Tư tưởng của Lép Tônxtôi về lẽ sống

Tuy nhiên, tư tưởng về lẽ sống, nhất là thế giới quan của L. Tônxtôi chưa được đặt trên cơ sở khoa học, nó hoàn toàn thiếu vắng quan điểm duy vật lịch sử. Khi mà C. Mác, người cùng thời với ông, và sau đó là V.I. Lênin, đã hiểu sự giải phóng tinh thần là “sự chuyển hoá của cái tinh thần, cái quan niệm thành cái hiện thực, là quá trình hiện thực hoá tư tưởng và ngược lại, thông qua thực tiễn của con người, loài người, thì L. Tônxtôi lại chỉ thấy cái tinh thần “tự” giải phóng, nghĩa là có tính “tự thân” của nó, để có thể nối kết với cái tinh thần khác và nhờ thế con người, loài người có thể nối kết với nhau. Vì vậy, tư tưởng của L. Tônxtôi không tránh khỏi bế tắc, thậm chí phi hiện thực, không hoàn toàn tích cực; chẳng hạn có lúc ông đã so sánh: “Tất cả chúng ta trên cõi đời này đều như những con ngựa bất kham, bị đặt vòng lên cổ, bị thắng vào cỗ xe. Thoạt đầu ta quẫy cựa, ta muốn sống chỉ cho mình, theo ý mình, ta bẻ gẫy càng xe, rứt đứt yên cương, nhưng không thoát ra được, chỉ làm mình mệt nhoài. Và chỉ khi ta đã mệt nhoài, đã quên đi về ý chí của mình, và tuân phục ý chí cao hơn và kéo xe đi - chỉ khi ấy ta mới tìm thấy sự bình yên và phúc lạc”22. Chính sự hạn chế về thế giới quan đã đưa L. Tônxtôi đến hiểu biết chưa thật chính xác về lẽ sống, nhất là lẽ sống, đường sống cơ bản chân chính của con người, loài người.

pdf8 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 447 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tư tưởng của Lép Tônxtôi về lẽ sống, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TƯ TƯỞNG CỦA LÉP TÔNXTÔI VỀ LẼ SỐNG PHẠM VĂN CHUNG* Lẽ sống không phải là một mặt hay một yếu tố nào đó của đời sống đạo đức, mà là một quan hệ, hơn nữa là một hệ thống những mối quan hệ cơ bản, bao trùm đời sống đạo đức con người. Do tính đa diện, đa chiều, rộng lớn và phức tạp của lẽ sống mà khi nói về những gì liên quan đến mục đích, lý tưởng, nguyên tắc sống hoặc về những phương châm, phương thức mà con người thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm của mình trong cuộc sống v.v.., người ta đều có thể quy chúng về lẽ sống hoặc xem đó chính là lẽ sống của con người. Cũng chính vì lý do ấy mà việc biểu hiện lẽ sống, quan hệ đạo đức hiện thực này trong nội dung một phạm trù đạo đức học vẫn còn những điều bất cập, về cơ bản chưa có được một quan điểm thống nhất. Trong một số giáo trình đạo đức học người ta đã đồng nhất lẽ sống với ý nghĩa cuộc sống, hoặc coi lẽ sống là sự thống nhất giữa nghĩa vụ và hạnh phúc v.v.. Vậy, quan niệm về lẽ sống như thế liệu có phù hợp với thực tế đời sống đạo đức không? Hay nói cách khác, cần giải đáp vấn đề lẽ sống, nhất là bản chất của nó như thế nào, nó có phải là ý nghĩa cuộc sống không, hay giữa lẽ sống và ý nghĩa cuộc sống có mối liên hệ như thế nào? Bài viết này sẽ không giải đáp những câu hỏi này về phương diện lý luận, đưa ra một định nghĩa khái niệm (phạm trù) lẽ sống, mà bằng cách phân tích, luận giải nội dung tư tưởng của Lép Tônxtôi về lẽ sống thể hiện trong tác phẩm “Đường sống” của ông.* Lép Tônxtôi – nhiều người vốn chỉ biết đến sự vĩ đại của ông trong tư cách một đại văn hào Nga và thế giới. Nhưng sự vĩ đại của L. Tônxtôi còn ở chỗ ông là một nhà tư tưởng, một triết gia theo đúng nghĩa của từ * TS. Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội này. Mới đây, Nhà xuất bản Tri thức Hà Nội đã dịch và cho ra mắt tập sách của L. Tônxtôi mang tên “Đường sống. Văn thư nghị luận chọn lọc” dày hơn một nghìn trang, trong đó thể hiện những tư tưởng, quan điểm của L. Tônxtôi về nhiều lĩnh vực như triết học, tôn giáo, giáo dục và đạo đức... Tên tập sách “Đường sống. Văn thư nghị luận chọn lọc” được đặt theo tên một tác phẩm cùng tên là “Đường sống” cũng nằm trong tập sách này. Tôi nhận thấy đây là tác phẩm quan trọng, thể hiện rõ tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống. Trong tập sách của L. Tônxtôi, tác phẩm “Đường sống” không được in đầy đủ, chỉ là tác phẩm trích, đặc điểm của tác phẩm là gồm nhiều chương với những đoạn khác nhau (khoảng 70 đoạn), được trình bày tách biệt nhau và có đánh số thứ tự trong từng chương, mỗi chương khoảng từ 6 đến 10 đoạn. Với đặc điểm này, bài viết không thể thực hiện sự phân tích theo cấu trúc logic của tác phẩm, mà lựa chọn cách tiếp cận là từ sự phân tích, luận giải những đoạn nhất định trong tác phẩm của L. Tônxtôi để vạch ra nội dung tư tưởng của ông về lẽ sống, nhất là về bản chất của lẽ sống. Đồng thời để tránh sự lặp lại nhiều, tôi chỉ chọn những luận điểm mà theo tôi là tiêu biểu, đặc trưng nhất trong các đoạn để xem xét. 1. Nói về lẽ sống nói chung, về mối liên hệ giữa thế giới quan và ý nghĩa cuộc sống, L. Tônxtôi viết: “Cuộc sống của con người và hạnh phúc của nó là ở sự hội nhập ngày một đầy đủ hơn của linh hồn, bị thân xác cách ly khỏi những linh hồn khác và khỏi Thượng đế, với những gì mà nó bị cách ly. Sự hội nhập ấy đạt được bằng cách linh hồn biểu lộ qua tình yêu, ngày một tự giải phóng khỏi thân xác. Vì vậy, ai hiểu được rằng, cả Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 18 cuộc sống lẫn hạnh phúc sống của nó là ở sự giải phóng linh hồn khỏi thân xác, thì cuộc sống của người ấy, bất chấp mọi tai hoạ, khổ đau và bệnh tật, không thể là cái gì khác, mà chỉ là một hạnh phúc không thể huỷ hoại”1. Có thể thấy, tư tưởng của Tônxtôi về lẽ sống nói chung thể hiện ở quan niệm cho rằng, đó là quá trình linh hồn của con người ngày một tự giải phóng khỏi thân xác để đến lượt nó lại hội nhập một cách ngày một đầy đủ hơn vào những tâm hồn và thể xác khác, vào Thượng đế. Thực ra, đây là một sự diễn đạt không thật sáng rõ một tư tưởng rất sâu sắc của Tônxtôi về lẽ sống của con người. Điều mà Tônxtôi gọi là “sự tự giải phóng của linh hồn khỏi thể xác” để con người có thể hội nhập đầy đủ với linh hồn khác và Thượng đế, có thể hiểu là quá trình con người bằng ý chí, tư tưởng, tình cảm (tình yêu) và nhận thức của mình chủ động sáng tạo ra thế giới mới, ra chính cuộc sống của mình, và thông qua đó, con người có thể liên kết nó với thế giới xung quanh, với những người khác, thành một thế giới tốt đẹp, hạnh phúc. Ở đây, lẽ sống hiện ra là toàn bộ hoạt động sống của của con người, hoạt động mà ở đó con người xác định rõ được mục đích, ý nghĩa cuộc sống lớn lao nhất, cuối cùng của mình và cố gắng hành động để đạt được mục đích ấy. Hiểu lẽ sống như thế cũng chính là coi lẽ sống như là “đường sống” của con người. Đó là con đường tự mình hoá thành mình trong một thế giới ngày càng tốt đẹp, hạnh phúc. Đúng là, nếu mọi người đều hiểu rằng lẽ sống của mình chính là ở chỗ dựa vào trí tuệ, đạo đức hay nói chung là vào đời sống tinh thần lành mạnh của mình mà sáng tạo ra một thế giới thật sự tốt đẹp, trong đó con người sống với nhau thật hoà thuận, thân ái, hạnh phúc, thì đó chính là một sự hiểu biết, một cái nhìn hết sức sâu sắc và chính xác về lẽ sống. Trong quan niệm nói trên của L. Tônxtôi về lẽ sống đã chứa đựng yếu tố thế giới quan rất rõ. Đó là quan niệm của ông về mối liên hệ giữa linh hồn (cái tinh thần) với thế giới bên ngoài và ý nghĩa của cái tinh thần đối với việc tạo dựng thế giới bên ngoài, đặc biệt là sự tạo dựng quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người; đó còn là quan niệm về xã hội, trong đó tồn tại mối liên hệ đặc trưng là liên hệ hữu cơ giữa người và người. Đồng thời, đối với L. Tônxtôi lẽ sống của con người không thể tách rời việc nhận thức được ý nghĩa cuộc sống của nó. Ý nghĩa ấy theo ông là ở chỗ, “ai hiểu được rằng cả cuộc sống lẫn hạnh phúc sống của nó là ở sự giải phóng linh hồn khỏi thân xác, thì cuộc sống của người ấy, bất chấp mọi tai hoạ, khổ đau và bệnh tật, không thể là cái gì khác, mà chỉ là một hạnh phúc không thể huỷ hoại”. Nói cách khác, ý nghĩa cuộc sống trong quan niệm của L. Tônxtôi là việc người ta thấy được, có được niềm hạnh phúc trong hoạt động sống và đặc biệt, khi ý nghĩa cuộc sống gắn liền với thế giới quan, thì hạnh phúc người ta có được là hạnh phúc lớn lao nhất, không thể huỷ hoại được. L. Tôn xtôi khẳng định: “Ai nhìn thấy cuộc sống của mình ở sự giải phóng cái tôi tinh thần khỏi thể xác, người ấy không thể bất mãn bởi cái nó mong muốn luôn được thực hiện”2. Bàn luận một cách sâu hơn về ý nghĩa cuộc sống trong mối liên hệ với thế giới quan, L. Tônxtôi cho rằng: “Đời người, đầy rẫy những khổ đau thân xác, bất cứ giây phút nào cũng có thể bị cắt đứt cái cuộc đời ấy để không phải là trò nhạo báng thô thiển nhất, phải có ý nghĩa nào đó để cho nó không bị huỷ hoại bởi những khổ đau, hay bởi sự sống lâu hay chết sớm”. “Và một ý nghĩa như thế có trong đời người. Ý nghĩa ấy - ở sự nhận thức đầy đủ hơn và hơn nữa Thượng đế trong ta”3. Có thể thấy rõ trong luận điểm này, L. Tônxtôi nhận thấy cái đau đớn của con người về mặt thân xác, nhất là đối với cái chết, khi người ta đứng trước một thực tế là mình sẽ vĩnh viễn lìa bỏ cuộc đời, người thân và biết bao điều quý giá, niềm vui khác và đó là nỗi đau không cùng, có thể sánh với tính vô cùng của vũ trụ. Vì thế, nó nhất định phải được an ủi, thậm chí được Tư tưởng của Lép Tônxtôi 19 biện hộ bằng những gì tương ứng và điều người ta đương nhiên phải nghĩ đến, cầu đến là Thượng đế. L. Tônxtôi cho rằng có Thượng đế ở trong mỗi chúng ta, vì vậy ý nghĩa của đời sống con người là ở chỗ tìm được sự giải quyết, đền bù cho những nỗi đau vô cùng tận ở ngay trong bản thân mình. Như thế, ở đây ý nghĩa cuộc sống liên quan đến thế giới quan ở mức độ rộng lớn, sâu sắc hơn, đó là quan niệm về cuộc sống con ngư- ời được đặt trong quan hệ với toàn bộ vũ trụ nói chung. Nói cách khác, trong tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống, quan niệm về ý nghĩa cuộc sống không tách rời thế giới quan. 2. Bàn về mục đích cuộc sống trong mối liên hệ giữa thế giới quan trong lẽ sống của con người, L. Tônxtôi viết: “Thế gian này không phải là trò đùa, không phải là nơi thử thách và không phải là trạm trung chuyển sang một thế giới tốt hơn, vĩnh hằng; thế giới nơi chúng ta đang sống là một trong những thế giới vĩnh hằng, tuyệt diễm và đầy niềm vui mà chúng ta không chỉ có thể, mà còn có nhiệm vụ bằng những nỗ lực của mình làm cho nó diễm lệ hơn và chứa chan niềm vui hơn cho những người sống cùng chúng ta và cho tất cả những ai sẽ sống sau chúng ta ở đây”4. L. Tônxtôi cho rằng, con người muốn xác định được mục đích sống, đúng đắn, thực sự thì phải hiểu được cái thế giới mà mình đang sống thực ra là gì. Và theo ông, thế giới trước hết là thế giới con người, là thế gian, nơi con người đang sống, rằng cái thế gian này không phải là trò đùa, không phải là nơi thử thách và không phải là trạm trung chuyển sang một thế giới nào khác tốt hơn, vĩnh hằng, trái lại chỉ có “cái thế giới nơi chúng ta đang sống là một trong những thế giới vĩnh hằng, tuyệt diễm và đầy niềm vui”. Trong thế giới quan của L. Tônxtôi thể hiện rõ cái nhìn hiện thực, vì theo ông, không có một thế giới nào khác ngoài thế giới con người đang sống, thậm chí ngay cả Thượng đế cũng chỉ tồn tại trong thế giới này. Chẳng hạn ông viết: “Nếu Thiên đường không ở trong ngươi, thì ngươi không bao giờ vào được Thiên đường”5. Đặc biệt, trong thế giới quan của L. Tônxtôi còn thể hiện rõ niềm tin vững vàng, mãnh liệt và đầy lạc quan của ông vào thế giới con người, một thế giới mà theo ông nó vốn có tính vĩnh hằng, diễm lệ và đầy niềm vui, ngay cả khi con người đang chịu đựng những khổ đau và bất hạnh. Với thế giới quan, niềm tin tưởng ấy, lẽ sống được L. Tôn xtôi quan niệm ở đây là lẽ sống chân chính, tốt đẹp của con người. Bởi vì, không có một thế giới quan lành mạnh, chứa đầy niềm tin vào sự tốt đẹp của cuộc sống con người, thì làm sao có thể sống, vạch ra con đường sống tốt đẹp trong trong thế giới ấy, vì thế giới ấy. Chính vì sống trong thế giới với niềm tin tưởng lớn lao vào tính hiện thực, sự tốt đẹp của nó, cho nên L. Tônxtôi cho rằng, “chúng ta không chỉ có thể, mà còn có nhiệm vụ bằng những nỗ lực của mình làm cho nó diễm lệ hơn và chứa chan niềm vui hơn cho những người sống cùng chúng ta và cho tất cả những ai sẽ sống sau chúng ta ở đây”. Vậy, làm thế nào để thế giới con người trở nên “diễm lệ hơn và chứa chan niềm vui hơn”? L. Tônxtôi trả lời: “Chỉ những gì là điều phúc và điều thiện cho mọi người, đó mới là chân phúc và chân thiện” và “chỉ nên mong muốn cái phù hợp với hạnh phúc của mọi người. Ai hướng hoạt động của mình tới đích ấy sẽ thu được hạnh phúc cho mình”6. Tư tưởng của L. Tônxtôi về mục đích cuộc sống cho thấy mối liên hệ giữa mục đích cuộc sống với nghĩa vụ, trách nhiệm của con người. Bởi vì, mục đích cuộc sống chính là mục đích của những việc (nhiệm vụ) người ta nhất định phải làm. Tuy nhiên, mục đích cuộc sống với tư cách là yếu tố của lẽ sống không phải là những mục đích của mỗi công việc cụ thể, mà là của toàn bộ những công việc ấy, đó là làm cho thế giới trở nên diễm lệ, cho con người cả hôm nay và mai sau có nhiều niềm vui. Như vậy, trong quan niệm của L. Tônxtôi về lẽ sống yếu tố mục đích Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 20 cuộc sống cũng không tách rời yếu tố thế giới quan. 3. Trong những đoạn nói về nghĩa vụ trong mối liên hệ với hạnh phúc và ý nghĩa cuộc sống trong lẽ sống, L. Tônxtôi viết như sau: “Không thể nói rằng sự phụng sự Thượng đế là sứ mệnh của cuộc sống. Sứ mệnh của cuộc sống con người bao giờ cũng là và sẽ là hạnh phúc của nó. Nhưng bởi vì Thượng đế muốn cho con người được hạnh phúc, thành thử khi con người đạt được hạnh phúc của mình thì nó làm cái mà Thượng đế muốn ở nó, nó thực hành ý nguyện của người”7. Trong luận điểm này, tư tưởng của L. Tônxtôi về nghĩa vụ (sứ mệnh) trong mối liên hệ với hạnh phúc của con người là rõ ràng. Điều đáng nói là, trong khi tỏ ra có khuynh hướng tôn giáo, L. Tônxtôi vẫn phủ nhận việc con người có nghĩa vụ (sứ mệnh) phụng sự Thượng đế để khẳng định nghĩa vụ thực sự của con người là “bao giờ cũng là và sẽ là hạnh phúc của nó”. Bởi vì, L. Tônxtôi quan niệm hạnh phúc chính là sự sống, là cuộc sống của con người trên trần gian. L. Tônxtôi hiểu rằng: “Được hạnh phúc, có sự sống vĩnh cửu, sống trong Thượng đế, được cứu rỗi - Tất cả cái đó chỉ là một - là sự giải quyết nhiệm vụ của cuộc sống. Và hạnh phúc ấy gia tăng, con người cảm thấy mình thu nhận được ngày một mạnh mẽ hơn và sâu sắc hơn niềm hoan lạc nơi thiên giới. Và không có giới hạn cho hạnh phúc ấy, bởi vì hạnh phúc ấy là tự do, là sự toàn năng, là sự thoả mãn hoàn toàn mọi ý nguyện”8. Chưa bàn đến nội dung và ý nghĩa tôn giáo trong luận điểm trên, có thể thấy rõ trong quan niệm của L. Tônxtôi tất cả những gì con người mong muốn, hướng đến hay nói chung, là hạnh phúc, chỉ có thể có được nhờ sự nỗ lực không ngừng nhằm giải quyết những nhiệm vụ do cuộc sống đặt ra. Chính việc giải quyết những nhiệm vụ ấy đã làm thành con đường sống của con người. Nếu không có những nhiệm vụ hoặc không thực hiện những nhiệm vụ ấy, thì con người không thể đạt được những mong muốn, nguyện vọng của mình, tức là không thể tiến lên, cũng có nghĩa là không có đường sống, và do đó không thể có hạnh phúc. L. Tônxtôi khẳng định rõ hơn rằng, “nếu cuộc sống không mang lại niềm vui cho ai đó, thì chỉ bởi vì họ không làm những gì cần làm để cho cuộc sống trở thành một niềm vui không ngớt”9. Cần thấy rằng, ở đây, nghĩa vụ được L. Tôn xtôi nói đến với tư cách là một yếu tố đạo đức, đồng thời là yếu tố cấu thành của lẽ sống, không phải là mọi việc cần phải làm trong cuộc sống con người, mà là những việc cần phải làm “để cho cuộc sống trở thành niềm vui”, nghĩa là nghĩa vụ phải hướng thẳng đến hạnh phúc của con người. L. Tônxtôi hiểu lẽ sống không phải là con đường sống bất kỳ nào, mà là đường sống lớn lao, cơ bản của con người, bởi vì con đường ấy hướng đến cuộc sống vĩnh cửu, đến Thượng đế, đến sự thoả mãn hoàn toàn mọi ý nguyện, tức là hướng đến hạnh phúc lớn lao nhất. Con đường sống ấy không tách rời thế giới quan, nghĩa là những nhiệm vụ mà con người đặt ra để thực hiện, nhằm đạt được hạnh phúc liên quan đến toàn bộ đời sống của nó trong quan hệ với toàn bộ thế giới xung quanh, thậm chí với toàn bộ vũ trụ. 4. Trong tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống, quan niệm về hạnh phúc gắn liền với ý nghĩa cuộc sống có một vị trí đặc biệt. Có thể thấy, trong “Đường sống” quan niệm của L. Tônxtôi về hạnh phúc có nhiều nội dung hơn so với những quan niệm khác. Tuy nhiên, vì ở đây chúng ta chỉ bàn về hạnh phúc với tư cách là yếu tố của lẽ sống, cho nên sẽ không đi sâu xem xét riêng quan niệm này. L. Tônxtôi hiểu rằng, hạnh phúc chính là mục đích thực sự, toàn vẹn của cuộc sống con người và vì thế việc người ta có được hạnh phúc, tìm được hạnh phúc chính là ý nghĩa cuộc sống của họ. Trong một tác phẩm khác, “Về cuộc sống” cũng được in trong tập sách này, L. Tônxtôi đã từng nói về hạnh phúc với tư cách là mục đích và ý nghĩa cuộc sống như sau: “Bất kỳ Tư tưởng của Lép Tônxtôi 21 ai sống trên đời cũng sống chỉ vì mong muốn được hưởng điều tốt đẹp, hạnh phúc. Người nào không cảm thấy ước muốn hạnh phúc cho mình, người đó sẽ không cảm thấy mình đang sống. Con người không thể hình dung được cuộc sống nếu thiếu ước muốn hạnh phúc cho mình. Sống đối với mỗi người có nghĩa là mong ước hạnh phúc và đạt hạnh phúc, mong ước và đạt hạnh phúc - đó chính là sống”10. Tất nhiên, cuộc sống của con người có vô vàn mục đích, cũng vì thế, có thể tìm thấy vô số những giá trị, ý nghĩa của cuộc sống, L. Tônxtôi không phủ nhận tất cả điều đó, nhưng điều ông muốn nói đến ở đây là cái mục đích, ý nghĩa đích thực đằng sau rất nhiều mục đích, ý nghĩa ấy, đó chính là hạnh phúc của con người. Chỉ khi con người tìm thấy, có được hạnh phúc, nó mới có đời sống xứng đáng, đúng nghĩa con người của nó. L. Tônxtôi nói rõ hơn điều này trong “Đường sống” như sau: “Cuộc sống, cho dù nó là thế nào, vẫn là cái phúc mà không có cái phúc nào khác cao hơn. Nếu chúng ta nói cuộc sống là cái ác, thì ta nói như thế chỉ trong sự so sánh với một cuộc sống khác, tốt đẹp hơn, được tưởng tượng ra, nhưng thực ra chúng ta không biết và không thể biết một cuộc sống nào khác tốt đẹp hơn, cho nên cuộc sống, dù nó có là thế nào, vẫn là cái hạnh phúc cao nhất khả thể đối với con người”11. Và “chúng ta hay coi thường hạnh phúc của cuộc sống này, tưởng là ở nơi nào đó, vào lúc nào đó sẽ có được một hạnh phúc lớn hơn. Nhưng cái hạnh phúc lớn hơn như thế không thể có ở đâu và lúc nào, bởi lẽ chúng ta trong cõi người của ta đã được ban tặng một hạnh phúc vĩ đại đến thế - sự sống, mà không có và không thể có cái gì cao hơn nó”12. Điều đặc sắc là ở đây L. Tônxtôi không chỉ quan niệm rằng hạnh phúc chỉ có thể là hạnh phúc trần gian, mà còn hiểu hạnh phúc với nghĩa toàn diện, bao quát nhất của từ này, đó là sự sống, cuộc sống. Cuộc sống của con người bao gồm cả niềm vui, sự sung sướng lẫn đau khổ, bất hạnh, nhưng đó mới là sự sống, là cuộc sống và người ta không thể tìm thấy một thứ hạnh phúc nào khác ngoài cuộc sống này. L. Tônxtôi nói rõ hơn: “Người ta bảo những ai làm điều thiện không cần được đền thưởng. Cái đó đúng nếu nghĩ rằng sự đền thưởng không ở trong ta và không là bây giờ, mà mai sau. Nhưng nếu không có sự đền thưởng, nếu cái thiện không đem lại niềm vui cho con người, thì con người sẽ không làm điều thiện. Vấn đề chỉ ở chỗ làm sao hiểu được phần thưởng chính thực là ở đâu. Phần thưởng chính thực không ở ngoại giới và trong tương lai, mà ở nội giới và trong hiện tại: ở việc tâm hồn ta trở nên tốt đẹp hơn. Sự đền thưởng và động cơ làm cái thiện là ở đó”13. Luận điểm này cho thấy lẽ sống không tách rời hạnh phúc và quan niệm về hạnh phúc của con người. Mặt khác, khi nói rằng hạnh phúc là cái mà ngư- ời ta được đền thưởng sau khi đã làm việc thiện, L. Tônxtôi còn cho thấy hoạt động đạo đức của con người là hoạt động hướng theo những mục đích đạo đức, cái thiện, chứ không phải là những mục đích xã hội khác. Và như vậy, trong lẽ sống, yếu tố mục đích cuộc sống được hiểu là mục đích đạo đức, cho nên, lẽ sống, đường sống là hoạt động hướng thiện, không ngừng hướng thiện. L. Tônxtôi khẳng định: “Chỉ có sự tự hoàn thiện không ngừng mới cho ta niềm vui đích thực không ngừng và luôn luôn gia tăng. Mọi bước đi trên con đường này mang theo nó phần thưởng, và phần thưởng ấy được trao tức khắc, và không gì có thể tước đoạt”14. 5. Trong khi nói về mối liên hệ giữa nghĩa vụ, hạnh phúc, ý nghĩa cuộc sống và thế giới quan, L. Tôn xtôi còn nói cả về tình yêu như một yếu tố khác của lẽ sống. Mặc dù vấn đề tình yêu không được L. Tônxtôi nói nhiều trong tác phẩm “Đường sống”, mà ở những tác phẩm khác trong tập sách của ông, nhưng cũng đủ thấy nó là một yếu tố hữu cơ của lẽ sống. Trước hết, khi quan niệm tình yêu không tách rời hạnh phúc, nhất là hạnh phúc lớn lao nhất của con Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 22 người, L. Tônxtôi cho rằng: “Để chắc chắn được hạnh phúc, chỉ cần một điều: hãy yêu thương tất cả - cả những người thiện lẫn kẻ ác. Hãy yêu thương không ngừng, bạn sẽ không ngừng được hạnh phúc”15. Ông còn khuyên nhủ: “Người ta nói: “Yêu thương những người gây cho ta ác cảm - để làm gì?” Để có niềm vui. Bạn hãy thử và sẽ biết cái đó có đúng hay không”16. Thoạt nghe và nếu như tách đoạn này ra khỏi những đoạn khác trong tác phẩm của L. Tônxtôi sẽ rất khó chấp nhận quan điểm trên của ông về tình yêu. Tuy nhiên, nếu không tuyệt đối hoá, mà cần đứng từ góc nhìn nhất định sẽ thấy quan điểm của L. Tônxtôi không chỉ có yếu tố hợp lý, mà còn thể hiện tính nhân đạo cao của ông. Quan điểm của L. Tônxtôi hoàn toàn phù hợp với quan niệm đúng đắn của ông về cuộc sống con người, đó là mối liên hệ biện chứng giữa niềm vui và đau khổ, giữa hạnh phúc và bất hạnh. Theo đó, lẽ nào trong cuộc sống của mình, chúng ta lại chỉ biết yêu cái thiện, hoàn toàn ghét bỏ cái ác khi ta khẳng định rằng ta yêu chính cuộc sống? Song, cần thấy rằng trong quan điểm này của L. Tônxtôi, ranh giới của phải và trái, chân lý và sai lầm có thể rất nhỏ hẹp, vì thế có lẽ chỉ có những tâm hồn, trí tuệ và tư tưởng cao cả mới có chỗ đứng và đứng vững ở đây. L. Tônxtôi viết tiếp: “Chúng ta không biết và không thể biết chúng ta sống để làm gì. Vì vậy chúng ta sẽ không thể biết được ta cần phải làm cái gì và không nên làm cái gì, nếu mà trong ta không có ước vọng hạnh phúc. Ước vọng ấy chỉ ra đúng đắn chúng ta cần làm cái gì, nhưng với một điều kiện là chúng ta hiểu cuộc sống của mình không phải như là cuộc sống của một sinh thể, mà như là cuộc sống của một linh hồn trong thân thể. Và cái hạnh phúc mà hồn ta ao ước ấy, được ban cho chúng ta trong tình yêu”17. Ông còn nói: “Không ai mệt mỏi bao giờ trong việc làm điều thiện cho mình. Song cái thiện lớn nhất - đó là làm cái mà hồn ta mong muốn, mà hồn ta thì luôn luôn chỉ mong muốn một điều: yêu và được yêu. Hãy nhìn thấy cuộc sống của mình trong sự gia tăng tình yêu ấy, và bạn sẽ thấy hạnh phúc của bạn luôn luôn ở trong quyền năng của bạn”18. Qua những luận điểm này L. Tônxtôi cho thấy rõ hơn rằng, nghĩa vụ của con người chỉ có thể được xác định khi người ta hiểu được ý nghĩa cuộc sống, tức là biết sống để làm gì. L. Tônxtôi cũng trả lời luôn câu hỏi ấy khi cho rằng, sống là phải có ước vọng hạnh phúc và thoả mãn ước vọng hạnh phúc. Nhưng L. Tônxtôi còn bàn sâu sắc hơn rằng, không thể thấy được ý nghĩa cuộc sống, hạnh phúc nếu không có thế giới quan, cụ thể là quan niệm về con người với tư cách là một thực thể có tâm hồn (tinh thần), mà đối với L. Tônxtôi trong cái tâm hồn, tinh thần đó của con người chứa đựng điều lớn lao nhất của nó, đó chính là tình yêu. Chính tình yêu giúp con người vươn lên để hiểu cuộc sống, có ước vọng hạnh phúc, tìm ra được ý nghĩa cuộc sống và do đó có thể biết cần phải làm gì, không làm gì. Đồng thời, ở đây tình yêu với tư cách một yếu tố của lẽ sống được hiểu chính là một động lực đạo đức cơ bản của hoạt động sống của con người. Bởi vì, tình yêu được xem là cái thiện lớn nhất. 6. Trong tư tưởng về lẽ sống, L. Tônxtôi còn vạch ra một tính chất quan trọng của lẽ sống, đó là tính liên tục của lẽ sống. L. Tônxtôi viết: “Có thể làm tốt hơn lên từng khoảnh khắc của cuộc đời, bất kể nó được ban cho từ bàn tay nào, thuận lợi hay bất thuận lợi của số phận, đó chính là nghệ thuật sống và là ưu thế chính thực của một sinh linh có trí tuệ”19. L. Tônxtôi hiểu lẽ sống không chỉ là quan niệm, hiểu biết đúng đắn về cuộc sống, không phải chỉ làm những việc tốt hoặc đạt được những thành công thật lớn lao trong cuộc sống, mà còn phải làm cho nó tốt lên trong từng khoảnh khắc trong bất cứ hoàn cảnh nào. Nghĩa là lẽ sống là con đường đi của đời người và nó có những bước đi lớn nhỏ, khác nhau và chúng liên quan, phụ thuộc vào những điều kiện Tư tưởng của Lép Tônxtôi 23 hoàn cảnh khác nhau. Lẽ sống được hiểu như vậy, còn là một quá trình liên tục, liên tục làm điều tốt. Nó đòi hỏi người ta “hãy mang theo tất cả lên đường khi từ những năm niên thiếu dịu dàng bước vào tuổi trư- ởng thành khắc khổ; hãy mang theo tất cả những xúc cảm của tâm hồn nhân loại đừng bỏ nó lại dọc đường rồi sau đó lại nhặt lên” (Gôgôn trong “Những linh hồn chết”). Nói cách khác, đó chính là tư tưởng của L. Tôn xtôi về tính liên tục của lẽ sống và đương nhiên, nó không tách rời tính gián đoạn, những khủng hoảng, đau thương, mất mát, thất vọng, chán chường vốn không tránh được trên đường đời, nhưng là tạm thời. (Cần thấy thêm là, L. Tônxtôi cho rằng trong lẽ sống, cụ thể là lẽ sống tốt đẹp còn có cả yếu tố là nghệ thuật sống và lẽ sống được xem như là đặc trưng (ưu thế) cho con người - “một sinh linh có trí tuệ”). Sở dĩ L. Tônxtôi thấy tính liên tục của lẽ sống là vì ông hiểu cuộc sống chính là cuộc hành trình không ngừng để đi đến hạnh phúc và hạnh phúc ấy không phải chỉ là cái luôn luôn ở phía trước con người, tức là cái thuộc về tương lai gần hoặc xa, mà nó còn luôn có được trong mỗi khoảnh khắc của đời người. Đặc biệt, tính liên tục của lẽ sống được quy định bởi điều là: “Không gì xác nhận một cách hiển nhiên đến thế cái chân lý nói rằng công việc của cuộc sống con người là sự hoàn thiện mình”, “chỉ một điều không mất đi bao giờ ý nghĩa mừng vui của mình: ý thức về sự chuyển biến của ta hướng tới thể hoàn thiện” và “chỉ có sự tự hoàn thiện không ngừng mới cho ta niềm vui đích thực, không ngừng và luôn gia tăng”20. Ngoài ra, tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống còn bao hàm những khía cạnh nội dung khác nữa, như các vấn đề nguyên tắc sống, cách sống, ý chí, lý tưởng và nguyện vọng sống, cả thiện và ác v.v... Đồng thời, L. Tônxtôi thấy lẽ sống có các kiểu khác nhau như lẽ sống chân chính và không chân chính. Chẳng hạn ông cho rằng, “đời sống chân chính là đời sống tinh thần” hay “ai nhìn thấy cuộc sống của mình trong sự hoàn thiện tinh thần, người ấy không thể bất mãn, bởi vì cái anh ta muốn luôn luôn ở trong quyền năng của anh ta”21. Tuy nhiên, những khía cạnh này được L. Tônxtôi nói đến không có nhiều nội dung và chưa thật nổi bật như những khía cạnh đã được nêu lên để phân tích, bàn luận ở trên. *** Từ toàn bộ sự trình bày ở trên có thể thấy, tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống được thể hiện trong tác phẩm “Đường sống” của ông rất rõ ràng. Lẽ sống ấy bao gồm những phương diện, khía cạnh nội dung như sau: a) Tônxtôi nói chủ yếu về là lẽ sống chân chính, lớn lao, mang tính lý tưởng, liên quan đến đời sống của toàn thể nhân loại; b) Lẽ sống không tách rời, trái lại được đặt trên nền tảng thế giới quan, và thế giới quan này là quan niệm về toàn bộ đời sống con người, loài người, thậm chí toàn bộ vũ trụ; c) Lẽ sống bao hàm nghĩa vụ; d) Lẽ sống không tách rời mục đích, ý nghĩa cuộc sống và hạnh phúc; e) Lẽ sống còn bao gồm cả những quá trình như tình yêu, lý tưởng, ý chí, nguyện vọng, nguyên tắc, cách thức sống của con người, cả thiện và ác v.v... Trong lẽ sống, thế giới quan chiếm vị trí đặc biệt, nó là yếu tố mang tính chất nền tảng, bao trùm, quy định các yếu tố khác. Chính việc thấy được và thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố cơ bản của đời sống đạo đức như đã xem xét trên kia, L. Tônxtôi đã làm nổi bật tư tưởng của ông về lẽ sống. Như vậy, theo tư tưởng của L. Tônxtôi, lẽ sống bao gồm toàn bộ đời sống đạo đức, đặc biệt, đó chính là đường sống, hơn nữa là con đường cơ bản của cuộc sống hướng đến hạnh phúc cao nhất, lớn lao nhất của con người, con đường đòi hỏi người ta phải xác định được mục đích, động cơ, những nguyên tắc sống dựa trên một thế giới quan chân chính. Có thể nói, chính từ “đường sống” được đặt tên cho tác phẩm của ông đã nói lên rất rõ điều này. L. Tônxtôi quan niệm lẽ sống hay đường sống của con người không Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 4/2012 24 phải là con đường hoặc những quy luật lịch sử khách quan ở bên ngoài chi phối con người, trái lại ông hiểu đó chính là con đường do con người chủ động xác lập, lựa chọn và quyết tâm thực hiện nó đến cùng. Lẽ sống, đường sống ấy không phải chỉ là đường sống của mỗi cá nhân, mà còn của cả tập đoàn, cộng đồng xã hội, hơn thế, của cả loài người. Đây thực sự là một tư tưởng lớn lao của một nhà tư tưởng đã gắn số phận của mình với toàn bộ sự tiến bộ và văn minh chung của loài người. Tuy nhiên, tư tưởng về lẽ sống, nhất là thế giới quan của L. Tônxtôi chưa được đặt trên cơ sở khoa học, nó hoàn toàn thiếu vắng quan điểm duy vật lịch sử. Khi mà C. Mác, người cùng thời với ông, và sau đó là V.I. Lênin, đã hiểu sự giải phóng tinh thần là “sự chuyển hoá của cái tinh thần, cái quan niệm thành cái hiện thực, là quá trình hiện thực hoá tư tưởng và ngược lại, thông qua thực tiễn của con người, loài người, thì L. Tônxtôi lại chỉ thấy cái tinh thần “tự” giải phóng, nghĩa là có tính “tự thân” của nó, để có thể nối kết với cái tinh thần khác và nhờ thế con người, loài người có thể nối kết với nhau. Vì vậy, tư tưởng của L. Tônxtôi không tránh khỏi bế tắc, thậm chí phi hiện thực, không hoàn toàn tích cực; chẳng hạn có lúc ông đã so sánh: “Tất cả chúng ta trên cõi đời này đều như những con ngựa bất kham, bị đặt vòng lên cổ, bị thắng vào cỗ xe. Thoạt đầu ta quẫy cựa, ta muốn sống chỉ cho mình, theo ý mình, ta bẻ gẫy càng xe, rứt đứt yên cương, nhưng không thoát ra được, chỉ làm mình mệt nhoài. Và chỉ khi ta đã mệt nhoài, đã quên đi về ý chí của mình, và tuân phục ý chí cao hơn và kéo xe đi - chỉ khi ấy ta mới tìm thấy sự bình yên và phúc lạc”22. Chính sự hạn chế về thế giới quan đã đưa L. Tônxtôi đến hiểu biết chưa thật chính xác về lẽ sống, nhất là lẽ sống, đường sống cơ bản chân chính của con người, loài người. Nhưng dù sao, với một cái nhìn khá toàn diện về đời sống đạo đức con người và nhất là khi đặt nó trên một cơ sở thế giới quan có nhiều điểm hợp lý để xem xét, L. Tônxtôi đã bàn về vấn đề lẽ sống của con người một cách chính diện và rất sâu sắc. Đây là đóng góp quan trọng của ông vào lịch sử tư tưởng đạo đức học của nhân loại, mà hiếm thấy ở những nhà tư tưởng khác. Hơn nữa, trong chiều sâu tư tưởng của L. Tônxtôi, lẽ sống chân chính của con người là sự sáng tạo không ngừng ra thế giới của tình yêu, hoà bình vĩnh viễn giữa con người với con người. Chính điều này làm cho L. Tônxtôi trở nên vĩ đại và sống mãi với thời gian. Tư tưởng của L. Tônxtôi về lẽ sống chân chính rất có ý nghĩa đối với hiện nay khi vấn đề đặt ra không chỉ là xây dựng lẽ sống chân chính, cao đẹp của mỗi cá nhân, mà đặc biệt còn là cho cả một dân tộc, cộng đồng, thậm chí của loài người trong xu thế toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế ngày càng rộng lớn và sâu sắc./. ____________________________ Chú thích 1. Lép Tônxtôi, 2010. “Đường sống. Văn thư, nghị luận chọn lọc”, Nxb. Tri thức, Hà Nội, tr. 909. 2. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 914. 3. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 914. 4. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 910. 5. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 911. 6. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 916. 7. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 910. 8. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 916. 9. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 923. 10. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 184. 11. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 909. 12. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 910. 13. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 917. 14. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 916. 15. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 918 16. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 919. 17. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 918. 18. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 918. 19. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 910. 20. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 915- 916. 21. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 914 và 916. 22. Lép Tônxtôi, “Đường sống”, Sđd, tr. 927.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf30760_103179_1_pb_7843_2012780.pdf