Trên đây là nội dung cơ bản trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức và phẩm chất của người lãnh
đạo. Những tư tưởng đó cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị. Trong cuộc vận
động Học tập và là theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, cán bộ công chức và
nhất là cán bộ lãnh đạo cần nhận thức
sâu sắc tư tưởng của Người về đạo đức
công chức và phẩm chất của người lãnh
đạo, đồng thời từ nhận thức phải đi tới
hành động cụ thể theo đúng tư tưởng
của Người.
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 525 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức và phẩm chất của người lãnh đạo, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014
12
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC CÔNG CHỨC
VÀ PHẨM CHẤT CỦA NGƯỜI LÃNH ĐẠO
TRƯƠNG QUỲNH HOA *
Tóm tắt: Bài viết phân tích tư tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức công
chức và phẩm chất của người lãnh đạo. Chuẩn mực đạo đức công chức là: tuyệt
đối trung thành với sự nghiệp cách mạng; thành thạo công việc; có mối liên hệ
mật thiết với nhân dân; dám phụ trách, dám quyết đoán, dám chịu trách nhiệm.
Phẩm chất của người lãnh đạo là: cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có
tinh thần trách nhiệm cao với công việc; chấp hành nghiêm kỷ luật; có tinh
thần sáng tạo trong thi hành công vụ; có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn phấn đấu
trong công việc.
Từ khóa: Hồ Chí Minh; đạo đức công vụ; phẩm chất công chức.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo
đức công chức
Về văn hóa chính trị trong tư tưởng
Hồ Chí Minh, cần đặc biệt chú ý vấn đề
tiêu chuẩn cán bộ công chức nhà nước,
nhất là công chức lãnh đạo. Theo Người
tiêu chuẩn đó là phải vừa hồng vừa
chuyên, nghĩa là phải có đủ cả đức và
tài, trong đó, đức là gốc. Vấn đề có ý
nghĩa quyết định là xây dựng được đội
ngũ cán bộ công chức lãnh đạo trong
sạch, có bản lĩnh chính trị và tinh thần
trách nhiệm cao, có năng lực quản lý,
lãnh đạo, thành thạo chuyên môn nghiệp
vụ. Để xây dựng và nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức cần cải cách
và hoàn thiện chế độ công vụ, quy chế
cán bộ; coi trọng cả năng lực và tinh
thần phục vụ nhân dân; đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, trước hết là cán bộ lãnh
đạo, quản lý về đường lối, chính sách,
về kiến thức và kỹ năng quản lý nhà
nước, quản lý kinh tế - xã hội trong điều
kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc
tế; xắp xếp lại đội ngũ cán bộ, công
chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn,
thực hiện tinh giản biên chế; ban hành
các thể chế và tổ chức kiểm tra, kê khai
tài sản của cán bộ;(*)quy định chặt chẽ
chế độ tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo,
quản lý. Quy định rõ chế độ trách nhiệm
của tập thể và cá nhân cán bộ chủ chốt
trong việc chống tham nhũng, lãng phí,
sách nhiễu dân. Những yêu cầu cụ thể
về tiêu chuẩn của người cán bộ, công
chức, đặc biệt là công chức lãnh đạo,
theo quan điểm Hồ Chí Minh là những
chỉ dẫn vô cùng quý báu và cần thiết
(*) Thạc sĩ, Học viện Hành chính quốc gia.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức...
13
cho chúng ta trong giai đoạn hiện nay,
nhất là trong việc phát triển nguồn nhân
lực lãnh đạo, gắn với công cuộc cải cách
hành chính và đổi mới tổ chức, hoạt
động của bộ máy nhà nước. Đó là:
- Phải tuyệt đối trung thành với sự
nghiệp cách mạng. Đây là đội ngũ những
người ăn lương nhà nước, là người của
bộ máy nhà nước, mà Nhà nước ta là
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Vì thế cho nên đối với họ
trung thành là yêu cầu đầu tiên cần phải
có. Trong bài “Đạo đức cách mạng”
năm 1958, Hồ Chí Minh viết: “nói tóm
tắt thì đạo đức cách mạng là: quyết tâm
suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng, đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức
làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của
Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính
sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và
của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân mình.
Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì
Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình,
gương mẫu trong mọi việc. Ra sức học
tập chủ nghĩa Mác - Lênin, luôn dùng tự
phê bình và phê bình để nâng cao tư
tưởng và cải tiến công tác của mình và
cùng đồng chí mình tiến bộ”(1).
- Thành thạo công việc. Làm bất cứ
việc gì, làm bất cứ ở đâu mà không
thành thạo sẽ gây ra tác hại lớn. Đặc
biệt, trong bộ máy nhà nước với hoạt
động liên quan đến toàn bộ đời sống xã
hội, sự không thạo việc sẽ dẫn đến tác
hại khôn lường. Hồ Chí Minh nói: “cần
tiếp tục học tập nâng cao giác ngộ xã
hội chủ nghĩa. Có nâng cao giác ngộ xã
hội chủ nghĩa thì sau này mới tránh
được nhiều sai lầm khác... Kỹ thuật hiện
nay càng ngày càng tiến, không gắng
học tập thì sẽ lạc hậu”(2).
- Phải có mối liên hệ mật thiết với
nhân dân. Đây là yêu cầu tất yếu, là hệ
quả của toàn bộ tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng một Nhà nước của dân, do
dân, vì dân. Hồ Chí Minh viết: “Đạo
đức cách mạng là hoà mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng,
hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng. Do lời nói và việc làm,
đảng viên, đoàn viên và cán bộ làm cho
dân tin, dân phục, dân yêu”(3).
- Cán bộ, công chức nhà nước phải
dám phụ trách, dám quyết đoán, dám
chịu trách nhiệm, nhất là trong những
tình huống khó khăn; thất bại không
hoang mang, thắng lợi không kiêu ngạo.
Hồ Chí Minh viết: “Cán bộ và đảng viên
cần nâng cao tinh thần phụ trách trước
Đảng và trước quần chúng, hết lòng, hết
sức phục vụ nhân dân”; phải “chí công
vô tư”; “lo trước thiên hạ, vui sau thiên
hạ”(4).
Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm
gương mẫu mực về đạo đức cách mạng
của người cán bộ, là một nhân cách
(1) Hồ Chí Minh (1996), Toàn tập, t. 9, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 285.
(2) Sđd, t. 9,tr. 390.
(3) Sđd, t. 9, tr. 291.
(4) Sđd, t. 12, tr. 311 - 312.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014
14
thanh cao, tận tụy vì dân vì nước. Theo
Người, đạo đức của người cách mạng
không phải là những giáo điều nói suông
mà phải là đạo đức của hành động: “Đạo
đức cách mạng không phải từ trên trời
sa xuống. Nó do đấu tranh rèn luyện bền
bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố.
Cũng như ngọc càng mài càng sáng,
vàng càng luyện càng trong”(5).
Sau Cách mạng Tháng Tám năm
1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa ra đời. Hiến pháp đầu tiên năm 1946
đã ghi nhận ý tưởng sâu sắc của Hồ Chí
Minh về thiết lập một nền công vụ mạnh
mẽ, sáng suốt của dân, hoạt động vì
nhân dân và chịu sự kiểm soát, bãi miễn
của nhân dân; một nền công vụ hiện đại,
dân chủ, có hiệu lực từ Trung ương đến
cơ sở. Ngay từ khi ra đời, nền công vụ
Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam đã được xây dựng
theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí
Minh - một nền công vụ dân chủ, thân
dân, trọng dân, quý dân. Nền công vụ ấy
đã quản lý có hiệu quả mọi hoạt động
trong vùng tự do thời chống Pháp, trên
phạm vi miền Bắc sau năm 1954, ở
vùng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
và những năm đầu khi cả nước bước vào
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Cho đến hôm nay, khi đất nước bước
vào thời kỳ đổi mới, phát triển, hội nhập
quốc tế thì những lời dạy của Hồ Chí
Minh về một nền công vụ vì dân vẫn
còn nguyên giá trị. Để xây dựng được
nền công vụ đó, đội ngũ cán bộ, công
chức cần có những chuẩn mực đạo đức
công vụ thể hiện trong các hành vi cụ
thể của mỗi cán bộ, công chức. Đạo đức
công vụ có những quy tắc, chuẩn mực,
nguyên tắc bắt buộc mỗi cán bộ, công
chức phải tuân thủ.(5)
2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về phẩm
chất của cán bộ, công chức lãnh đạo
Trong bất kỳ Nhà nước nào cũng có
những chuẩn mực đạo đức công vụ và
tiêu chí về phẩm chất của nhà lãnh đạo.
Ngoài những nội dung, chuẩn mực
tương tự như nhau, tuỳ theo đặc điểm về
văn hoá, tâm lý, xã hội..., mỗi nước có
những chuẩn mực và tiêu chí riêng. Mặt
khác, do đặc trưng mỗi công việc trong
nền công vụ khác nhau, hệ giá trị mà
mỗi nghề nghiệp hướng tới là không
giống nhau nên chuẩn mực đạo đức và
phẩm chất lãnh đạo của mỗi nghề sẽ
khác nhau trong những tiêu chí cụ thể
hoặc mức độ yêu cầu đối với mỗi chuẩn
mực có thứ bậc ưu tiên khác nhau. Ở
nước ta, theo tư tưởng Hồ Chí Minh,
phẩm chất của người lãnh đạo được thể
hiện trong những nguyên tắc đạo đức,
chuẩn mực cơ bản sau:
Một là: cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư. Theo Hồ Chí Minh, để
phụng sự đoàn thể, giai cấp, nhân dân và
Tổ quốc ngày càng tốt hơn thì mọi
người đều phải cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Người nói: “anh em viên
chức bây giờ cần có bốn đức tính là cần,
(5) Sđd, t. 10, tr. 293.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức...
15
kiệm, liêm, chính”(6); “những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít
quyền hành. Nếu không giữ đúng cần,
kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên hủ bại,
biến thành sâu mọt của dân”(7). Người
cán bộ, công chức, lãnh đạo hưởng
lương từ ngân sách nhà nước, tức là từ
sự đóng góp của nhân dân. Nhân dân trả
công cho cán bộ để phục vụ họ thì cán
bộ phải cố gắng làm để phục vụ ngày
càng tốt hơn cho nhân dân. Hồ Chí
Minh căn dặn: “Cơm chúng ta ăn, áo
chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng,
đều do mồ hôi, nước mắt của nhân dân
mà ra. Vì vậy, chúng ta phải đền bù
xứng đáng cho nhân dân. Muốn làm như
vậy, chúng ta phải cố gắng thực hành
cần, kiệm, liêm, chính”(8). Người cán bộ,
công chức, lãnh đạo làm việc công, tiêu
tiền công, lại có ít nhiều quyền hành nếu
không có ý thức, tinh thần cao thì rất dễ
hủ bại.
Theo Hồ Chí Minh, sở dĩ có nạn tham
ô và lãng phí là do bệnh quan liêu của
người lãnh đạo. Vì mắc bệnh quan liêu
nên có mắt mà không thấy suốt, có tai
mà không nghe thấu, có chế độ mà
không giữ đúng, có kỷ luật mà không
nắm vững. Tham ô, lãng phí và bệnh
quan liêu đi liền với nhau, trong đó quan
liêu tạo điều kiện cho tham ô, lãng phí
nảy nở và phát triển. Vì vậy, phải chống
quan liêu, phải đặt lợi ích dân chúng lên
trên hết, người lãnh đạo phải gần gũi
dân, hiểu biết dân, học hỏi dân, phải
thực hành phê bình và tự phê bình, phải
làm kiểu mẫu: cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“chiến sĩ thì hy sinh xương máu, đồng
bào thì hy sinh mồ hôi nước mắt để
đóng góp. Mà những kẻ tham ô, lãng phí
và quan liêu thì phá hoại tinh thần, phí
phạm sức lực, tiêu hao của cải của chính
phủ và của nhân dân. Tội lỗi ấy cũng
nặng như tội lỗi Việt gian, mật thám”(9).
Chống lại kẻ địch này (“giặc nội xâm”)
còn khó khăn, phức tạp, quyết liệt hơn
so với đánh giặc ngoại xâm.
Những tư tưởng về thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí của người
lãnh đạo mà Hồ Chí Minh nêu ra tuy
cách đây đã hơn 60 năm nhưng trong
tình hình thực tế nước ta hiện nay vẫn
có giá trị thực tiễn sâu sắc. Kinh tế thị
trường bên cạnh những mặt mạnh, có
nhiều tác động có hại. Đó là: khát vọng
làm giàu bằng mọi cách, tâm lý chạy
theo lợi nhuận tối đa, coi trọng giá trị
đồng tiền một cách mù quáng. Mặt trái
của kinh tế thị trường kích thích thói ích
kỷ, tự tư, tự lợi, đặt lợi ích cá nhân và
gia đình lên trên lợi ích của tập thể và xã
hội. Nó sinh ra thói dối trá, gian xảo, lừa
lọc, thực dụng, lối sống coi trọng vật
chất của xã hội tiêu thụ... Những tệ nạn
này là nguy cơ “tự diễn biến” từ bên
trong, không thể coi thường. Nguyên
(6) Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, t. 4, tr. 158 - 159.
(7) Sđd, t. 5, tr. 104.
(8) Sđd, t. 7, tr. 392.
(9) Sđd, t. 6, tr. 490.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014
16
nhân chủ yếu là do chủ nghĩa cá nhân;
do cán bộ, đảng viên, đặc biệt là người
lãnh đạo thiếu tu dưỡng, rèn luyện về
phẩm chất, đạo đức; tự phê bình, phê
bình và sửa chữa khuyết điểm chưa
nghiêm túc; đấu tranh chống các tệ nạn
xã hội chưa quyết liệt; nói chưa đi đôi
với làm. Những tệ nạn này tạo điều kiện
cho các thế lực thù địch công kích, lợi
dụng để gây sức ép, chống phá Đảng và
công cuộc xây dựng đất nước.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư có mối quan hệ biện chứng, gắn bó
mật thiết với nhau. Theo Hồ Chí Minh:
“Cần và Kiệm, phải đi đôi với nhau, như
hai chân của con người. Cần mà không
Kiệm “thì làm chừng nào xào chừng
ấy”... Kiệm mà không Cần thì không
tăng thêm, không phát triển được”;
“Chữ Liêm phải đi đôi với chữ Kiệm.
Cũng như chữ Kiệm phải đi đôi với chữ
Cần. Có Kiệm mới có Liêm được. Vì xa
xỉ mà sinh tham lam”; “Cần, Kiệm,
Liêm, là gốc rễ của Chính. Nhưng một
cây cần có gốc rễ, lại cần có ngành, lá,
hoa, quả mới hoàn toàn. Một người có
Cần, Kiệm, Liêm, nhưng còn phải Chính
mới là người hoàn toàn”. Người cũng
nhấn mạnh: Cần, Kiệm, Liêm, Chính là
vô cùng quan trọng và cần thiết, là nền
tảng của đời sống mới, là cái cần để làm
việc, làm người, làm cán bộ, phụng sự
đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc
và nhân loại; là thước đo văn minh tiến
bộ của một dân tộc; một dân tộc biết
Cần, Kiệm, Liêm, Chính “là một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là
một dân tộc văn minh tiến bộ”.
Hai là, tinh thần trách nhiệm cao với
công việc. Hồ Chí Minh yêu cầu: “bất kỳ
ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp
hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần
trách nhiệm”(10). Người giải thích: “Tinh
thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng,
Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta việc
gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng
phải đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm
cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó
khăn, làm cho thành công. Làm một cách
cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó
bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy...
là không có tinh thần trách nhiệm”(11).
Là cán bộ không nên suy bì xem công
việc của mình có quan trọng hay không.
Công việc nào cũng cần thiết đối với
cách mạng. Vấn đề là ở chỗ khi đã làm
việc gì dù gặp khó khăn, trở ngại cũng
phải quyết tâm hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Vì vậy, Người luôn nhắc nhở: “đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được,
cho đến nơi đến chốn, không sợ khó
nhọc, không sợ nguy hiểm”(12).
Ba là, chấp hành nghiêm kỷ luật và
có tinh thần sáng tạo trong thi hành
công vụ. Mỗi người phải chấp hành
nghiêm những quy định của cơ quan,
của tổ chức. Theo Hồ Chí Minh, trước
mặt quần chúng, không phải ta cứ viết
(10) Sđd , t. 6, tr. 346.
(11) Sđd, t. 6, tr. 345.
(12) Sđd, t. 5, tr. 644.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức công chức...
17
lên trán hai chữ “cộng sản” là ta được
họ yêu mến. Mỗi cán bộ, công chức,
viên chức khi thi hành công vụ cần phải
gương mẫu về đạo đức, tự giác tuân thủ
kỷ luật của cơ quan, giữ vững nền nếp
công tác, tránh được những cám dỗ.
Tinh thần sáng tạo trong công việc
cũng là một chuẩn mực đạo đức mà
người cán bộ phải phát huy. Theo Hồ
Chí Minh, cán bộ phụ trách phải theo
đường lối chung nhưng cũng phải suy
nghĩ tìm tòi, có những sáng kiến riêng
của mình, theo tinh thần “tập thể lãnh
đạo, cá nhân phụ trách”, như thế công
việc mới “chạy” được.
Bốn là, có ý chí cầu tiến bộ, luôn luôn
phấn đấu trong công việc. Người lãnh
đạo phải luôn có chí tiến thủ, tinh thần
cầu tiến bộ. “Xã hội ngày càng tiến,
công tác của ta cũng ngày càng tiến... Vì
vậy, năng lực của ta, sáng kiến của ta,
tiến bộ của ta cũng phải luôn phát triển,
tiến lên không ngừng. Không tiến, tức là
thoái”(13). Tinh thần cầu tiến bộ, học tập
không ngừng là một yêu cầu cao đối với
mỗi cán bộ, công chức: “Mỗi một đồng
chí ta phải có thái độ khiêm tốn, càng
cựu, càng giỏi, càng phải khiêm tốn,
phải có lòng cầu tiến bộ, phải nhớ lấy
câu nói của ông thầy chúng ta. Tự mãn,
tự túc là co mình lại, không cho mình
tiến bộ thêm”(14).
Năm là, có tinh thần thân ái, hợp tác
với đồng nghiệp trong thực hiện công
việc. Mọi người cần đoàn kết thân mật,
hợp tác chặt chẽ với nhau thì công việc
mới hoàn thành được. Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Đối với đồng chí mình phải thế
nào? Thân ái với nhau, nhưng không che
đậy những điều dở. Học cái hay sửa
chữa cái dở. Không nên tranh giành ảnh
hưởng của nhau. Không nên ghen ghét
đố kỵ và khinh kẻ không bằng mình. Bỏ
lối hiếu danh, hiếu vị”(15). Nếu trong một
tập thể mà các thành viên có thành kiến
với nhau, dè dặt, đối phó với nhau, kèn
cựa lẫn nhau thì “nó làm cho trống đánh
xuôi kèn thổi ngược, nó làm cho công
tác bị tê liệt, hư hỏng”(16). Tuy nhiên,
thân ái, hợp tác ở đây không phải là bao
che khuyết điểm cho đồng nghiệp mà để
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ và kiên quyết
đấu tranh, ngăn chặn những hành vi vi
phạm kỷ luật trong thi hành công vụ và
trong cuộc sống.
Trên đây là nội dung cơ bản trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh về đạo đức
công chức và phẩm chất của người lãnh
đạo. Những tư tưởng đó cho đến nay
vẫn còn nguyên giá trị. Trong cuộc vận
động Học tập và là theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh, cán bộ công chức và
nhất là cán bộ lãnh đạo cần nhận thức
sâu sắc tư tưởng của Người về đạo đức
công chức và phẩm chất của người lãnh
đạo, đồng thời từ nhận thức phải đi tới
hành động cụ thể theo đúng tư tưởng
của Người.
(13) Sđd, t. 7, tr. 259.
(14) Sđd, t. 5, tr. 73 - 74.
(15) Sđd, t. 5, tr. 54 - 55.
(16) Sđd, t. 11, tr. 155.
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8(81) - 2014
18
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 23481_78570_1_pb_1025_2009692.pdf