Vai trò của doanh nghiệp trong tổ chức lại sản xuất ngành chè tỉnh Thái Nguyên, tầm nhìn 2020

Có chính sách khuyến khích đối với các tổ chức sản xuất áp dụng khoa học công nghệ cao Tập trung mọi nguồn lực để khai thác có hiệu quả, bền vững tiềm năng và lợi thế của cây chè, đưa sản phẩm chè Thái Nguyên có vị thế cao trên thị trường trong nước và thế giới. Một số gợi ý khuyến nghị đối với tỉnh Thái Nguyên có phương hướng đối với phát triển sản xuất chè giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến năm 2020: + Hình thành vùng sản xuất chè hàng hóa tập trung nhằm tạo tính ổn định cho ngành hàng. + Phát triển sản xuất chè trên cơ sở đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong khâu sản xuất giống, chế biến nhằm tăng năng suất, chất lượng cho sản phẩm. + Khai thác, phát huy nội lực, tận dụng tối đa ngoại lực để đưa sản phẩm tiếp cận những thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu + Phát triển sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm khuyến khích các hình thức liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, liên kết giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Vai trò của doanh nghiệp trong tổ chức lại sản xuất ngành chè tỉnh Thái Nguyên, tầm nhìn 2020, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59 55 VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG TỔ CHỨC LẠI SẢN XUẤT NGÀNH CHÈ TỈNH THÁI NGUYÊN, TẦM NHÌN 2020 Nguyễn Thị Lan Anh*, Đỗ Thùy Ninh Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Thái Nguyên là tỉnh có diện tích trồng chè lớn thứ hai của Việt Nam (sau tỉnh Lâm Đồng) [1]. Cây Chè Thái Nguyên có nhiều ưu thế do được thiên nhiên, thổ nhưỡng ưu đãi, người dân địa phương có nhiều kinh nghiệm trong trồng, chăm sóc hay sơ chế chè; đã có một số thương hiệu chè đặc sản Tân Cương, La Bằng, Trại Cài Tuy nhiên, ngành chè của tỉnh Thái Nguyên qua nhiều phân tích (2008-2013) được đánh giá chưa phát huy được tiềm năng lợi thế sẵn có. Tập trung một số nguyên nhân:(i) Chưa có vùng nguyên liệu đủ lớn để đáp ứng cho các nhà máy chế biến công suất lớn hình thành;(ii) Kỹ thuật canh tác/ thu hái/ sơ chế chè phụ thuộc thói quen tập quán;(iii) Mức độ ứng dụng tiến bộ Khoa học - Kỹ thuật chưa cao. Thông qua bài viết này, nhóm tác giả muốn phân tích vai trò, sứ mệnh của doanh nghiệp trong hình thành và tạo động lực cho tổ chức lại sản xuất ngành chè tỉnh Thái Nguyên với mục tiêu quy hoạch sản xuất, thúc đẩy phát triển, tạo dòng sản phẩm chất lượng cao, tăng giá trị gia tăng cho các tác nhân ngành chè. Từ khóa: Doanh nghiệp, doanh nghiệp nhỏ và vừa, ngành chè, tỉnh Thái Nguyên, liên kết “bốn nhà”, chuỗi giá trị, giá trị gia tăng ĐẶT VẤN ĐỀ* Chè Thái Nguyên đang bộc lộ nhiều bất cập ở ba công đoạn trồng, chế biến và tiêu thụ. Diện tích dành cho khai thác chè chủ yếu do tư nhân sở hữu nhỏ, manh mún (chiếm 70% tổng diện tích trồng chè của cả tỉnh), khó triển khai áp dụng tiến bộ kỹ thuật và không kiểm soát được quy trình sản xuất theo tiêu chuẩn sản xuất sạch/ an toàn thực phẩmVietGAP, UTZ,... dẫn đến chất lượng không đồng đều. Doanh nghiệp sẽ là tác nhân quan trọng nhất trong chuỗi ngành chè có thể đảm nhận được yêu cầu này. Doanh nghiệp đầu tư công nghệ, giống, tập huấn kỹ thuật cho nhóm tác nhân đầu vào của ngành (nông dân, HTX, nông trường trồng chè); Doanh nghiệp đầu tư hạ tầng, công nghệ chế biến đáp ứng nhu cầu đa dạng về sản phẩm của thị trường; Doanh nghiệp tìm kiếm thị trường phân phối tiêu thụ sản phẩm, định hướng nhu cầu thị trường hoặc tư vấn lại cho nông dân để đưa ra những sản phẩm thị trường cần. Số lượng doanh nghiệp DNNVV ngành chè Thái Nguyên Theo thống kê của Sở kế hoạch & Đầu tư Tỉnh hiện nay loại hình doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 100% trên địa bàn [2][3]. * Tel: Trong số nhữngDN sản xuất, chế biến chè ở Thái Nguyên hiện nay chỉ rất ít DN sản xuất sử dụng nguyên liệu đầu vào búp lá chè tươi, số DN còn lại chủ yếu thu mua chè sơ chế trong dân rồi chế biến lại, đóng gói và đưa tiêu thụ. Năng lực tài chính và nguồn vốn của các DNNVV ngành chè Thái Nguyên Vốn không chỉ là một yếu tố đầu vào quan trọng đối với các DN sản xuất mà còn đề cập tới sự tham gia của vốn trong DN, trong cả quá trình sản xuất kinh doanh liên tục trong suốt thời gian tồn tại của DN. Lao động trong các DNNVV ngành chè Thái Nguyên Xác định người lao động là yếu tố cốt lõi tạo nên thành công, nâng cao hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh, những năm gần đây, nhiều DN chè đã chú trọng việc cải thiện môi trường làm việc, thu hút được lực lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất, đóng gói và chế biến chè. Từ bảng trên, ta thấy cơ cấu lao động trong DNNN và công ty TNHH chiếm tỷ lệ nhiều nhất, đây là cơ sở để tăng được số lượng sản phẩm chè thành phẩm cung cấp kịp thời cho thị trường nội địa và xuất khẩu. Các lao động tham gia trực tiếp trong quá trình sản xuất là người dân địa phương. Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59 56 Biểu đồ 1: Số lượng DNVVN ngành chè Thái Nguyên từ năm 2008-2013 (Nguồn: Sở kế hoạch - Đầu tư Thái Nguyên) Biểu đồ 2: Tỷ trọng vốn sản xuất kinh doanh của DNVVN ngành chè Thái Nguyên năm 2013 (Nguồn: Sở KH-ĐT Thái Nguyên) Bảng 1: Lao động trong sản xuất kinh doanh của DNNVV ngành chè Thái Nguyên năm 2013 STT Loại hình doanh nghiệp Lực lượng lao động Số lượng (người) Cơ cấu (%) 1. Doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) 946 45,26 2. Công ty cổ phần (CTCP) 285 13,63 3. Công ty TNHH 610 29,19 4. Doanh nghiệp tư nhân 182 8,71 5. DN có vốn đầu tư nước ngoài 67 3,21 Tổng 2090 100 (Nguồn: Sở KH-ĐT Thái Nguyên và tính toán của tác giả) Bảng 2: Một số chỉ tiêu kết quả và hiệu quả đạt được do phát triển sản xuất chè ở Thái Nguyên giai đoạn 2010 - 2012 STT Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012 1 Tổng sản lượng chè (búp tươi) Tấn 145.710 161.322 185.000 2 Giá trị hàng hóa của chè Tr. đồng 2.267.115 2.689.322 2.945.658 3 Giá trị hàng hóa xuất khẩu USD 9.943.000 10.484.000 11.890.000 4 Giá trị sản lượng chè/ 1 ha TrĐ/ha 107 120 134 5 Thu nhập bình quân của người trồng chè 1000 đ 1.790 1.820 1.890 6 Tạo thêm việc làm cho người lđ mới Người 657 733 890 (Nguồn: Niên giám thống kê năm 2012) Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59 57 VAI TRÒ CỦA DOANH NGHIỆP TRONG SẢN XUẤT, CHẾ BIẾN CHÈ TỈNH THÁI NGUYÊN Khả năng đóng góp của các doanh nghiệp ngành chè Thái Nguyên Hiệu quả kinh doanh các sản phẩm từ chè được thể hiện qua các chỉ tiêu: giá trị tổng sản lượng, giá trị hàng hóa, giá trị xuất khẩu, thu nhập bình quân của người trồng chè được thể hiện ở trong bảng 2. Ngoài các chỉ tiêu đã được lượng hóa như trên ta còn có thể thấy phát triển sản xuất chè có tác động to lớn đến việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xóa đói giảm nghèo và bảo vệ môi trường sinh thái. Doanh nghiệp giữ vai trò kết nối các tác nhân trong chuỗi giá trị ngành chè Kết quả điều tra cho thấy, về hình thức cấu trúc tổ chức liên kết có có 34,88% doanh nghiệp chè Thái Nguyên áp dụng hình thức hạt nhân trung tâm, xung quanh hạt nhân đó có các nhà khoa học, nhà nước, doanh nghiệp và nông dân, hỗ trợ hoạt động đan xen cùng nhau giúp đỡ đảm bảo cho chuỗi giá trị chè được tạo ra với chất lượng sản phẩm tốt nhất và sự đồng đều. Ưu điểm của hình thức đa thành phần là sự phối hợp đồng bộ giữa các bên nên có thêm sức mạnh tổng hợp để có bước đột phá trên các lĩnh vực như chuyển giao khoa học kỹ thuật nuôi trồng do có sự tham gia trực tiếp của nhà khoa học, quản lý thu mua sản phẩm và hỗ trợ các chính sách ưu đãi do có sự quan tâm quản lý của nhà nước. Nhược điểm của hình thức đa thành phần là sự phức tạp trong công tác quản lý phối hợp giữa các thành phần tham gia và khả năng nhân rộng, kéo dài rất hạn chế. Việc thực hiện mối liên kết này vẫn còn tồn tại khá nhiều khó khăn như: tình trạng người trồng chè tự sản xuất, chế biến và tiêu thụ chè trong khi có nhiều doanh nghiệp, nhà máy sản xuất chè không có vùng nguyên liệu riêng phải thu mua thông qua các cơ sở thu gom dẫn đến việc chênh lệch giá; nhiều nhà máy chỉ sản xuất đạt 60-70% công suất vì thiếu nguyên liệu, trong khi đó có một số lượng lớn người nông dân phải tự tìm thị trường tiêu thụ; một số trường hợp các ban ngành địa phương còn lúng túng, chưa có chế tài phù hợp để hỗ trợ giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp và người nông dân. Tăng giá trị sản phẩm Doanh nghiệp tận dụng những lợi thế có kỹ thuật, công nghệ, vốn, hạ tầng,...tạo ra những sản phẩm có giá trị gia tăng cao hơn. Các doanh nghiệp liên kết với nhau sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đồng bộ nhóm ngành hàng hỗ trợ lẫn nhau. Sức cạnh tranh phụ thuộc vào việc các doanh nghiệp sử dụng những tài sản hiện có của mình và có được phương thức tiếp cận với những nguồn mới hiệu quả như thế nào thông qua hợp tác với các bạn hàng liên quan khác. Vấn đề hợp tác ngành nghề trong từng lĩnh vực ngành hàng sẽ trở thành một nhân tố quan trọng cho việc tăng giá trị cho sản phẩm. Doanh nghiệp có điều kiện và khả năng thích ứng nhanh nhạy với thị trường nên đầu tư bài bản và chuyên nghiệp vào kỹ thuật công nghệ Đầu tư kỹ thuật công nghệ trong ngành chè thường có thời gian thu hồi vốn đầu tư dài hơn các ngành khác, bởi chè là loại cây công nghiệp dài ngày, chu trình sinh trưởng khá lâu, nên chu kỳ hoạt động kinh tế kéo dài. Thông thường đầu tư cho chè phải trải qua các giai đoạn phát triển sinh học, nên từ khi trồng đến khi bắt đầu được thu hái phải mất thời gian 3 năm, và thời gian kinh doanh có thể từ 30 đến 50 năm. Cho nên, vốn đầu tư phải phân bổ trong khoảng thời gian kéo dài và theo thời vụ của cây chè. Thêm vào đó, hiệu quả thu hoạch cây chè trong những năm đầu kinh doanh là rất thấp, hiệu quả chỉ được tăng dần trong thời gian sau. Do đó, thời gian để hoàn đủ vốn đầu tư xây dựng cơ bản là khá lâu. Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59 58 Đầu tư cho ngành chè diễn ra trong một địa bàn không gian rộng lớn, trên các vùng đồi trung du, miền núi. Điều này làm tăng tính phức tạp trong quản lý và điều hành các công việc để khai thác đầu tư có kết quả Đầu tư ngành chè đòi hỏi phải có hệ thống hạ tầng cơ sở tối thiểu như các viện nghiên cứu, các trung tâm khảo nghiệm, hệ thống thuỷ lợi, mạng lưới giao thông, hệ thống điện tương thích, các phương tiện thiết bị phù hợp... Đây là điều kiện chưa được quan tâm thích đáng trong vùng chè. Trong khi đó, các khu công nghiệp chế biến có điều kiện hạ tầng phát triển hơn lại xây dựng xa vùng nguyên liệu, gây tốn kém về chuyên chở và làm giảm chất lượng chè thành phẩm; vì chè búp tươi hái về phải chế biến ngay, nếu chậm sẽ làm giảm mạnh chất lượng chè nguyên liệu và chè thành phẩm. Đầu tư các vườn chè, phần lớn giao cho các hộ gia đình quản lý chăm sóc. Khâu chăm sóc đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nhưng thường các hộ nông dân không đủ vốn, vì thế các cơ sở sản xuất kinh doanh thường phải đầu tư loại vốn này, ứng trước vật tư kỹ thuật cho người trồng; và khả năng thu hồi nguồn vốn này là rất khó khăn. Trong hoạt động đầu tư ngành chè cần chú trọng đầu tư nâng cao chất lượng hàng hoá và đầu tư phát triển thị trường, kể cả thị trường trong nước và thị trường nước ngoài; bởi phần lớn sản lượng chè của nước ta (70 - 80%) là dành cho xuất khẩu - một thị trường cạnh tranh khắc nghiệt. Để phát triển thị trường, các doanh nghiệp cần chú trọng công tác marketing, để tìm hiểu hướng thị trường, đáp ứng thị hiếu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ Mục tiêu của ngành chè Thái Nguyên là cần xây dựng một chuỗi giá trị ngành hàng theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, thay vì chỉ chú trọng đến những tăng trưởng về lượng. Do vậy, cần quan tâm và khuyến khích sự hình thành, phát triển của các mô hình tổ chức sản xuất mới nhằm xây dựng những quan hệ sản xuất mới, mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp, đặc biệt là mô hình “bốn nhà”. Trong ba yếu tố đầu vào cơ bản của sản xuất nông nghiệp (ruộng đất, lao động, vốn) thì ruộng đất vẫn là yếu tố quyết định. Việc qui hoạch tạo vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa lớn, qui mô sản xuất nông trại lớn, có chính sách tích tụ ruộng đất, hạ tầng, quản trị nông nghiệp,khác hẳn các vùng sản xuất nông hộ qui mô nhỏ. Có thể bắt đầu bằng các sản phẩm có chuỗi giá trị xuất khẩu mạnh như thủy sản, cà phê, cao su. Cần nghiên cứu và có chính sách hình thành, hỗ trợ phát triển các hợp tác xã sản xuất nông nghiệp chứ không chỉ là hợp tác xã dịch vụ, và cần tách riêng hai loại hình hợp tác xã này. Có chính sách đảm bảo hình thành các hiệp hội các chủ nông trại qui mô nhỏ, lớn, thậm chí một vùng, quốc gia, đảm bảo để hiệp hội các chủ nông trại tổ chức nông dân theo ngành nghề, bảo vệ sản xuất, đàm phán với doanh nghiệp. Có chính sách khuyến khích đối với các tổ chức sản xuất áp dụng khoa học công nghệ caoTập trung mọi nguồn lực để khai thác có hiệu quả, bền vững tiềm năng và lợi thế của cây chè, đưa sản phẩm chè Thái Nguyên có vị thế cao trên thị trường trong nước và thế giới. Một số gợi ý khuyến nghị đối với tỉnh Thái Nguyên có phương hướng đối với phát triển sản xuất chè giai đoạn 2010 - 2015, định hướng đến năm 2020: + Hình thành vùng sản xuất chè hàng hóa tập trung nhằm tạo tính ổn định cho ngành hàng. + Phát triển sản xuất chè trên cơ sở đầu tư thâm canh, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong khâu sản xuất giống, chế biến nhằm tăng năng suất, chất lượng cho sản phẩm. + Khai thác, phát huy nội lực, tận dụng tối đa ngoại lực để đưa sản phẩm tiếp cận những thị trường khó tính như Nhật Bản, châu Âu + Phát triển sản xuất đi đôi với mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm khuyến khích các hình thức liên kết kinh tế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, liên kết giữa các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh. Nguyễn Thị Lan Anh và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 124(10): 55 - 59 59 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Diện tích chè Thái Nguyên là 18.600 ha; diện tích chè Lâm Đồng là 25.000 ha; Diện tích chè của cả nước trên 70.000 ha. 2. Hội nông dân tỉnh Thái Nguyên (2013), Đánh giá hiện trạng cây chè 3. Điều 3, Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009 của Chính phủ 4. PGS.TS Trương Đình Chiến (2012), Quản trị Marketing, Nhà xuất bản kinh tế quốc dân 5. Phillip Kotler (2012), Quản trị Marketing, Nhà xuất bản Thống kê, Hà Nội 6. Nguyễn Hải Sản (2007), Quản trị doanh nghiệp, Nhà xuất bản Tài chính, T.P Hồ Chí Minh 7. Michael Poter, Chuỗi giá trị và lợi thế cạnh tranh, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội 8. PGS.TS Ngô Kim Thanh (2011), Giáo trình Quản trị chiến lược, Nhà xuất bản Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. SUMMARY ROLE OF CORPORATE REORGANIZATION IN MANUFACTURING SECTOR TEA THAI NGUYEN, VISION 2020 Nguyen Thi Lan Anh*, Do Thuy Ninh College of Economics and Business Administration - TNU Thai Nguyen tea growing area of Vietnam's second largest (after Lam Dong) [1]. Thai Nguyen tea tree has many advantages due to natural soil incentive locals have a lot of experience in planting, tending or primary processing of tea; had some specialty tea brand Xinjiang, La Bang ... Camp Set. However, Thai Nguyen tea industry through statistics analysis (2008-2013) is assessed not to promote the availability of potential advantages. Is due to several reasons: (i) do not focus so no material area large enough to accommodate the high-capacity processing plant form; (ii) technical practices, tending, processing of tea for farmers harvest; (iii) scientific and technical progress in the tea-growing region from planting, care to provide for the processing market. Through this article, the authors wanted to analyze business and create incentives for organizations the production of Thai Nguyen tea industry with the goal of production planning, promoting, creating high-quality product line, increase the value added to the tea industry agents. Keywords: enterprise, small and medium enterprises, the tea industry, Thai Nguyen, the "four" links,value added. Ngày nhận bài:15/8/2014; Ngày phản biện:03/9/2014; Ngày duyệt đăng: 15/9/2014 Phản biện khoa học: TS. Trần Quang Huy – Trường Đại học Kinh tế & Quản trị kinh doanh - ĐHTN * Tel:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfvai_tro_cua_doanh_nghiep_trong_to_chuc_lai_san_xuat_nganh_ch.pdf