qua thực tiễn mà con người chứng minh chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tư duy của mình.
Như V.I.Lênin đã nói: “Chân lý không phải ở điểm bắt đầu mà là ở sự kết thúc, hay nói đúng hơn là ở sự tiếp tục”.
Ví dụ: Thuyết tương đối hẹp của A.Anhxtanh chỉ được công nhận khi các thực nghiệm vật lý phát hiện ra sự phân rã hạt nhân tạo nên tia α và β.
Lưu ý: Chúng ta nói rằng, thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý nhưng đây không phải là tiêu chuẩn duy nhất, điều này cho thấy chân lý còn có nhiều tiêu chuẩn khác nữa.
VẤN ĐỀ 7
VAI TRÒ CỦA SẢN XUẤT VẬT CHẤT VÀ QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
1. Sản xuất vật chất và vai trò của sản xuất vật chất
a. Khái niệm sản xuất vật chất và phương thức sản xuất
* Khái niệm sản xuất vật chất
- Sản xuất xã hội là gì? Sản xuất bao gồm sản xuất vật chất, sản xuất ra tinh thần và sản xuất ra con người. Ba quá trình này không tách rời nhau, trong đó sản xuất vật chất giữ vai trò là cơ sở của tồn tại và phát triển xã hội, xét đến cùng nó quyết định toàn bộ tồn tại xã hội.
- Sản xuất vật chất là gì? Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động (tác động trực tiếp hoặc gián tiếp) vào tự nhiên, cải biến các dạng vật chất của giới tự nhiên, tạo ra của cải xã hội nhằm thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển, nhu cầu phong phú và vô tận của con người.
* Khái niệm phương thức sản xuất
Phương thức sản xuất, cách thức con người tiến hành sản xuất chính là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng trong một giai đoạn lịch sử nhất định..
Phương thức SX
Lực lượng SX
Quan hệ SX
b. Vai trò của sản xuất vật chất đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội
- Tạo ra các tư liệu sinh hoạt thoả mãn các nhu cầu của con người.
- Tạo ra các mặt của đời sống xã hội, tạo ra các quan hệ xã hội về Nhà nước, pháp quyền, đạo đức, nghệ thuật.
- Làm biến đổi tự nhiên, xã hội và chính bản thân con người.
- Sự phát triển của sản xuất quyết định sự phát triển các mặt của đời sống xã hội, quyết định xã hội từ thấp đến cao.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
a. Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Lực lượng sản xuất và các yếu tố cơ bản cấu thành lực lượng sản xuất
Lực lượng sản xuất là khái niệm dùng để chỉ mối quan hệ giữa con người với tự nhiên trong quá trình sản xuất. (Là khái niệm để chỉ những phương thức kết hợp giữa người lao động với TLSX trong sản xuất vật chất)
Với ý nghĩa như vậy, lực lượng sản xuất thể hiện năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Nói cách khác, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất nó thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người.
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động với tư liệu sản xuất, bao gồm:
Lực lượng SX
Người LĐ
Tư liệu SX
Kỹ năng, kỹ xảo, thói quen
Tri thức, kinh nghiệm
Đối tượng LĐ
Tư liệu LĐ
Nhân tạo
Tự nhiên
Công cụ LĐ
Tư liệu LĐ khác
- Các yếu tố của lực lượng sản xuất có mối quan hệ biện chứng với nhau, trong đó người lao động đóng vai trò quyết định, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”.
- Trong tư liệu sản xuất, công cụ lao động là yếu tố cơ bản đóng vai trò quyết định. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”, nó có tác dụng “nối dài bàn tay và nhân lên sức mạnh trí tuệ” của con người trong quá trình lao động sản xuất.
- Ngày nay, khoa học – công nghệ đã và đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu của khoa học – công nghệ được ứng dụng nhanh chóng và rộng rãi vào sản xuất sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ. Sự xâm nhập ngày càng sâu của khoa học – công nghệ vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt.
* Quan hệ sản xuất và ba mặt của quan hệ sản xuất
Trong quá trình sản xuất, con người không chỉ có mối quan hệ cới tự nhiên mà con có mối quan hệ với nhau. Khái quát mối quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất, triết học Mác-Lênin gọi đó là quan hệ sản xuất.
Vậy, quan hệ sản xuất là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản xuất.
Đây không phải là quan hệ tình cảm, quan hệ tinh thần, mà đây là những quan hệ được hình thành một cách khách quan (quan hệ vật chất). Đây là quan hệ cơ bản nhất, nó quy định các quan hệ xã hội khác.
- Quan hệ sản xuất bao gồm:
Quan hệ SX
Quan hệ về chiếm hữu TLSX
Quan hệ về quản lý và phân công lao động
Quan hệ về phân phối sản phẩm
+ Quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu tư liệu sản xuất.
Có hai hình thức chiếm hữu cơ bản: Chiếm hữu xã hội (công hữu)
Chiếm hữu tư nhân (tư hữu)
+ Quan hệ giữa người với người trong việc quản lý và phân công lao động.
+ Quan hệ giữa người với người trong phân phối sản phẩm. Trong lịch sử đã có những hình thức phân phối như: phân phối bình quân, phân phối theo tư liệu sản xuất, phân phối theo lao động, v.v..
- Các mặt hợp thành quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó quan hệ về sở hữu tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định. Bởi lẽ, ai nắm được tư liệu sản xuất trong tay người đó sẽ quyết định việc tổ chức, quản lý sản xuất cũng như phân phối sản phẩm lao động.
b. Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
* Tính thống nhất giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
- Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của phương thức sản xuất, chúng tồn tại khồn tách rời nhau mà tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng, tạo thành quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
* Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất
- Trình độ của lực lượng sản xuất biểu hiện ở trình độ phát triển của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng của khoa hhọc vào quá trình sản xuất. Như vậy, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất như thế nào nó sẽ phản ánh tính chất của lực lượng sảm xuất như thế ấy.
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất của tư liệu sản xuất và sức lao động. Khi sản xuất dựa trên công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển thì lực lượng sản xuất có tính chất cá nhân. Khi sản xuất đạt đến trình độ cơ khí hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển thì lực lượng sản xuất ngày càng có tính chất xã hội hoá.
* Vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất
- Trong phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất là nội dung, còn quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó. Do đó, trong mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định.
- Trong phương thức sản xuất thì lực lượng sản xuất là yếu tố động nhất, cách mạng nhất. Bởi vì, trong quá trình sản xuất, để lao động bớt nặng nhọc, và đạt được năng xuất, hiệu quả cao hơn, con người luôn tìm cách không ngừng nâng cao trình độ của mình, cải tiến, hoàn thiện công cụ lao động và chế tạo ra những công cụ lao động mới ngày càng tinh xảo hơn, vì thế, làm cho lực lượng sản xuất không ngừng biến đổi và phát triển.
- Cùng với sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất mới hình thành, biến đổi và phát triển theo:
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và theo kịp, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển.
+ Khi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi nhưng nó không theo kịp, không phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất thì nó sẽ trở thành “xiềng xích” của lực lượng sản xuất, kìm hảm lực lượng sản xuất phát triển. Khi mâu thuẫn này đạt đến độ chín muồi thì quan hệ sản xuất cũ sẽ bị xoá bỏ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất mới tiến bộ hơn, phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất. Việc xoá bỏ quan hệ sản xuất cũ và thay thế vào đó là một quan hệ sản xuất tiến bộ hơn, cũng có nghĩa là sự diệt vong của cả một phương thức sản xuất cũ, lỗi thời và thay thế vào đó là một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn.
Như vậy, lực lượng sản xuất là nguyên nhân, là nội dung sinh động đòi hỏi quan hệ sản xuất hình thành, biến đổi và phát triển cho phù hợp với trình độ phát triển và tính chất của lượng sản xuất.
* Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất
Mặc dù quan hệ sản xuất do lực lượng sản xuất quy định, nhưng nó cũng có vai trò nhất định trong sự tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
- Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội mà lực lượng sản xuất dựa vào đó để phát triển; do đó, quan hệ sản xuất tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất. Tác động đó diễn ra theo hai hướng:
- Thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
- Kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất, nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất.
C.Mác viết: “Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội sẽ mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, ... mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội” (Tuyển tập.tII, 638-639).
Tác dụng kìm hãm của lực lượng sản xuất không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu so với trình độ lực lượng sản xuất, mà cả trong trường hợp có những yếu tố của quan hệ sản xuất vượt trước trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Sở dĩ quan hệ sản xuất đóng vai trò tác động mạnh mẽ trở lại đối với lực lượng sản xuất là vì nó quy định mục đích của sản xuất, quy định hệ thống quản lý sản xuất và quản lý xã hội, quy định phương thức phân phối sản phẩm. Từ đó nó hình thành nên một hệ thống những yếu tố hoặc thúc đẩy, hoặc kìm hảm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển chẳng những do yếu tố nội tại của nó, mà còn do sự tác động của quan hệ sản xuất. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển và tính chất của lực lượng sản xuất là quy luật phổ biến tác động đến toàn bộ tiến trình lịch sử nhân loại. Sự tác động này đã đưa xã hội loài người trải qua các phương thức sản xuất khác nhau từ thấp đến cao.
* Ý nghĩa phương pháp luận
- Sự biến đổi, thay thế nhau giữa các hình thái kinh tế - xã hội có nguồn gốc trực tiếp từ mâu thuẫn giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Vì vậy, đây chính là cơ sở duy vật lịch sử để chúng ta nghiên cứu về sự vận động và biến đổi của các phương thức sản xuất.
- Phát triển lực lượng sản xuất: công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến. Coi trọng yếu tố con người trong lực lượng sản xuất.
- Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, đảm bảo sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nhằm phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất ở nước ta.
- Từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Phát huy vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế nhà nước. Nâng cao sự quản lý của Nhà nước đối với các thành phần kinh tế; đảm bảo các thành phần kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
VẤN ĐỀ 8
BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a. Khái niệm cơ sở hạ tầng
* Khái niệm cơ sở hạ tầng
Quan điểm duy tâm, siêu hình coi xã hội là con số cộng đơn giản giữa người với người, giữa người với vật; trái lại, triết học mácxít coi xã hội là tổng hợp những quan hệ giữa người với người, trong đó quan hệ kinh tế là nền tảng của xã hội và là cơ sở của tất cả các quan hệ xã hội khác.
- Cơ sở hạ tầng là gì? Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
C.Mác đã viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy, hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý, chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”.
* Kết cấu của cơ sở hạ tầng
Cơ sở hạ tầng bao gồm nhiều kiểu quan hệ sản xuất:
Cơ sở hạ tầng
Quan hệ sản xuất thống trị
Quan hệ sản xuất tàn dư
Quan hệ sản xuất mầm mống
Trong đó quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò quyết định.
b. Khái niệm kiến trúc thượng tầng
* Khái niệm kiến trúc thượng tầng
Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật v.v cùng với các thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội hình thành trên một cơ sở xã hội nhất định.
* Các yếu tố cơ bản hợp thành kiến trúc thượng tầng của xã hội
Kiến trúc thượng tầng
Những tư tưởng xã hội về chính trị, pháp quyền, triết học, khoa học, đạo đức, nghệ thuật, tôn giáo .....
Những thiết chế tương ứng với những tư tưởng đó (nhà nước, các tổ chức chính trị, văn hóa, các tổ chức tôn giáo, v.v..)
* Nhà nước – bộ máy tổ chức quyền lực đặc biệt của xã hội có đối kháng giai cấp
Bộ phận có quyền lực đặc biệt nhất trong kiến trúc thượng tầng của xã hội có đối kháng giai cấp là Nhà nước – công cụ của giai cấp thống trị xã hội về chính trị, pháp lý. Chính nhờ có Nhà nước mà tư tưởng của giai cấp thống trị mới thống trị được toàn bộ đời sống xã hội. Giai cấp nào thống trị được về mặt kinh tế và nắm giữ quyền lực nhà nước thì hệ tư tưởng cùng với những thiết chế xã hội của giai cấp ấy cũng giữ địa vị thống trị, nó quy định và tác động trực tiếp đến xu hướng phát triển của toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội và quyết định cả tính chất, đặc trưng cơ bản của toàn bộ kiến trúc thượng tầng của xã hội.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của xã hội
a. Cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng
- Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng trước hết thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng nào thì nảy sinh ra kiến trúc thượng tầng ấy.
- Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào chiếm vị trí thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về đời sống chính trị.
- Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế, xét đến cùng nó sẽ quyết định mâu thuẫn trong lĩnh vực chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng còn thể hiện ở chỗ, cơ sở hạ tầng thay đổi thì sớm hay muộn kiến trúc thượng tầng cũng phải thay đổi theo. Sự thay đổi đó không chỉ diễn ra trong giai đoạn thay đổi từ hình thái kinh tế - xã hội này sang hình thái kinh tế - xã hội khác, mà còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi hình thái kinh tế - xã hội.
- Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến sự thay đổi kiến trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp. Trong đó có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp quyền.... nhưng cũng có những yếu tố thay đổi chậm hơn rất nhiều so với sự biến đổi của cơ sở hạ tầng như tôn giáo, nghệ thuật, hoặc có những yếu tố tiếp tục tồn tại dai dẳng ngay cả khi cơ sở kinh tế nảy sinh ra nó không còn tồn tại và có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng được kế thừa trong xã hội mới. Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi đó thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.
b. Vai trò tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng
- Toàn bộ kiến trúc thượng tầng cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động và phát triển của cơ sở hạ tầng. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng thể hiện chức năng xã hội của kiến trúc thượng tầng là bảo vệ, duy trì, củng cố và phát triển cơ sở hạ tầng sinh ra nó, chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. Một giai cấp chỉ có thể đứng vững được trong quan hệ thống trị về kinh tế chừng nào xác lập và củng cố được sự thống trị về chính trị, tư tưởng.
- Tất cả các yếu tố cấu thành kiến trúc thượng tầng đều có tác động đến cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, mỗi yếu tố khác nhau có vai trò khác nhau, có cách thức tác động khác nhau. Trong xã hội có giai cấp thì nhà nước là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất đối với cơ sở hạ tầng, vì đó là bộ máy bạo lực, tập trung quyền lực của giai cấp thống trị về kinh tế. Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, nghệ thuật .... cũng đều tác động đến cơ sở hạ tầng bằng những cách khác nhau. Thường những tác động đó phải thông qua nhà nước, pháp quyền thì mới phát huy được hiệu lực đối với cơ sở hạ tầng, cũng như đối với toàn xã hội.
- Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng:
+ Nếu kiến trúc thượng tầng phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì nó là động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế phát triển.
+ Còn ngược lại thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của kinh tế, kìm hãm sự phát triển của xã hội. Nhưng sự kìm hãm đó chỉ là tạm thời, sớm hay muộn, bằng cách này hay cách khác, kiến trúc thượng tầng cũ sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới phù hợp với yêu cầu của cơ sở hạ tầng.
- Trong bản thân kiến trúc thượng tầng cũng diễn ra quá trình biến đổi, phát triển có tính chất tương đối. Quá trình đó càng phù hợp với cơ sở hạ tầng thì sự tác động của nó đối với cơ sơ hạ tầng càng có hiệu quả.
VẤN ĐỀ 9
VẤN ĐỀ CON NGƯỜI TRONG TRIẾT HỌC
1. Con người và bản chất của con người trong triết học ngoài mácxít
a. Quan niệm về con người trong Triết học Phương đông
- Phật giáo: Con người là sự kết hợp giữa sắc và danh (vật chất và tinh thần). Cuộc sống vĩnh cửu là cõi Niết bàn, nơi linh hồn con người được giải thoát để trở thành bất diệt.
- Khổng Tử (551 – 479 tr.CN): Bản chất của con người là do “thiên mệnh”, chi phối, đức “nhân” là giá trị cao nhất của con người, đặc biệt là con người quân tử. Khổng Tử chia con người trong xã hội thành “quân tử” và “tiểu nhân”.
- Mạnh Tử (372 – 289 tr.CN): khẳng định, bản chất của con người là thiện còn trong xã hội có người làm điều ác thì đó là do dục vọng nhất thời mà thôi, chứ nhất quyết không phải là bản chất của con người. Bản tính thiện nó được biểu hiện ở “tứ đức” – “nhân – nghĩa - lễ - trí – tín”.
- Tuân Tử (315 – 230 trCN): Ông cho rằng, bản chất của con người khi sinh ra là ác, nhưng có thể cải biến được, phải chống lại cái ác, con người mới tốt được. Tính ác của con người chính là do việc thoả mãn sinh lý, dục vọng là bản tính tự nhiên của con người, và hành động tuân theo nó tất yếu sinh ra tranh giành cướp bóc lãn nhau: do đó tính ác là do tính thiện làm ra.
- Đổng Trọng Thư (179 – 104 trCN): Là người kế thừa Nho giáo theo xu hướng duy tâm cực đoan. Ông quan niệm Trời và Người có thể thông hiểu lẫn nhau (Thiên nhân cảm ứng). Cuộc đời con người bị quyết định bởi “thiên mệnh”.
- Lão Tử: Con người được sinh ra từ “Đạo”. Vì vậy, con người cần phải sống “vô vi” theo lẽ tự nhiên, không trái với tự nhiên.
Có thể nói rằng, với nhiều hệ thống triết học khác nhau, triết học phương Đông biểu hiện tính đa dạng và phong phú thiên về vấn đề con người trong mối quan hệ chính trị, đạo đức...
Nhìn chung con người trong triết học phương Đông biểu hiện yếu tố duy tâm có pha trộn tính chất duy vật chất phác ngây thơ trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội.
b. Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước C.Mác.
- Ky tô giáo: Ky tô giáo quan niệm con người có thể xác và linh hồn. Thể xác thì mất đi nhưng linh hồn tồn tại vĩnh cửu. Vì vậy, phải thường xuyên chăm sóc linh hồn để hướng đến Thiên đường vĩnh của.
- Hy Lạp cổ đại: Con người là một tiểu vũ trụ trong vũ bao la.
- Thời kỳ Trung cổ: Con người là sản phẩm sáng tạo của thượng đế. Cuộc sống trần thế là tạm bợ, hạnh phúc là ở thế giới bên kia.
- Triết học Phục hưng: Con người là một thực thể có trí tuệ.
- Triết học cổ điển Đức: G.V.Hêghen cho rằng, là hiện thân của “ý niệm tuyệt đối”, còn L.Phoiơbắc lại cho rằng, con người là kết quả của sự phát triển của tự nhiên. Con người và tự nhiên là thống nhất, không thể tách rời.
Các quan niệm về con người trong thời kỳ triết học trước Mác, dù là đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên hay duy vật siêu hình đền không phản ánh đúng bản chất con người. Nhìn chung các quan niệm trên đều xem xét con người một cách trừu tượng, hoặc là tuyệt đối hoá mặt tinh thần, hoặc là tuyệt đối hoá mặt thể xác của con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên – sinh học mà không thấy mặt xã hội trong đời sống con người.
2. Quan niệm của triết học Mác-Lênin về bản chất con người.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác chỉ ra hạn chế của Phoiơbắc trong việc xem xét con người như là một cơ thể sinh vật có ý thức và tình cảm, như tình yêu, tình bạn, không thấy mặt xã hội và hoạt động thực tiễn của con người. C.Mác vạch rõ: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” (Toàn tập, tập 3, tr.11).
a. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật và mặt xã hộ
- Mặt sinh vật bao gồm cơ thể cùng những nhu cầu cơ thể và những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể con người.
- Mặt xã hội bao gồm “tổng hòa những quan hệ xã hội”, những hoạt động xã hội, đời sống tinh thần của con người.
Hai mặt này có quan hệ khắng khít không thể tách rời nhau, trong đó mặt sinh học là nền tảng vật chất tự nhiên của con người, nhưng không phải là yếu tố quyết định bản chất của con người; mặt xã hội mới là mặt giữ vai trò quyết định bản chất của con người. Bởi mặt xã hội của con người biểu hiện trong hoạt động sản xuất vật chất. Lao động sản xuất ra của cải vật chất là yếu tố quyết định hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thời hình thành nhân cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên quá trình hình thành và phát triển của con người luôn luôn bị quyết định bởi hệ thống ba quy luật khác nhau nhưng thống nhất với nhau:
- Những quy luật sinh học chi phối đời sống của cơ thể
- Những quy luật hình thành tâm lý, ý thức.
- Những quy luật xã hội quy định đời sống xã hội của con người.
Ba hệ thống trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và mặt xã hội.
Bản chất của con người không phải là cái gì có sẵn, mà có quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện cùng với hoạt động thực tiễn của con người.
b. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội.
Trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbắc, C.Mác khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất của con người là tổng hòa những mối quan hệ xã hội”.
- Luận đề trên đã chỉ rõ: Con người luôn luôn cụ thể, xác định, sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định. Trong điều kiện lịch sử cụ thể đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối quan hệ xã hội, con người mới bộc lộ toàn bộ bản chất xã hội của mình.
- Trong khi khẳng định bản chất xã hội của con người, triết học Mác-Lênin không phủ nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người, triết học Mác-Lênin chỉ muốn nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết ở bản chất xã hội.
c. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
- Không có thế giới tự nhiên, không có lịch sử xã hội thì không tồn tại con người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử - xã hội.
- Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động vào tự nhiên, cải biến giới tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động, phát triển của lịch sử xã hội.
- Trong quá trình cải biến giới tự nhiên, con người cũng làm nên lịch sử của chính mình. Con người là sản phẩm của lịch sử, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra lịch sử của chính bản thân con người. Bản chất của con người không phải là một hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương ứng với điều kiện tồn tại của con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải cho hoàn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Con người tiếp nhận hoàn cảnh một cách tích cực và tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khách nhau. Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh trong bất kỳ giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong_trinh_on_tap_triet_hoc_mac_lenin_4019.doc