Nghiên cứu cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ sẩy thai và một số yếu tố liên quan đến sẩy thai ở huyện Phù
Cát - Bình Định trên 6.600 phụ nữ 15 - 49 tuổi đã có gia đình, đã từng mang thai ở 30 thôn thuộc 18 xã, thị
trấn của huyện Phù Cát - Bình Định ở thời điểm tháng 1/2012. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ bị sẩy thai là
9,58%. Tỷ lệ bà mẹ bị sẩy thai tăng dần từ lần mang thai thứ 3: tỷ lệ sẩy thai lần mang thai thứ 3 là 5,53%;
lần mang thai thứ 4 là 7,89% (OR3-4 = 7; 95% CI: 4 - 12,3). Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ bị hút thuốc lá thụ động là 4,21% và phụ nữ không hút thuốc lá thụ động là 2,85% (p < 0,05). Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ bị phơi nhiễm với thuốc bảo vệ thực vật là 4,68%; không phơi nhiễm là 3,14% (p < 0,05).
7 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 23 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tỷ lệ sảy thai và một số yếu tố liên quan đến sảy thai ở huyện Phù Cát - Bình Định, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
144 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TỶ LỆ SẢY THAI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN SẢY THAI
Ở HUYỆN PHÙ CÁT - BÌNH ĐỊNH
Trương Quang Đạt1, Trần Đức Phấn2, Ngô Văn Toàn2
1Trường Cao đẳng Y tế Bình Định, 2Trường Đại học Y Hà Nội
Nghiên cứu cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ sẩy thai và một số yếu tố liên quan đến sẩy thai ở huyện Phù
Cát - Bình Định trên 6.600 phụ nữ 15 - 49 tuổi đã có gia đình, đã từng mang thai ở 30 thôn thuộc 18 xã, thị
trấn của huyện Phù Cát - Bình Định ở thời điểm tháng 1/2012. Kết quả cho thấy tỷ lệ bà mẹ bị sẩy thai là
9,58%. Tỷ lệ bà mẹ bị sẩy thai tăng dần từ lần mang thai thứ 3: tỷ lệ sẩy thai lần mang thai thứ 3 là 5,53%;
lần mang thai thứ 4 là 7,89% (OR3-4 = 7; 95% CI: 4 - 12,3). Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ bị hút thuốc lá thụ động là
4,21% và phụ nữ không hút thuốc lá thụ động là 2,85% (p < 0,05). Tỷ lệ sẩy thai ở phụ nữ bị phơi nhiễm với
thuốc bảo vệ thực vật là 4,68%; không phơi nhiễm là 3,14% (p < 0,05).
Từ khóa: sẩy thai, thuốc bảo vệ thực vật, hút thuốc lá thụ động
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sẩy thai là việc mang thai kết thúc một
cách tự nhiên trước khi thai nhi đạt tới độ tuổi
có thể sống bên ngoài tử cung. Theo chuẩn
quốc gia của Việt Nam hiện nay, sẩy thai là
trường hợp thai và rau bị tống ra khỏi buồng
tử cung trước 22 tuần (kể từ ngày đầu của kỳ
kinh cuối) [1]. Sẩy thai là một trong những bất
thường sinh sản phổ biến nhất. Tỷ lệ sẩy thai
khác nhau tùy theo nơi nghiên cứu ở bệnh
viện hay tại cộng đồng. Ở Việt Nam, tỷ lệ mẹ
bị sẩy thai từ 8 - 12% [2; 3].
Nguyên nhân của bất thường sinh sản là
do di truyền, do tác động của các tác nhân vật
lý, hóa học và sinh vật học. Ở Việt Nam, ngoài
các nguyên nhân như các nước, ở một số
vùng còn chịu ảnh hưởng của chất độc hóa
học trong chiến tranh [3]. Ở Việt Nam, tỷ lệ bất
thường sinh sản nói chung hay từng loại bất
thường sinh sản nói riêng trong các nghiên
cứu có thể khác nhau (do cỡ mẫu, cách chọn
mẫu, phương pháp điều tra, cách đánh giá...)
nhưng tất cả các tác giả đều thống nhất: tỷ lệ
bất thường sinh sản ở vùng đã từng nhiễm
chất độc hóa học trong chiến tranh đều cao
hơn so với vùng không bị ô nhiễm. Có nhiều
dự án can thiệp, nhưng tỷ lệ bất thường sinh
sản vẫn còn ở mức cao. Phù Cát - Bình Định
có sân bay Phù Cát, là nơi chứa chất độc hóa
học trong chiến tranh; huyện Phù Cát cũng là
nơi bị rải chất độc hóa học trong chiến tranh.
Nghiên cứu của Trịnh Văn Bảo và cộng sự
(2006) ở một số xã xung quanh sân bay Phù
Cát: tỷ lệ mẹ bị sẩy thai: 8,7%, nghiên cứu cho
thấy tỷ lệ sẩy thai ở đây cao hơn so với các
nơi khác [3]. Tuy nhiên, tình hình bất thường
sinh sản luôn thay đổi theo thời gian, đồng
thời nghiên cứu này cũng chỉ tập trung vào
vùng gần sân bay. Xuất phát từ những lí do
trên, nghiên cứu đã được tiến hành nhằm mục
tiêu xác định tỷ lệ sẩy thai và một số yếu tố
liên quan ở huyện Phù Cát - Bình Định.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng: tất cả phụ nữ trong độ tuổi
sinh sản (tuổi từ 15 - 49) và đã từng có thai tại
huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
2. Phương pháp
Địa chỉ liên hệ: Trương Quang Đạt, Trường Cao đẳng Y tế
Bình Định
Email: bstruongquangdat@yahoo.com
Ngày nhận: 25/02/2013
Ngày được chấp thuận: 20/6/2013
TCNCYH 83 (3) - 2013 145
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
- Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả
mô tả cắt ngang nhằm xác định tỷ lệ sẩy thai
và một số yếu tố liên quan ở huyện Phù Cát -
Bình Định .
- Phương pháp thu thập thông tin: sử
dụng phiếu điều tra theo hộ gia đình bằng
cách hỏi đáp trực tiếp.
- Cỡ mẫu: được tính theo công thức:
Trong đó: p là tỷ lệ mẹ có bị sẩy thai =
8,7% (Theo Trịnh Văn Bảo và cộng sự (2006),
tỷ lệ mẹ bị sẩy thai ở Phù cát năm 2002 là
8,7%) [3]. d: sai số tuyệt đối và DE: hệ số thiết
kế mẫu = 2. Cỡ mẫu điều tra là 6,600 bà mẹ.
- Chọn mẫu: Áp dụng kỹ thuật chọn mẫu
30 cụm ngẫu nhiên đối với 118 thôn của
huyện. Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn
các phụ nữ vào diện nghiên cứu.
- Xử lý thông tin
Nhóm tuổi mẹ khi sẩy thai: để tính toán tỷ
lệ sẩy thai theo nhóm tuổi của mẹ khi sẩy thai,
chúng tôi xác định tuổi của người mẹ ở lần
sẩy thai đầu tiên và phân nhóm độ tuổi khi
mang thai theo nhóm 5 năm.
Phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: Khi tìm
hiểu các yếu tố liên quan giữa phơi nhiễm
thuốc bảo vệ thực vật với tình trạng sẩy thai,
chúng tôi sử dụng biến định tính (có hay
không có phơi nhiễm trước và trong thời gian
mang thai một hoặc nhiều hơn một loại thuốc
bảo vệ thực vật có trong danh mục được quy
định tại Thông tư 10 của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn) [4].
Hút thuốc lá thụ động: Chúng tôi sử dụng
khái niệm hút thuốc lá được sử dụng trong
Báo cáo kết quả điều tra Y tế Quốc gia 2001-
2002 [5]: người đã từng hút trên 100 điếu
thuốc trong cả cuộc đời và trung bình hút trên
7 điếu trong 1 tuần được coi là người có hút
thuốc. Người không hút thuốc là người chưa
bao giờ hút thuốc hoặc hút dưới 100 điếu
thuốc trong cuộc đời. Một điếu thuốc lá được
tính tương đương với một điếu thuốc lào. Khi
phân tích mối liên quan giữa hút thuốc lá thụ
động và tình trạng sẩy thai, chúng tôi chỉ sử
dụng biến định tính có hay không có hút thuốc
lá thụ động.
3. Phương pháp xử lý số liệu: sử dụng
phần mềm Stata 10.0.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đều tuân thủ nghiêm ngặt các
quy định, nguyên tắc, chuẩn mực về đạo đức
nghiên cứu y sinh học của Việt Nam, phù hợp
với các chuẩn mực chung của Quốc tế.
Nghiên cứu không gây nguy hiểm và tác dụng
xấu đến đối tượng nghiên cứu. Tất cả các đối
tượng đều tự nguyện tham gia.Tất cả các số
liệu thu thập được nếu mang tính chất cá
nhân đều được giữ bí mật. Nội dung nghiên
cứu đã được Hội đồng khoa học kỹ thuật tỉnh
Bình Định thông qua.
III. KẾT QUẢ
Bảng 1 cho thấy số các bà mẹ bị sẩy thai
là 9,58%, trong đó chủ yếu là sảy thai 1 lần
(7,92%). Tỷ lệ các bà mẹ có sảy thai 2 lần và
3 lần là ít hơn rất nhiều (1,27% và 0,38%).
Bảng 2 cho thấy tỷ lệ sẩy thai ở mang thai
lần thứ 1 là 3,64%; ở lần mang thai thứ 2 là
3,42%; ở lần mang thai thứ 3 là 5,53%. Các
lần mang thai từ thứ 3 trở lên có xu hướng
tăng cao.
Trong số 6,600 phụ nữ được điều tra có ít
nhất một lần mang thai và đã kết thúc thai kỳ.
Trong lần mang thai đầu tiên có 240 phụ nữ bị
sẩy thai. Ở đây chúng tôi chỉ phân tích một số
yếu tố liên quan đến sẩy thai ở lần mang thai
đầu tiên.
n = Z2(1-α/2)
p (1 - p)
d2
x DE
146 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 1. Tỷ lệ phụ nữ sẩy thai và số lần sẩy thai
Bảng 2. Tỷ lệ sẩy thai ở các lần mang thai
Đặc điểm Tần số (n = 6.600) %
Phụ nữ không bị sẩy thai 5,968 90,42
Phụ nữ bị sẩy thai 632 9,58
Trong đó
Sẩy thai 1 lần 523 7,92
Sẩy thai 2 lần 84 1,27
Sẩy thai từ 3 - 5 lần 25 0,38
Lần mang thai Số phụ nữ có thai Số phụ nữ bị sẩy thai %
1 6,600 240 3,64
2 5,533 189 3,42
3 3,145 174 5,53
4 1,356 107 7,89
5 494 37 7,49
6 156 15 9,62
7 49 7 14,29
8 13 2 15,38
9 4 1 25,00
Tổng 17.350 772 4,45
So sánh
(OR2-3 = 5,1; 95% CI: 3,1 - 8,2); (OR3-4 = 7; 95% CI: 4 - 12,3);
(OR4-5 = 15; 95% CI: 6,4 - 35,3);
(OR5-6 = 102,3; 95% CI: 32,2 - 324,6)
Bảng 3 cho thấy có 4 biến: tuổi mẹ, trình độ học vấn, tình trạng hút thuốc lá thụ động và phơi
nhiễm với thuốc bảo vệ thực vật. Tuổi mẹ có thai lần đầu được phân theo nhóm 5 tuổi; nhóm
dưới 20 tuổi có tỷ lệ sẩy thai cao nhất 3,86% và nhóm 30 - 34 tuổi có tỷ lệ sẩy thai thấp nhất
2,7%. Trình độ hoc vấn được chia theo 3 nhóm tiểu học, trung học và sau trung học phổ thông; tỷ
lệ sẩy thai ở phụ nữ có trình độ tiểu học 3,31%. Phụ nữ hút thuốc lá thụ động có tỷ lệ sẩy thai
4,21%; phơi nhiễm với thuốc bảo vệ thực vật có tỷ lệ sẩy thai 4,68%.
TCNCYH 83 (3) - 2013 147
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến sẩy thai ở lần mang thai thứ nhất
Đặc trưng Tình trạng
Bị sẩy thai Không bị sẩy thai
n % n %
Tuổi lúc
sẩy thai
< 20 tuổi 28 3,86 698 96,14
> 0,05
20 - 24 tuổi 147 3,73 3,790 96,27
25 - 29 tuổi 52 3,44 1,459 96,56
30 - 34 tuổi 10 3,17 305 96,83
> 34 tuổi 3 2,7 108 97,3
Trình độ
học vấn
Tiểu học 56 3,31 1,694 96,69
> 0,05 Trung học 166 3,75 4,258 96,25
Trên phổ
thông 16 3,77 408 96,23
Hút thuốc lá
thụ động
Có 160 4,21 3,636 95,79
< 0,05
Không 80 2,85 2,724 97,15
Phơi nhiễm
thuốc bảo vệ
thực vật
Có 99 4,68 2,015 95,32
< 0,05
Không 141 3,14 4,345 96,86
p
IV. BÀN LUẬN
Huyện Phù Cát - Bình Định, trong thời gian
chiến tranh bị rải chất độc hóa học với mật độ
rất cao, nhất là vùng hồ Hội Sơn và vùng núi
Bà, đồng thời lại có sân bay Phù Cát là nơi
chứa chất độc hóa học và nơi máy bay thực
hiện các phi vụ rải chất độc hóa học trong
chiến tranh. Như vậy nguy cơ phơi nhiễm với
chất độc hóa học trong chiến tranh của người
dân huyện Phù Cát có thể do tồn lưu chất độc
hóa học trong chiến tranh tại sân bay hoặc từ
các vùng bị rải. Trong năm 2002 - 2003 có
một điều tra tại Phù Cát, cách chọn mẫu thuận
tiện và khảo sát 8 xã xung quanh sân bay và
vùng Hội Sơn. Nghiên cứu của chúng tôi thực
hiện vào cuối năm 2011 và trên diện rộng với
30 cụm trên toàn huyện. Kết quả tỷ lệ mẹ bị
sẩy thai 9,58%. Tỷ lệ mẹ bị sẩy thai 9,58%,
cao hơn 8,7% so với khảo sát 8 xã vào những
năm 2002 (của Trịnh Văn Bảo). Một điều tra
vào năm 2002, tỷ lệ sẩy thai ở Đà Nẵng là
3,57% và ở Thái Bình là 2,84% [3]. Như vậy,
tỷ lệ sẩy thai ở Phù Cát cao hơn so với kết
quả một số nơi ở Việt Nam. Có 2 lý do giải
thích các tỷ lệ này là sự điều tra ở 2 thời điểm
khác nhau (10 năm), thứ 2 là diện điều tra
rộng hơn. Tuy nhiên các tỷ lệ cao có thể cho
thấy giả thuyết về sự tồn tại các yếu tố liên
quan đến sẩy thai ở Phù Cát mà yếu tố môi
trường cần xem xét đến.
Khi nghiên cứu mối liên quan giữa độ tuổi
người vợ khi mang thai và nguy cơ gây sẩy
thai, hầu hết các tác giả đều cho rằng tỷ lệ sẩy
thai tăng lên ở những người vợ cao tuổi, đặc
biệt là từ 35 tuổi trở lên [6]. Bảng 3 cho thấy
chưa có mối liên quan giữa tuổi mẹ có thai lần
đầu và tình trạng sẩy thai; tuy nhiên ở bảng 2
cho thấy tỷ lệ sẩy thai tăng cao từ lần mang
148 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
thai thứ 3 trở đi với p < 0,05, điều này có thể
lý giải là chúng tôi chỉ phân tích ở lần mang
thai đầu tiên nên số phụ nữ mang thai lần đầu
ở tuổi từ 35 trở lên rất thấp nên mối liên quan
chưa được thể hiện rõ. Trong nghiên cứu này
chúng tôi còn nhận thấy tỷ lệ sẩy thai trong
nhóm những người vợ mang thai dưới 20 tuổi
(3,86%) cũng cao hơn so với những người vợ
mang thai ở độ tuổi từ 20 đến 34 tuy nhiên
không có ý nghĩa thống kê. Có thể lý giải rằng
ở những người vợ dưới 20 tuổi, do cơ thể
chưa phát triển một cách hoàn thiện để có thể
mang thai một cách tốt nhất do đó dễ gây ra
sẩy thai. Ngoài ra công việc chưa ổn định,
chưa sẵn sàng về mặt tâm lý, về kinh tế cho
việc sinh con... có thể cũng góp phần làm tăng
tỷ lệ sẩy thai ở những người vợ trẻ tuổi này.
Nghiên cứu của Katz J. và cộng sự ở vùng
nông thôn của Nepal (2009) cho thấy phụ nữ
trẻ dưới 18 tuổi có nguy cơ bị sẩy thai [7]. Phụ
nữ có trình độ học vấn bậc trên trung học có
tỷ lệ sẩy thai 3,77% cao hơn ở phụ nữ có bậc
học thấp hơn, tuy nhiên không có ý nghĩa
thống kê (p > 0,05).
Ảnh hưởng của hút thuốc thụ động đến
sẩy thai cũng đã được một số tác giả nghiên
cứu [8, 9, 10]. Kết quả nghiên cứu của các tác
giả này đều cho thấy có mối liên quan giữa
hút thuốc thụ động và nguy cơ sẩy thai. Thực
trạng hút thuốc lá khá phổ biến ở đàn ông Phù
Cát và tỷ lệ phụ nữ sống trong hộ gia đình bị
phơi nhiễm với khói thuốc lá do tình trạng hút
thuốc lá thụ động là khó tránh khỏi. Tỷ lệ sẩy
thai ở nhóm phơi nhiễm khói thuốc lá 4,21%
cao hơn nhóm không phơi nhiễm với p < 0,05.
Trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ phân tích mối
liên quan ở biến định tính mà chưa có điều
kiện đi sâu phân tích số lượng thuốc lá hút
mỗi ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy hành vi hút thuốc của người chồng
và các thành viên trong gia đình khi người vợ
mang thai đều có thể làm tăng nguy cơ bị sẩy
thai. Kết quả này phù hợp với kết quả nghiên
cứu của Blanco-Munoz, J., L. Torres-Sanchez
và L. Lopez-Carrillo (2009) [11] và Cupul -
Uicab L. A. và cộng sự (2011) [8].
Các loại thuốc bảo vệ thực vật được sử
dụng trong nông nghiệp ngày càng phong phú
và số lượng hóa chất được sử dụng hàng
năm cũng không ngừng tăng lên. Tất cả các
nghiên cứu về thuốc bảo vệ thực vật đều
không thể phủ nhận tác hại của nó đến sức
khỏe con người đặc biệt là sức khỏe sinh sản.
Tác hại của thuốc bảo vệ thực vật đối với sức
khỏe con người có thể biểu hiện ngay sau khi
tiếp xúc hoặc rất lâu sau đó phụ thuộc vào loại
thuốc, liều lượng và thời gian tiếp xúc [12].
Trong nghiên cứu, chúng tôi chỉ phân tích mối
liên quan ở biến định tính là có hay không
phơi nhiễm thuốc bảo vệ thực vật với sẩy thai
mà chưa có điều kiện đi sâu phân tích với
từng loại thuốc bảo vệ thực vật cụ thể; nhận
thấy tỷ lệ sẩy thai ở nhóm có phơi nhiễm với
thuốc bảo vệ thực vật cao hơn so với nhóm
không phơi nhiễm một cách có ý nghĩa thống
kê với p < 0,05. Kết quả nghiên cứu cho thấy
tỷ lệ sẩy thai tăng lên theo thứ tự của lần
mang thai, càng mang thai nhiều lần thì nguy
cơ bị sẩy thai của người phụ nữ càng tăng lên
với OR khá cao. Theo chúng tôi, những lý do
làm cho tỷ lệ sẩy thai tăng lên theo số lần
mang thai của người phụ nữ là độ tuổi khi
mang thai của người chồng và người vợ tăng
lên; người phụ nữ bị giảm sút sức khỏe sau
những lần mang thai trước đó; tăng hiệu giá
kháng thể của mẹ trong những trường hợp có
bất đồng nhóm máu giữa mẹ và thai.
V. KẾT LUẬN
Tỷ lệ mẹ bị sẩy thai ở Phù Cát 9,58%.
Tỷ lệ bà mẹ sẩy thai tăng theo số lần mang
thai. Có một số yếu tố liên quan đến sẩy thai ở
TCNCYH 83 (3) - 2013 149
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
lần mang thai đầu tiên là tình trạng hút thuốc lá
thụ động và phơi nhiễm với thuốc bảo vệ thực
vật.
Lời cảm ơn
Nhóm tác giả chúng tôi chân thành cảm ơn
cố giáo sư tiến sỹ Trịnh Văn Bảo, Viện Y học
dự phòng và Y tế công cộng - Trường Đại học
Y Hà Nội đã cho chúng tôi ý tưởng và hướng
dẫn khoa học để thực hiện nghiên cứu; cảm
ơn Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định đã cung
cấp kinh phí; cảm ơn Trung tâm Y tế huyện
Phù Cát đã tạo điều kiện thuận lợi để chúng
tôi thực hiện.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2009). Chuẩn quốc gia về sức
khỏe sinh sản. Hà Nội.
2. Đào Quang Vinh, (2000). Khả năng ảnh
hưởng của môi trường (đất, nước) lên sức
khỏe bệnh tật của phụ nữ tuổi sinh đẻ tại xã
Nam Sơn - Sóc Sơn - Hà Nội. Luận văn Thạc
sĩ Y học Trường Đại học Y Hà Nội.
3. Trịnh Văn Bảo và cộng sự (2006). Tư
vấn di truyền: biện pháp hạn chế sinh con dị
tật bẩm sinh. Tạp chí độc học, 2, 14 - 21.
4. Bộ Nông nghiệp va Phát triển nông
thôn (2012). Thông tư số 10/2012/BNNPTNT
ngày 22 tháng 2 năm 2012 về việc ban hành
Danh mục thuốc bảo vệ thực vật được phép
sử dụng được phép sử dụng, hạn chế sử
dụng, cấm sử dụng ở Việt Nam.
5. Bộ Y tế và Tổng cục Thống kê (2003).
Báo cáo kết quả điều tra Y tế Quốc gia 2001-
2002. Nhà xuất bản Y học Hà Nội.
6. Minoo Rajaee et al (2010). The Effect of
Maternal Age on Pregnancy Outcome. Asian
Journal of Medical Sciences, 2(3), 159 - 162.
7. Katz J. et al (2009). Miscarriage but not
stillbirth rates are higher among younger nul-
liparas in rural Southern Nepal. J Adolesc
Health, 42(6), 587 - 595.
8. Cupul Uicab, L. A. et al (2011). In utero
exposure to maternal smoking and women's
risk of fetal loss in the Norwegian Mother and
Child Cohort (MoBa). Hum Reprod, 26(2),
458 - 465.
9. Dechanet C. et al (2010). Effects of cig-
arette smoking on reproduction. Hum Reprod
Update, 17(1), 76 - 95.
10. Meeker J.D. et al (2007). Risk of
spontaneous abortion in women with
childhood exposure to parental cigarette
smoke. Am J Epidemiol, 166(5), 571 - 575.
11. Blanco-Munoz J., L. Torres Sanchez
and L. Lopez Carrillo (2009). Exposure to
maternal and paternal tobacco consumption
and risk of spontaneous abortion. Public
Health Rep, 124(2), 317 - 322.
Summary
RISK FACTORS RELATED TO SPONTANEOUS ABORTION
IN PHU CAT - BINH DINH
Samples were selected by PPS and single random method. We conducted a cross-sectional
survey in 6.600 pregnant women from 15 to 49 years old, in 30 villages from 18 communes and
townships of Binh Dinh Phu Cat - in 1/2012. The results showed that there are 9.58% of sponta-
neous abortion The proportion of spontaneous abortion increases with the 3rd pregnancy; the
proportion of spontaneous abortion is 5.53% at the 3rd pregnancy 7/89 % at the 4th pregnancy
150 TCNCYH 83 (3) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
(OR3-4 = 7; 95% CI: 4 - 12.3). The proportion of spontaneous abortion in women with passive
smoking is 4.2%; in women without passive smoking was 2.81% (p < 0.05). The proportion of
spontaneous abortion in women exposed to pesticides is 4.68%; in women without exposure is
3.14% (p < 0.05).
Key words: spontaneous abortion, pesticides, passive smoking
Các file đính kèm theo tài liệu này:
ty_le_say_thai_va_mot_so_yeu_to_lien_quan_den_say_thai_o_huy.pdf