Tự học photoshop CS6

Tùy vào từng bức ảnh và những chi tiết cụ thể, các bạn hãy linh hoạt trong việc tạo thêm gợn sóng nước và áp dụng hiệu ứng ZigZag sao cho thật sự hiệu quả. Và dưới đây là kết quả của chúng ta sau khi thực hiện quá trình như trên

doc268 trang | Chia sẻ: phanlang | Lượt xem: 2912 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tự học photoshop CS6, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các bức tường, tạo một vùng chọn chứa bức tường nhưng không bao gồm các cửa sổ và cửa đi. 3. Mở Vanishing Point mở, hiển thị ảnh của bạn. 4. Tạo các mặt phẳng trên ảnh trong cửa sổ Vanishing Point a) Chọn công cụ Create Plane (công cụ thứ hai kể từ trên xuống phía trái của cửa sổ) b. Nhấp vào ảnh nơi bạn muốn đặt ba góc của mặt phẳng, sau đó di chuyển con trỏ đến góc thứ tư. Bạn thấy mặt phẳng mở rộng dọc theo hai cạnh cuối. c. Khi con trỏ nằm đúng vị trí, nhấp để tạo mặt phẳng. Nếu mặt phẳng vàng hay đỏ ngoại trừ xanh, nó không được cạnh thẳng hàng chín xác. Rê các góc của mặt phẳng để cạnh thẳng hàng lại chúng, sử dụng công cụ Edit Plane (công cụ ở phía trên bên trái). Rê các điểm neo ở cạnh ra ngoài để mở rộng lưới của mặt phẳng để chứa toàn bộ bức tường hay một mặt bên. d. Tạo các mặt phẳng vuông góc bằng cách nhấn giữ phím Ctrl và rê điểm neo cạnh tại điểm nơi hai mặt phẳng giao nhau. Nếu góc của mặt phẳng thứ hai hơi nằm ngoài một chút, rê một trong các điểm neo góc để điều chỉnh góc. Ở hình dưới, bạn thấy hai mặt phẳng vuông góc với nhau. 5. Dán mẫu. a. Nhấn Ctrl+V để dán mẫu của bạn vào trong Vanishing Point. Mẫu của bạn được dán ở góc phía trái bên trên của cửa sổ Vanishing Point. b. Chọn công cụ Marquee (công cụ thứ ba kể từ trên xuống) và rê mẫu vào trong mặt phẳng. Mẫu tự động chấp nhận hướng của mặt phẳng. Nếu cần, nhấn T trên bàn phím, sau đó quay và định tỉ lệ mẫu. 6. Sao chép lại mẫu. Trừ khi mẫu của bạn vừa khít, bạn cần sao chép lại nó để tô mặt phẳng. Với công cụ Marquee đã chọn, nhấn giữ phím Alt. Sau đó nhấp và rê trong mẫu để sao chép lại nó. Lặp lại khi cần thiết để tô mặt phẳng. Như bạn thấy ở hình dưới, bạn có thể sao chép lại một mẫu nhỏ tương đối để tô một vùng lớn. Nếu độ sáng trong ảnh gốc của bạn thay đổi, xác lập menu pop – up Healing (ở đầu cửa sổ, chỉ với công cụ Marquee kích hoạt) sang Luminance. điều đó giúp duy trì độ sáng ban đầu trên mẫu hay kết cấu mới. 7. Nhấp OK để thoát khỏi Vanishing Point và áp dụng mẫu hay kết cấu cho ảnh của bạn. Sau khi thoát khỏi Vanishing Point, bạn có thể cần thực hiện một số việc tinh chỉnh ảnh của bạn với công cụ Clone Stap (phụ thuộc vào độ chính xác mà bạn có khi rê). Bạn cũng cod thể cần thêm một lớp và tô một vùng sáng và tổi để tái tạo độ sáng ban đầu trong cảnh. Đây là một số thủ thuật để làm việc với Vanishing Point: - Tạo các mặt phẳng chính xác, sau đó rê: Nhấp ở bốn góc của bất kỳ vùng nhận dạng nào của mặt phẳng – có lẽ một cửa sổ và rê các điểm neo cạnh hướng ra ngoài (hay hướng vô trong) để nhận dạng toàn bộ mặt phẳng. - Sử dụng phím X để thu phóng: Nhấn và giữ phím X trên bàn phím để xem trước vùng thu phóng để hiển thị vùng mà bạn đang làm việc. Nhả phím X để thu nhỏ lại. - Nhấn phím T để biến đổi: Sau khi dán mẫu của bạn, bạn có thể nhấn T trên bàn phím và sau đó định tỉ lệ và quay mẫu đã dán của bạn. - Sử dụng phím Shift để rê trong lúc canh thẳng hàng: Nhấn giữ phím Shift trong khi Alt-rê để sao chép lại mẫu của bạn. Điều này duy trì phần mới được canh thẳng hàng với phần cũ. - Sao chép các thành phần trong ảnh: Tạo một vùng chọn với công cụ Marquee và Ctrl+Alt-rê đến vùng bạn muốn đặt bản sao. - Dán trên các đối tượng trong Vanishing Point: Tạo mặt phẳng. Sử dụng công cụ Marquee để chọn một vùng mà bạn muốn thay thế, sau đó nhấn giữ phím Ctrl và rê đến một vùng mà bạn muốn dán vào trong vùng chọn marquee. - Tô chép trong Vanishing Point: Xác định mặt phẳng, chọn công cụ Stamp, và Alt-nhấp tại điểm nguồn. Nhả phím Alt và di chuyển con trỏ đến điểm nơi bạn muốn bắt đầu sao chép. Khi khung xem trước được cạnh thẳng hàng chính xác, nhấp và rê để sao chép. - Sơn trong phối cảnh: Với một mặt phẳng đã xác định, công cụ Brush trong Vanishing Point thu nhỏ hay phóng to phụ thuộc vào phối cảnh mặt phẳng của bạn. - Làm việc trên một lớp trống: Bạn có thể thêm một lớp trống trong Palette Layers trước khi vào Vanishing Point. Kết quả của bạn được thêm vào lớp mới, điều này cho bạn làm việc với chế độ hoà trộn và độ mờ đục để trộn mẫu của bạn vào trong mẫu gốc. 3. Kết hợp các ảnh tự động Bạn có vài đặc tính trong Photoshop CS6 tự động kết hợp hai hay nhiều ảnh lại thành một ảnh đơn. Bạn có thể kết hợp các ảnh phủ chồng thành một bức ảnh toàn cảnh, hay bạn có thể kết hợp nhiều độ phơi sáng của cùng ảnh chụp thành một ảnh có độ phơi sáng tốt. Bạn thấy cả Photomerge và Merge to HDR trong một menu File | Automate của Photoshop. a. Tạo bức ảnh toàn cảnh Đôi khi một ảnh chụp nhanh không mô tả đúng một cảnh. Đối với các trường hợp này, chụp một loạt các ảnh và kết hợp chúng thành một bức ảnh toàn cảnh lớn với Photomerge. Bước đầu tiên trong việc sử dụng Photomerge là chụp các ảnh phù hợp. Đây là một số thủ thuật. - Sử dụng một giá đỡ với tầm ngấm thích hợp: Sử dụng một giá đỡ, đảm bảo giá đỡ đứng vững và có tầm ngấm sao cho các ảnh riêng biệt được canh thẳng chính xác. - Tắt tính năng phơi sáng tự động: Nếu bạn sử dụng đặc tính phơi sáng tự động của camera, mỗi ảnh thực sự được phô bày khác bởi vì độ sáng trong khung. Thay vào đó, hãy phơi sáng bức ảnh chính giữa (hay quan trọng nhất) và sử dụng cùng các xác lập cho tất cả các ảnh chụp. - Đừng sử dụng auto – focus ống kính thu phóng: Auto-focus có thể thay đổi thừa số thu phóng của ống kính. Thay vào đó, xác lập ống kính đến tiêu cự bằng tay sau khi sử dụng auto-focus trên bức ảnh quan trọng nhất của bạn. - Phủ chồng theo 25%: Một phần tư của mỗi ảnh chụp được phủ chồng để Photomerrge có đủ nét tương tự giữa các ảnh lân cận. Khi làm việc với các ảnh được phơi sáng chính xác và có sự phủ chồng phù hợp, Photomerge được tự động hoá hoàn toàn. Bạn mở Perspective, chọn các ảnh bạn muốn sử dụng, nhấp OK, đợi và quan sát điều kỳ diệu khi các thành phần được đặt theo thứ tự, được canh thẳng hàng và được hoà trộn. Đôi khi Photomerge yêu cầu một sự trợ giúp nhỏ, và bạn cần rê ác phần nhỏ theo vị trí. (Đặt các ảnh theo thứ tự chính xác trong ngăn ở bên trên trước khi rê chúng vào trong cửa sổ chính để canh thẳng hàng). Sau đó Photomerge cố tạo một tổng thể duy nhất. Sử dụng nút Save Composition As ở phía phải bên trên của cửa sổ Photomerge để lưu toàn cảnh, và bạn có thể quay trở lại sau đó để kết thúc thực hiện các thay đổi. Và hãy lưu ý đặc biệt đến hộp kiểm Keep as Layers ở phía phải bên dưới. Lựa chọn hộp kiểm này để bạn có thể canh thẳng hàng sau đó khi cần thiết và sử dụng các phần điều chỉnh để tinh chỉnh sự hoà trộn. Khi tạo một bức ảnh toàn cảnh của một căn phòng hay một cảnh khác, hãy sử dụng tuỳ chọn Perspective. Theo mặc định Vanishing Point (điểm xa nhất) được giả định nằm ở tâm. Nếu không, chọn công cụ Set Vanishing Point (thứ ba trên phía trái) và nhấp ảnh đúng. Khi bạn sử dụng tuỳ chọn Perspective, ảnh của bạn có thể xuất hiện ngay chính giữa. Cho phép tuỳ chọn Cylindrical Mapping để cho thấy đỉnh, đáy và khoảng cách cảm nhận được. b. Kết hợp các độ phơi sáng cho các ảnh Một tính năng khá chuyên biệt, lệnh Photoshop CS6 Merge to HDR tạo một ảnh ghép của hai hay nhiều độ phơi sáng của cùng ảnh chụp, chụp các phần được phơi sáng tốt nhất của mỗi ảnh. Ví dụ, bạn có thể chụp hai ảnh của một căn phòng, một ảnh được phơi sáng cho chính căn phòng và ảnh khác được phơi sáng để chụp chi tiết của hiện trường bên ngoài cửa sổ. Merge to HDR lấy phần đẹp nhất của cả hai ảnh và tạo một ảnh đơn. Sau đây là cách thực hiện. 1. Chọn lệnh File | Automate | Mere to HDR Pro. Hộp thoại Merge to HDR xuất hiện. 2. Chọn các ảnh để sử dụng. Đảm bảo hộp kiểm Attempt to Automatically Align Source Images được đánh dấu. 3. Nhấp OK để mở Merge to HDR. Ở góc phải bên trên của cửa số Merge to HDR là tuỳ chọn Git Depth được tạo một ảnh 16 bit hay thậm chí một ảnh 8 bit có thể sử dụng được hơn là các ảnh 32 bit/mặc định kênh HDR. Bạn cũng có thể điều chỉnh ảnh bằng cách rê thanh trượt Set White Point Preview. Nói chung, thanh trượt nằm bên dưới cạnh phải của histogram, nơi histogram bắt đầu xuất hiện. Ở hình dưới đây, bạn thấy hai ảnh nguồn ở phía trái bên dưới. Ảnh được trộn ở chính giữa sử dụng các vùng sáng của hai hình ảnh gốc để tạo nhiều chi tiết ảnh. Nếu bạn chọn để sử dụng tuỳ chọn 32 bit/kênh, bạn có thể lưu ảnh ra một trong ba dạng file dưới đây: - PSD (Photoshop) - PSB (Dạng Large Document của Photoshop, nếu được kích hoạt trong Preferences của Photoshop) - TIFF Nhớ rằng không có nhiều chương trình sử dụng các ảnh 32 bit/kênh, và thậm chí các tính năng hiệu chỉnh của bạn trong Photoshop cũng giới hạn. 4. Thêm các hiệu ứng mỹ thuật và sáng tạo Chắc chắn bạn muốn tô màu nâu cọ một lớp, sử dụng bộ lọc Add Noise (Gaus sian Distribution, Mônchrrome), và sau đó áp dụng một bộ lọc Motion Blur để tạo một hiệu ứng xớ gỗ hơn là bạn áp dụng một bộ lọc đã tô xá vào một ảnh CMYK, áo dụng nó với một kênh, và sau đó với ba kênh riêng biệt nhờ sử dụng Ctrl+F. Sau đây là một số thủ thuật sáng tạo thường được sử dụng. a. Làm nhẵn da hoàn toàn Khi bạn nhìn thấy các ảnh chụp lôi cuốn, bạn biết đó là những bức ảnh của những người đẹp dường như cực kỳ hoàn hảo. Một trong những điều bạn không thấy là kết cấu của da. Không có nếp nhăn. Thực tế, da xuất hiện với độ nhẵn hoàn toàn. Đây là cách bạn có thể đạt đến hiệu ứng đó mà không làm mờ: 1. Mở một bản sao của ảnh. Bất cứ khi nào bạn sử dụng một kỹ thuật để thực hiện các thay đổi hoàn hảo với các pixel trong ảnh, bạn nên làm việc trên một bản sao. Điều này giúp bạn bảo toàn ảnh gốc, nó không những giúp bạn tránh khỏi sai sót mà còn giữ ảnh gốc nguyên vẹn khi dùng các kỹ thuật và thủ thuật khác trong tương lai. 2. Thêm một lớp mới bằng cách nhấp núp New Layer trong Palette Layers, 3. Tạo một vùng chọn. Vùng chọn nên cách xa vùng gương mặt, và nên định kích cỡ ít nhất một nửa chiều rộng và chiều cao trên gương mặt. 4. Tô vùng chọn với màu. Nhấn Alt-Backspace để tô nó với một foreground: Sau đó huỷ chọn. 5. Chọn Healing Brush và xác lập điểm nguồn. Đảm bảo rằng tuỳ chọn Use All Layers được chọn thanh Options và Aligned được huỷ chọn. Alt-nhấp ở tâm của vùng chọn đã tô. 6. Tô trên da. Nhấp và rê với Healing Brush thay kết cấu da bằng kết cấu của vùng nguồn (nhẵn). Sử dụng các nét tô ngắn theo đường viền của gương mặt. Chắc rằng bạn không tô trên chân mày, mũi, môi, và các vùng khác có chi tiết quan trọng. b. Chuyển từ một ảnh chụp sang một bức vẽ Bạn có hàng chục cách để tạo một hiệu ứng “họa sĩ” trong Photoshop. Sau đây là một trong những ảnh thường được sử dụng. 1. Mở một bản sao của ảnh 2. Chọn các bóng và độ mở. Mở Palette Channels và Ctrl-nhấp kênh ở phía trên (RGB hay CMYK hay Lab) để tạo một vùng chọn phụ thuộc vào độ chiếu sáng của mỗi pixel. Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để biến đổi vùng chọn (chọn các bóng hơn là các điểm nổi bật). Áp dụng Gaussian Blur nhẹ, có lẽ 1 hay 2 pixel, để làm mờ chi tiết trong các vùng tối hơn (Nhớ rằng bạn có thể sử dụng phím tắt Ctrl+H để làm cho biên vùng chọn biến mất, đây không phải là một thủ thuật) 3. Chọn các điểm nổi bật và độ sắc nét. Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để đảo ngược lại vùng chọn (chọn các điểm nổi bật). Áp dụng bộ lọc Sharpen | Smart Sharpen với các xác lập ban đầu của Amount: 200% và Radius: 2 pixels (Điều chỉnh các giá trị để trường hợp nội dung của ảnh và khiếu mỹ thuật của bạn). Hộp thoại của bộ lọc xuất hiện như hình dưới đây: 4. Thêm một kết cấu canvas vào ảnh. Huỷ chọn với phím tắt Ctrl+D (Để kết cấu được áp dụng vào toàn bộ ảnh), sau đó sử dụng bộ lọc Filter Gallery | Texturizer để thêm kết cấu canvas, cải tiến hiệu ứng “họa sĩ”. Hộp thoại bộ lọc xuất hiện c. Tạo một dạng phác thảo từ một ảnh chụp Mô phỏng một bức vẽ trong Photoshop là tuyệt vời, nhưng đôi khi bạn có thể cần một bản phác thảo. Photoshop có vài bộ lọc thực hiện tốt việc tạo các bản phác thảo bằng bút chì. Đây là một cách dễ để tạo các đường nét phác thảo từ một ảnh chụp. 1. Mở một bản sao của ảnh. Đây là một kỹ thuật huỷ tạo nó tạo ra các thay đổi vĩnh viễn cho các pixel trong file, vì thế hãy làm việc từ một bản sao để bảo đảm an toàn. 2. Áp dụng bộ lọc với Quality: High và Mode: Normal, và sử dụng các xác lập để loại bỏ tất cả chi tiết nhỏ trong ảnh nhưng vẫn duy trì các mép và các chi tiết quan trọng trên ảnh. Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới đây: 3. Xác định các mép với Smart Blur. Mở lại hộp thoại Smart Blur và xác lập menu pop-up Mode sang Edge Only. Điều chỉnh các thanh trượt đến khi khung xem trước white-on-black hiển thị lượng chi tiết phù hợp bạn muốn có trong ảnh sau cùng sau đó nhấp OK. 4. Biến đổi các màu. Sử dụng phím tắt Ctrl+Shift+I để hoán đổi đen và trắng trong ảnh. 5. Làm mờ các đường. Áp dụng Gausian Blur 1 hay 2 pixel để làm mềm các mép của các đường. Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới 6. Điều chỉnh độ dày của các đường với Levels. Hộp thoại Level xuất hiện như hình dưới: Trong hộp thoại Levels, rê mục điều khiển thanh trượt giữa sang trái phải đến khi bạn cảm thấy hài lòng với diện mạo của ảnh. Nếu muốn bạn có thể tinh chỉnh lại bản phác thảo với bộ lọc Sharpen | Unsharp Mask. Hộp thoại bộ lọc xuất hiện như hình dưới: Bài 8 – Tinh chỉnh ảnh và tạo hiệu ứng 1. Hoàn chỉnh các bức chân dung Đôi khi bạn chụp các bức ảnh đẹp và đôi khi bạn chụp các bức ảnh không đẹp, xétvà tính nghệ thuật đó là điều tất nhiên. Mặc dù chụp với độ xác thực tuyệt đối là mục tiêu cảu một số nhà mỹ thuật và phần lớn các nhiếp ảnh gia, nhưng bạn và Photoshop có thể làm cho các bức ảnh của mình có vẻ đẹp hốn với thực tế. Trong bài học này, bạn sẽ tìm hiểu một số kỹ thuật cơ bản để xử lý các lỗi thường gặp phải của một nhiếp ảnh gia. Bạn sẽ tìm hiểu cách để loại bỏ hiệu ứng mắt đỏ (red-eye) xấu xuất hiện khi đèn chớp camera của bạn phản chiếu các mạch máu ở phía sau của mắt. Bạn cũng sẽ học một số thủ thuật để loại bỏ các nếp nhăn, làm trắng răng và làm cho các đường eo gãy gọn hơn. Và ở phía cuối bài bạn cũng sẽ học cách để loại bỏ một số khiếm khuyết lớn hơn trong các ảnh. Và ở bài này, bạn sẽ sử dụng các ví dụ thực tế, các loại ảnh mà bạn có thể làm việc với chúng sau này. 2. Làm cho các ảnh đẹp hơn Bạn có thể làm nhiều điều trong Photoshop để cải thiện các ảnh của mình chẳng hạn chỉnh sửa các lỗi khiếm khuyết khi chụp ảnh người. Dù đó là bức chân dung được chụp trong studio hay một ảnh chụp nhanh, bạn cũng cần tinh chỉnh đôi chút để làm cho chủ thể trong bức ảnh của bạn có vẻ đẹp hơn. Về mặt lý thuyết mặc dù bạn có thể làm cho hầu như bất kỳ người nào cũng có vẻ đẹp hơn so với thực tế nhờ sử dụng Photoshop, nhưng bạn phải nhờ cân bằng giữa việc cải thiện với độ xác thực. Luôn luôn làm việc trên một bản sao của ảnh. Bạn cũng nên nhớ lưu các bản sau tách biệt tại các bước khác nhau trong tiến trình hiệu chỉnh. Khách hàng có thể nói anh ta muốn các nẹp răng được loại bỏ khỏi răng của mình, nhưng sau khi bạn đưa ra sản phẩn hoàn tất, anh ta có thể thay đổi ý định. a. Loại bỏ mắt đỏ Khi một chủ thể nhìn thẳng vào camera và đèn chớp của camera nháy lên kết quả thường có mắt đỏ. Điều này xảy ra khi ánh sáng (đèn chớp) chiếu vào các mạch máu ở phía sau của một mắt và làm cho chủ thể có một diện mạo hơi xấu. Trong số nhiều cách để giảm thiểu sự cố này là dùng Photoshop CS6 với công cụ Red Eye mới. Phóng to và nhấp một lần với công cụ để quan sát vệt đỏ biến mất, để lại các vệt sáng tự nhên và một con mắt hoàn hảo. Như bạn thấy ở hình dưới đây, các xác lập mặc định thì tuyệt vời ngay cả đối với các trường hợp nghiêm trọng của mắt đỏ. Công cụ Red Eye tìm thấy vệt đỏ, không phải xanh. Đối với mắt xanh (green-eye) (trong các ảnh của các con vật) và các phản chiếu quá sáng từ các mép, sử dụng cọ Brush. Xác lập màu tiền cảnh sang đen; trong thanh Options, chọn chế độ Luminosity và Opacity (một độ mờ đục) khoảng 50%. Sử dụng một cọ với đường kính phải lớp hơn cọ thường và một cọ có độ cứng khoảng 75%. Nhấp một lần và đánh giá kết quả; nếu cần thết, giảm Opacity đến 20% và nhấp lại. Đây là một thủ thuật chỉnh red-eye/green-eye: Công cụ Sponge, xác lập đến Desaturate trong thanh Options, thực hiện tốt việc chỉnh các trường hợp của mắt đỏ (red-eye). b. Làm mờ các nếp nhăn Ở bài trước có một ví dụ minh họa về cách sử dụng công cụ Dodge để làm mờ nhạt các vệt nhăn mà không loại bỏ chúng hoàn toàn. Photoshop có nhiều cách để giảm thiểu hay loại bỏ các nếp nhăn. Các công cụ mạnh nhất cho công việc này là Healing Brush, công cụ Patch, và Clone Stamp. Cả Healing Brush và công cụ Patch đều làm việc bằng cách sao chép kết cấu từ một vùng này sang vùng khác. Ví dụ, bạn có thể sao chép nếp da thẳng sang vùng da bị nhăn, làm thẳng các nếp nhăn trong khi vẫn duy trì tông màu và màu chung của vùng. Để làm việc với Healing Brush, hãy nhấp Alt+nhấp vùng mà bạn muốn sao chép, sau đó nhấp và rê qua vùng mà bạn đang chỉnh sửa. Khi bạn chọn tuỳ chọn Aligned từ thanh Options bạn duy trì mối liên hệ giữa điểm mà bạn đang chỉnh sửa và vùng mà bạn rê. Cho dù bạn di chuyển con trỏ đến đâu, điểm nguồn vẫn cùng khoảng cách và hướng. Tuy vậy, khi sửa chữa các vùng cùng khuôn mặt, bạn có thể thấy nó dễ dàng hơn để xoá hộp kiểm Aligned. Mỗi lần bạn nhả nút chuột, bạn lại bắt đầu từ điểm nguồn. Bằng cách sử dụng các nét ngắn, bạn có thể chỉnh sửa từ cùng vùng nguồn đến bất kỳ vùng nào của ảnh. Để làm việc với công cụ Patch, tạo một vùng chọn (sử dụng bất kỳ các kỹ thuật chọn của Photoshop) và sau đó rê với công cụ Patch. Phụ thuộc vào tuỳ chọn mà bạn chọn từ thanh Options, bạn có thể hoặc chọn và rê vùng bị tổn hại hoặc một vùng đẹp (Chọn Source từ thanh Options), hay bạn có thể chọn một vùng đẹp và rê đến vùng bị tổn hại (chọn Destination). Bạn có thể sử dụng cả hai Healing Brush và công cụ Patch để áp dụng một kết cấu đã xác định trước. Công việc này có thể thực hiện bằng tay cho việc thêm một kết cấu không thực hiện có trong ảnh của bạn. Cũng giống với Healing Brush, bạn nhấn Alt - nhấp với Clone Stamp để xác lập vùng mà bạn đang sao chép và sau đó tô trên một vùng để thực hiện sự thay đổi. Healing Brush sao chép kết cấu, nhưng Clone Stamp sao chép các pixel, thay thế hoàn toàn vùng mà bạn rê. (Tất nhiên, đó là chủ thể với chế độ hào trộn và độ mờ đục mà bạn chọn từ thanh Options). Tương tự với Healing Brush, Clone Stamp cung cấp tuỳ chọn Aligned. Hình trên biểu thị sự so sánh về sự hạn chế nếp nhăn khi sử dụng Healing Brush và Clone Stamp được xác lập sang Normal và độ mờ dục 100%. (Nếu bạn sử dụng Clone Stamp để sửa chữa da, hạn chế độ mờ đục và đảm bảo chọn một vùng nguồn của độ sáng và màu da tương tự). c. Giảm thiểu chỗ lồi trong ảnh bằng kỹ thuật số Bạn có thể sử dụng công cụ Clone Stamp để giảm bớt chỗ nhô ra ở đường eo hoặc bên dưới một bắp tay, nhưng bạn có thể thấy dễ dàng hơn để tạo một vùng chọn và quay mép bên ngoài hướng vô trong một chút. Ở hình trên tạo một vùng chọn với công cụ Lasso chứa một số nền và da (hay áo). Ctrl+T để vào Free Transform (hay sử dụng lệnh Edit | Transform | Rotate). Rê điểm quay (point of rotation) (ký hiệu chữ thập nhỏ ở giữa hộp biên) lên phía trên của hộp biên, sau đó định ví trí con trỏ phải nằm bên ngoài hộp biên và rê để quay. Khi bạn đã hài lòng, nhấn Enter để chấp nhận sự biến đổi. Khi xử lý các cằm đôi, cách tốt nhất là giảm thiểu hơn là xoá bỏ nó. Việc đặt một chiếc cổ gầy dưới một gương mặt béo sẽ tạo vẻ không tự nhiên. Bạn có thể xén bớt các phần ngoài của cằm thứ hai một chút bằng cách sử dụng chế độ quay, nhưng dựa vào công cụ Burn để làm sậm nó. Bằng việc làm sậm chỗ thịt dư dưới cằm, bạn làm nó xuất hiện dưới dạng bóng – và dưới cằm thực. Sử dụng công cụ Dodge (nếu cần) để ẩn bất kỳ nếp gấp nào liên quan với chiếc cằm béo. Xác định lại cằm và các đường nét tự nhiên nhưng nhớ rằng kết quả không phải có vẻ tự nhiên mà còn phải làm cho khách hàng của bạn chấp nhận được. Khi làm việc với các công cụ Burn và Dodge, đừng quên giảm các xác lập Exposure trong thanh Options – 15%-20% thì đủ mạnh cho loại công việc này. Bạn cũng sẽ muốn điều chỉnh giữa Highlights và Midtones (xác lập Range Burn trong thanh Options) khi tạo một bóng giả trên một cằm đôi bằng công cụ Burn. Phóng to khi thực hiện loại công việc này, nhưng cũng mở một cửa sổ thứ hai qua Window | Arrange | New Windows dùng cho [tên file] để theo dõi sự tác động tổng thể của các thay đổi. Bạn có thể sử dụng đặc tính Fiter | Liquify… của Photoshop để kéo, đẩy, xoán, làm nhăn, phồng lên, và thao tác các pixel theo dạng và vị trí bạn cần. Hình ảnh khi sử dụng công cụ trong menu Filter Thực sự chẳng có gì mạnh hơn khi thực hiện việc cấu hình lại một hình ảnh. Ở hình trên, bạn thấy khuôn mặt đã được co lại cho phù hợp, và thanh thoát hơn. d. Sự phải chiếu qua kính Các loại kính đeo mắt thường là một cơn ác mộng của nhiếp ảnh gia! Sự phản chiếu qua kính thường là các điểm nổi bật phản chiếu (specular highlights) có nghĩa là các vùng trắng trong suốt tuyệt đối không có chi tiết nào trong chúng. Để đánh giá chính xác sự phản chiếu đèn trong cá kính đeo mắt, mở Palette Info và di chuyển con trỏ qua vùng. Nếu bạn thấy một sự thay đổi đáng chú ý giữa các giá trị RGB trong Palette Info, bạn có thể phục hồi vùng này bằng công cụ Burn. Nếu Palette Info biểu thị các giá trị RGB là 255/255/255 hoặc tương đương, vùng này không có chi tiết. Sử dụng công cụ Clone Stamp để sao chép trên vùng từ phần khác của ảnh. (Hay bạn có thể sử dụng ảnh khác như là điểm nguồn cho Clone Stamp). e. Làm trắng răng Nói chung răng không thực sự trắng lắm. Hãy quan sát các bóng ngà và vàng trong răng. Sử dụng công cụ Dodge để làm sáng răng. Từ thanh Options, xác lập công cụ với Midtones (không phải Highlights) và một Exposure có lẽ 30% dùng cho các răng cửa. Sau đó chuyển đổi đến Shadows và làm sáng các răng cửa, răng hàm hiển thị phía sau. đừng phóng đại quá. Hình trên minh họa hàm răng của những người bình thường, hàm răng của những người bình thường “được cải thiện”, và hàm răng của các diễn viên Hollywood. Cân bằng phần điều chỉnh của bạn theo các nhu cầu của khách hàng. 3. Giảm nhiễu trong các ảnh Việc chuyển từ phòng tối sang dạng kỹ thuật số đã giúp tiết kiệm khá nhiều tiền để sửa phim và các phí tổn xử lý nhưng lại bổ xung một tập hợp các thách thức mới vào mỹ thuật và ngành kinh doanh nhiếp ảnh. Có lẽ dẫn đầu trong số các lỗi thường gặp của kỹ thuật chụp ảnh số là hiện tượng nhiễu. Đỏ, xanh, và xanh da trới (hay sáng và tối) lẫn trộn trong một ảnh có thể hư một ảnh kỹ thuật số. Nhiễu thường thấy rõ ở các vùng bóng và trên với các màu tối trong các ảnh của bạn. Nếu camera cho phép bạn chọn một xác lập ISO, bạn có thể giảm nhiễu trong các ảnh bằng cách sử dụng ISO thấp. Đôi khi bạn cần chụp nhanh như các sự kiện thể thao. Tuy vây, khi bạn có một chọn lựa, sử dụng một ISO thấp để giảm nhiễu. Việc dùng giá đỡ chân khi chụp cũng giúp giảm nhiễu rất nhiều. a. Giảm nhiễu Photoshop CS6 bổ xung một tính năng mới để giúp tránh nhiễu. Bạn thấy bộ lọc Reduce Noise mới dưới menu Filter | Noise. Như bạn thấy ở hình dưới, nó thực hiện rất tốt trung hoà các pixel đỏ, xanh, và xanh da trời ngẫu nhiên trong khi bảo tồn chi tiết trong ảnh. Chú ý rằng Reduce Noise cũng cung cấp một tuỳ chọn Remove JPEG Artifact. Khi lưu trong dạng file JPEG, bạn điều hoà giữa chất lượng ảnh và kích cỡ file nhỏ hơn. File càng nhỏ, khả năng gây tổ hại việc nén đối với ảnh của bạn càng lớn. Nói chung sự tổn hại này biểu thị chính nó như là các đường hiển thị giữa các khối của các pixel đỏ 8 pixel vuông. Bạn cũng sẽ thấy công cụ Color Replacement tiện lợi cho việc giảm tiếng ồn, đặc biệt trong các vùng có màu khá đồng đều. Alt + nhấp phải trong vùng để xác lập màu tiền cảnh; sau đó tách biệt vùng bị nhiễu. Khi bạn di chuyển từ vùng này sang vùng khác trong ảnh, Alt - nhấp để chọn một màu foreground (tiền cảnh) mới. b. Loại bỏ hiện tượng nhiễu độ sáng Ngoài những vết đốm nhỏ đỏ, xanh, và xanh da trời của hiện tượng nhiễu kỹ thuật số, bạn có thể gặp hiện tượng nhiễu độ sáng, đây là những đốm nhỏ sáng và tối rải rác qua ảnh của bạn. Bộ lọc Surface Blur mới của Photoshop CS6 có thể sử lý nhiễu dộ sáng, nhưng bạn có nhiều điều khiển hơn qua kết quả khi làm việc với bộ lọc Blur | Smart Blur. Không giống với Surface Blur Smart Blur cho phép bạn gõ nhập các phân số cho cả hai giá trị Radius (bán kính) và threshold. Đôi khi sự khác nhau giữa một blur 1. 5 pixel và một blur 2 là sự bảo vệ chi tiết đẹp trong ảnh của bạn. 4. Loại bỏ các thành phần không cần thiết khỏi ảnh gốc Đôi khi một bức ảnh tất đẹp lại có chứa một thành phần nào đó mà bạn lại muốn tẩy xoá nó khỏi ảnh, như là các đường dây điện thoại ở các khoảng cách xa, một toà nhà, hay có lẽ là một người bạn muốn tẩy xoá đi. Nói khác đi, mọi thứ trong ảnh rất đẹp, nhưng ảnh dường như sai bởi vì góc độ của ảnh được chụp. Photoshop cung cấp cho bạn các công cụ và các kỹ thuật khác nhau để cắt xén, sao chép, làm sạch và thậm chí chỉnh sửa phối cảnh. a. Loại bỏ các thành phần không mong muốn Có lẽ cách dễ nhất để loại bỏ một thành phần ra khỏi một ảnh là xén (crop) ảnh: có nghĩa là, cắt bớt một phần của ảnh. Kỹ thuật này thì dễ nếu một mẩu rác hay bất kỳ điều gì xảy ra nằm ở góc ảnh và cắt xén sẽ không làm hỏng tác phẩm của bạn. Tuy vậy, khi bạn phải che đậy hơn là cắt xén, hãy xem xét cả cloning (nhân bản) và copy/paste (sao chép/ dán) Một trong những vấn đề quan trọng khi sử dụng công cụ Clone Stamp là phải để ý đến công việc. Phóng to để bạn có thể làm việc chính xác nhưng sử dụng Window | Arange | New Window cho lệnh [filename]. Giữ cửa sổ thứ hai được thu nhỏ vì thế bạn có thể kiểm soát tiến độ khi làm việc. Bạn cũng muốn giữ một bản sao của ảnh gốc mở cho việc tham chiếu. Bạn có thể tạo một bản sao của file bằng lệnh Image | Duplicate hoặc bằng cách nhấp nút trái ở phía dưới của Palette History một bản sao của file bằng lệnh Image | Duplicate hoặc bằng cách nhấp nút trái ở phía dưới của Palette History. Ở hình ảnh dưới, bạn thấy ảnh gốc ở phía trái, ảnh sau khi chỉnh sửa bên phải, vùng chỉnh sửa nằm trong khung mầu trắng. - Làm việc trên một lớp tách biệt: Trước khi sao chép (cloning), nhấp nút New Layer ở bên dưới của Palette Layers và nhấp nút Sample All Layers trên thanh Options. Bằng cách sao chép với lớp mới, bạn bảo vệ chính bạn khỏi các sơ suất (bạn có thể luôn xoá phần của lớp bên trên) và có thể hiển thị, ẩn lớp công việc của bạn để kiểm tra tiến độ. Nếu ảnh thực sự có nhiều lớp và bạn muốn sao chép chỉ một, ẩn các lớp khác trong palelle Layers bằng cách nhấp các biểu tượng eyeball trong cột bên trái. - Nếu màu hay mẫu dồng bộ, sao chép gần: Ví dụ, nếu bạn đang loại bỏ một đường dây điện bên bầu trời xanh đẹp, sao chép từ phía phải bên trên và bên dưới đường dây điện để bạn có được sự tương hợp màu tốt nhất. Đối với các thành phần lớn hơn, hay tinh vi hơn, bạn có thể sao chép chỉ một nửa, sao chép một nửa từ một phía và một nửa còn lại ở mặt kia. - Để tránh một mẫu có thể nhận ra, sao chép xa: Ở hình trên, chúng ta đã sao chép phía trên tay vịn xe đạp ở góc phía bên dưới của ảnh từ các vị trí khác nhau để tránh tạo bất kỳ bản sao chép lại có thể nhận ra nằm gần kề các cụm hoa hay các tảng đá. Tuy vậy, bạn nên thử sao chép từ các vùng có cùng khoảng cách kể từ ống kính với vùng mà bạn đang sao chép, Nếu bạn sao chép từ khoảng cách xa vào trong tiền cảnh, bạn sẽ có một sự tương hợp sai về kích cỡ có thể nhận ra và có lẽ có sự khác nhau về tiêu điểm. - Để sao chép các vùng, hay các đối tượng, sử dụng Aligned: Ở hình trên, chúng ta đã sao chép các mảng của các bông hoa dại, cỏ, và đá. Bằng cách sử dụng tuỳ chọn Aligned, mối liên hệ giữa điểm mà chúng ta đã tạo mẫu và điểm mà chúng ta đã sao chép được giữ lại khi nhả nút chuột. Để chọn một điểm nguồn mới, hãy nhấn Alt+nhấp. - Để lặp lại một mẫu hay kết cấu, đừng sử dụng Aligned: Nếu bạn có một đối tượng đặc biệt, kết cấu hay mẫu mà bạn muốn sao chép lại trong nhiều vùng, bạn có thể xoá chọn hộp kiểm Aligned trên thanh Options. Mỗi lần bạn nhả nút chuột, điểm nguồn quay trở về vị trí, chính xác nơi bạn đã nhấn Alt + nhấp. Bạn có thể sao chép cùng phần của ảnh vào trong nhiều vị trí khác nhau khi bạn chọn. Bạn có thể thay đổi độ mờ đục và chế độ hoà trộn của công cụ. Nói chung, khi bạn che giấu một thành phần nào đó trong ảnh, hãy sử dụng chế độ hoà trộn Normal và độ mờ đục 100%. Tuy nhiên, bạn cũng có thể nhân bản với các chế độ hoà trộn khác và giảm độ mờ đục thay vì che giấu để đạt được các hiệu ứng đặc biệt. Điều chỉnh kích cỡ cọ. Nhấn các dấu ngoặc vuông mở và đóng (ở phía bên phải chữ P trên bàn phím chuẩn) để giảm và tăng đường kính cọ mà không phải mở Palette Brushes. Kiểm tra các xác lâp Hardness và Spacing của cọ. Để đạt được kết quả nhẵn nhất cho phần nhân bản chung, hãy giảm xác lập Hardness của cọ xuống khoảng 25%. Nếu bạn cần một mép rõ ràng hơn cho cọ, bạn đừng nhân bản với xâc lập Hardness trên 90%. Thay vào đó, bạn hãy vào Palette Brushes và xác lập Spacing sang 1% để bảo đảm mép càng nhẵn càng tốt. Các thách thức lớn hơn thường cần đến các biện pháp linh động hơn, chẳng hạn như nhân đôi các lớp và các mặt nạ lớp. Sau đây là các bước cần thực hiện để loại bỏ con mèo ra khỏi đám cỏ trong bức ảnh. 1. Quyết định phần nào cần loại bỏ và cách tốt nhất để che lấp nó. Trong trường hợp ở đây, chúng ta sẽ loại bỏ con mèo ở bên trái. 2. Tạo một vùng chọn của vùng bạn sẽ che lấp. Chúng ta sẽ dùng vùng chọn hình chữ nhật đưa vào mọi thứ ở phía bên phải con mèo. 3. Sao chép sang một lớp mới. Sử dụng tổ hợp phím Ctrl+J để sao chép vùng chọn sang một lớp mới. 4. Định vị trí lớp mới. Sử dụng công cụ Move để trượt lớp mới phía trên vùng bạn muốn loại bỏ. 5. Xóa phần hình ảnh thừa. Hình ảnh ở đây là con mèo trên bãi cỏ chúng ta dùng công cụ Eraser để xóa hình ảnh con mèo. Do đã dịch chuyển phần cỏ ở Layer mới phía dưới sang vị trí con mèo nên khi xóa chúng ta sẽ thấy lộ ra phần cỏ mới phù hợp với hình ảnh. 6. Tìm và điều chỉnh các hiện tượng khác thường. Nếu có những điểm khác thường bạn tiếp tục điều chỉnh cho từng vị trí. 7. Xén (crop). Quan sát lại ảnh giữa bên dưới ở hình ảnh, bạn thấy vùng cần được xén, nằm ngoài phía phải. Bằng cách dùng vùng chọn hình chữ nhật của mọi thứ bạn muốn lưu và lệnh Image | Crop, sự thay đổi đã hoàn tất. b. Loại bỏ hiện trạng nghiêng: Chỉnh sửa phối cảnh Khi bạn chụp một bức ảnh tại một góc, có lẽ chụp theo hướng lên trên của một toàn nhà, bạn có được ảnh foreshorteng (ảnh thu nhỏ lại ở mặt trước) với một phần ở xa của chủ thể thu nhỏ lại. Bạn có thể sử dụng lệnh Photoshop Edit | Transform | Perspective để chỉnh sửa lỗi. Tạo một vùng chọn, chọn lệnh Perspective, sau đó rê hướng ra ngoài trên một góc của cạnh để thu nhỏ lại (hay hướng vô biên trong ở góc của cạnh để phóng lớn ra). Khi các đường dọc và ngang trong ảnh thẳng, nhấn tổ hợp phím tắt Ctrl+T để vào chế độ Free Transform. Làm cho một chủ thể cao hơn. Như bạn thấy ở hình phía dưới, việc chỉnh sửa phối cảnh chính xác cũng yêu cầu một phần điều chỉnh chiều cao. Nhấn Return/Ener khi kết thúc. Bạn cũng cố thể sử dụng công cụ Perspective Crop của Photoshop để chỉnh sửa phối cản. Để có kết quả tố nhất, định vị trí bốn góc của hộp biên ở các góc thấy được của một thành phần trong ảnh mà nó sẽ là hình chữ nhật hay hình vuông; sau đó rê các núm điều khiển mặt hướng ra ngoài để mở rộng hộp biên bao quan ảnh của bạn. Nhấn Enter khi đã hoàn tất. Hình dưới minh họa công cụ Crop thực hiện tốt việc điều chỉnh chiều cao vừa khít trong phối cảnh. c. Quay các ảnh chính xác Nằm ẩn dưới Eyedropper trong Toolbox của Photoshop là công cụ Measure. Nói chung, bạn sử dụng nó kết hợp với Palette Info để tìm các khoảng cách và các góc trong ảnh của bạn. Bạn cũng có thể sử dụng nó để đảm bảo rằng bạn áp dụng một độ quay chính xác cần thiết cho ảnh. Chọn công cụ Measure, rê nó dọc theo bất kỳ đường thẳng ngang hay dọc trong ảnh, sau đó chọn Image | Rotate Canvas | Aribitrary. Góc của công cụ Measure sẽ đợi bạn trong hộp thoại, vì thế bạn chỉ cần nhấp OK để quay ảnh của bạn một cách chính xác. 5. Tạo bong bóng trong bức ảnh (Sưu tầm tại: Trong phần này chúng tôi sẽ trình bày những bước cơ bản để tạo hình ảnh bong bóng trong bức ảnh bằng công cụ Brush quen thuộc. Trước tiên, chúng ta cần tạo mới 1 văn bản với kích thước 600 x 600 px, độ phân giải 72 pixel/inch, chế độ Background Contents là White: Lựa chọn công cụ Elliptical Marquee Tool từ bảng điều khiển Tool, hoặc nhấn nút M 2 lần: Nhấn và giữ phím Shift + Alt (Windows) hoặc Shift + Option (Mac) và bắt đầu vẽ từ phần giữa, kéo dần ra bên ngoài. Chúng ta sẽ có hình tròn đầu tiên: Mở tiếp menu Layer và chọn New > Layer via Copy hoặc nhấn phím tắt Ctrl + J (Windows) / Command + J (Mac): Photoshop sẽ thực hiện thao tác copy phần nội dung bên trong vùng chọn sang 1 lớp mới và đặt tên là Layer 1, ngay bên trên Layer gốc trong bảng điều khiển: Sau đó, nhấn vào biểu tượng Layer Styles ở phía dưới: Chọn phần Inner Glow từ menu hiển thị: Cửa sổ điều khiển Layer Style của Photoshop xuất hiện, các bạn thay đổi chế độ Blend Mode từ Screen thành Multiply, có tác dụng chuyển phần Inner Glow thành Inner Shadow. Chọn tiếp chức năng Color Swatch bên dưới chữ Noise và lấy màu đen. Và cuối cùng là chuyển Size trong phần Elements trong khoảng 40 px. Các bạn đừng vội nhấn OK và thoát khỏi hộp thoại Layer Style, vì chúng ta vẫn còn việc cần làm tại đây. Đây là kết quả tạm thời của quá trình này: Tiếp đó, đánh dấu check vào ô Gradient Overlay (chọn trực tiếp vào dòng chữ, chứ không phải chỉ chọn ô checkbox): Quá trình này sẽ thay đổi thay đổi cột giữa trong bảng hộp thoại Layer Style thành Gradient Overlay. Tại đây, các bạn hãy chú ý phần Gradient và thay đổi lại sao cho giống hình dưới: Tiếp theo, hộp thoại Gradient Editor hiển thị, chúng ta sẽ chọn phần Gradient có tên là Black, White như dưới đây. Sau đó nhấn OK: Quay trở lại hộp thoại Layer Style, tiếp tục thay đổi Style từ Linear thành Radial: Và kết quả của chúng ta sau khi thực hiện những bước trên sẽ trông giống như thế này: Vẫn mở bảng Layer Style, các bạn chọn phần giữa của hình tròn nhấn giữ chuột và kéo di chuyển tới góc trên bên trái. Sau đó nhấn OK và đóng cửa sổ Layer Style: Tiếp tục, chọn biểu tượng New Layer để tạo thêm 1 lớp mới: Và sử dụng công cụ Brush Tool: Chọn thông số Foreground là màu đen (hoặc nhấn phím D để thay đổi về lựa chọn mặc định), chuyển sang chế độ Small, Soft - Edge round brush, và nhấn vào phần dưới của hình tròn để tạo thêm 1 điểm nữa như hình dưới: Nhấn và giữ phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn trực tiếp phần Preview Thumbnail của Layer 1, chúng ta sẽ có toàn bộ phần lự chọn bên ngoài: Chọn tiếp menu Filter > Distort > Pinch: Bảng điều khiển chính của hiệu ứng Pinch hiển thị, thay đổi thông số Amount về phía cuối cùng bên trái: Nhấn OK để áp dụng thay đổi và đóng của sổ, sau đó nhấn tiếp Ctrl + F (Windows) hoặc Command + F (Mac) 2 lần để áp dụng hiệu ứng này thêm 2 lần nữa. Sau đó, nhấn Ctrl + D (Windows) hoặc Command + D (Mac) để bỏ vùng chọn: Kết quả tạm thời của chúng ta Khi đã hoàn thành phần cơ bản của hình bong bóng, hãy lưu lại dưới dạng Brush. Mở menu Edit > Define Brush Preset: Hộp thoại Brush Name hiển thị, các bạn đặt tên là Bubble rồi nhấn OK: Tiếp theo, mở bức ảnh chúng ta cần gán bong bóng vào. Ví dụ tại đây: Nhấn vào biểu tượng New Layer ở phía dưới bảng điều khiển để tạo thêm lớp mới bên trên ảnh nền: Chọn tiếp Brush Tool từ thanh điều khiển Tool, nhấn chuột phải (Windows) hoặc Control + click (Mac) tại bất cứ nơi nào trên bức ảnh để mở bảng Brush Preset picker, chọn thành phần cuối cùng trong danh sách và nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để đóng cửa sổ này lại: Tiếp tục, nhấn F5 để mở Brush, tại đây có chứa tất cả các lựa chọn của Brush Dynamics cho phép chúng ta điều khiển hành động của Brush khi vẽ. Cũng trong bảng điều khiển Brushes đang mở, các bạn nhấn trực tiếp vào phần Shape Dynamics: Tăng thông số Size Jitter tới 100%, thực hiện tương tự như vậy với Roundness Jitter, và cuối cùng là Minimum Roundness thành 25%: Tiếp tục, chọn trực tiếp phần Scattering bên dưới Shape Dynamics, tại đây các bạn thay đổi tham số Scatter tới khoảng 250% và đóng cửa sổ này lại: Như vậy là chúng ta đã hoàn thành ¾ chặng đường, phần còn lại là to màu cho những phần bong bóng này. Hãy đảm bảo rằng phần Foreground color đã được đổi về màu trắng (nhấn phím X): Ở chế độ mặc định, công cụ Brush đang lựa chọn có kích thước hơi to quá, do vậy các bạn nhấn phím [ để thay đổi. Sau đó chọn Layer 1 và bắt đầu vẽ. Nếu cảm thấy không hài lòng với sản phẩm của mình, hãy nhấn phím tắt Ctrl + Z (Windows) / Command + Z (Mac) để quay lại bước trước, hoặc Ctrl + Alt + Z (Windows) / Command + Option + Z (Mac) để quay trở lại nhiều bước. Hãy cố gắng thực hiện sao cho thật tự nhiên Nhưng tại bước này, hình ảnh bong bóng của chúng ta trông có vẻ hơi quá sắc nét so với môi trường nước. Để khắc phục vấn đề này, nhấn Ctrl + J (Windows) / Command + J (Mac) để nhân đôi lớp bong bóng này lên: Sau đó, áp dụng hiệu ứng Gaussian Blur qua menu Filter > Blur: Bảng điều khiển của Gaussian Blur hiển thị, thay đổi giá trị của Radius thành 8: Nhấn OK, và hình ảnh của những chiếc bong bóng sẽ trông tự nhiên hơn rất nhiều: Để hoàn thiện tác phẩm của chúng ta, các bạn hãy tạo thêm 1 lớp mới, và sử dụng Brush kích thước lớn để thêm các luồng bong bóng, có tác dụng làm cho người xem cảm nhận được toàn cảnh của bức tranh khi ở dưới nước: 6. Tạo hiệu ứng ảnh lồng nhau Trong bài này chúng tôi sẽ trình bày 1 số bước cơ bản để tạo hiệu ứng ảnh lồng nhau. Mục đích chính của chúng ta là hướng sự tập trung của người xem vào đối tượng chính, sau khi được chỉnh sửa sẽ nằm gọn bên trong 1 khung ảnh khác.  Ảnh mẫu được sử dụng trong bài viết này Trước tiên, chúng ta sẽ nhân đôi lớp ảnh gốc bằng chức năng Duplicate Layer hoặc sử dụng phím tắt Ctrl + J (Windows) hoặc Command + J (Mac), sau đó chương trình sẽ tự đổi tên lớp mới thành Layer 1: Và để dễ phân biệt và xử lý trong các bước sau, các bạn nên đổi tên các lớp khác nhau. Ở đây, chúng tôi sẽ đổi Layer 1 thành Smaller version: Tiếp theo, chúng ta cần phải tạo thêm 1 lớp mới bên dưới Smaller version. Chọn Smaller version, giữ phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn biểu tượng New Layer ở phía cuối bảng điều khiển: Và Photoshop sẽ tạo mới 1 Layer nằm giữa 2 Layer có sẵn: Tương tự như trên, chúng ta sẽ tiến hành đổi tên để dễ phân biệt với các lớp khác, ở đây là Clipping mask: Từ giờ trở đi, chúng ta chủ yếu thao tác trên Layer mới này. Tiếp theo, các bạn chọn công cụ Rectangle hoặc nhấn phím U: Dùng công cụ này và vẽ 1 hình tứ giác xung quanh đối tượng chính: Sau đó, các bạn sẽ thấy lớp Clipping mask từ 1 Layer bình thường đã trở thành Layer vector shape: Tiếp theo, nhấn phím Alt (Windows) hoặc Option (Mac) và di chuyển đường kẻ giữa 2 lớp Smaller version và Clipping mask, cho tới khi biểu tượng của con trỏ chuyển thành hình vuông với mũi tên đi xuống. Trông có vẻ như chưa có gì khác với bức ảnh của chúng ta, nhưng trong bảng điều khiển, các bạn có thể thấy lớp Smaller version đã lùi 1 ít vào bên phải, nghĩa là nó đang được cắt bằng lớp vector shape ở ngay bên dưới: Vẫn tại lớp Clipping Mask này, các bạn nhấn biểu tượng Layer Styles ở bên dưới và chọn Stroke: Cửa sổ Layer Style hiển thị, các bạn thay đổi thông số thiết lập theo hình sau: Ở đây có 3 lựa chọn được thay đổi, đầu tiên là mục Stroke Size – có tác dụng tạo đường viền với kích cỡ như vậy bao quanh vùng lựa chọn. Tiếp theo là Position – chuyển thành Inside để những hiệu ứng xuất hiện phía bên trong đường viền, thay đổi Color thành white để đổ màu vào khoảng trống của đường viền: Cũng trong bảng điều khiển Layer Style này, hãy chọn mục Drop Shadow – lưu ý rằng chỉ nhấn vào dòng chữ Drop Shadow, không đánh dấu vào ô check box bên cạnh. Việc này sẽ thay đổi lựa chọn giữa của hộp thoại Layer Style từ Stroke thành Drop Shadow. Tiếp tục, các bạn thiết lập Opacity trong khoảng 50%, Angle thành 130° và Distance - 10 pixels: Tiếp theo, các bạn có thể cân nhắc việc sử dụng Free Transform để xoay góc hoặc thay đổi kích thước của đường viền xung quanh nếu muốn. Nhấn phím tắt Ctrl + T (Windows) hoặc Command + T (Mac) để bắt đầu, nhấn và giữ nút Shift trong khi thao tác để giữ nguyên tỉ lệ của khung hình: Khi cảm thấy vừa ý, nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để áp dụng thay đổi của quá trình này. Nếu tìm được góc xoay hợp lý với khung cảnh xung quanh, bức ảnh sẽ trở nên sống động hơn rất nhiều. Tiếp theo là công đoạn phức tạp, sử dụng công cụ Eyedropper để lấy màu trong vùng ảnh nhỏ: Ví dụ như tại đây, chúng ta sẽ chọn vùng màu trên chiếc mũ bảo hiểm: Khi tiến hành lấy màu mẫu thì các bạn để ý rằng màu Foreground color của thanh công cụ đã chuyển thành màu xanh nước biển: Chọn lớp Layer1 và nhấn New Adjustment Layer trong bảng điều khiển và chọn tiếp Hue/Saturation: Hộp thoại Hue/Saturation hiển thị, các bạn đánh dấu vào ô Colorize: Nhấn OK để áp dụng thay đổi, chúng ta sẽ thấy hiệu ứng xuất hiện trên bức ảnh như sau: Khi đã hoàn thành bước này có nghĩa là chúng ta đã gần đạt được mục đích, chỉ còn 1 bước nữa là áp dụng hiệu ứng Radial Blur vào ảnh nền. Nhưng trước đó, các bạn cần nhân đôi lớp ảnh nền 1 lần nữa, nhấn Ctrl + J (Windows) hoặc Command + J (Mac), đổi tên lớp vừa tạo thành Radial Blur: Tiếp theo, các bạn nhấn Filter > Blur > Radial Blur, hộp thoại Radial Blur sẽ hiển thị. Tại đây, chúng ta thiết lập các thông số kỹ thuật như sau: Blur Method – Zoom, Quality – Best, Amount – 40, mục Blur Center chỉ định hiệu ứng sẽ “xuất phát” từ vị trí nào trong vùng chọn: Nhấn OK, và kết quả của chúng ta tại bước này sẽ trông giống như sau: Tùy từng bức ảnh và thông số thiết lập khác nhau, như ví dụ ở đây, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra hiệu ứng Blur hơi quá nhiều, do vậy sẽ cần thêm 1 số thao tác hòa trộn với lớp Background. Rất đơn giản, các bạn chỉ cần thay đổi thông số Opacity trong khoảng 60% là vừa đủ: Và đây là kết quả của chúng ta sau khi hoàn tất toàn bộ các bước hướng dẫn trên: 7. Tạo hiệu ứng phóng to trong bức ảnh Trong bài này chúng tôi sẽ hướng dẫn các bạn một số thao tác cơ bản để tạo hiệu ứng phóng to với bất kỳ bức ảnh nào. Cụ thể tại đây, chúng ta sẽ sử dụng bộ lọc Radial Blur của Photoshop, và một số thủ thuật với Layer Mask và Gradient Tool.  Ảnh mẫu được sử dụng trong bài thử nghiệm của chúng ta: và kết quả đạt được sau khi áp dụng: Trước tiên, các bạn phải nhân đôi lớp Layer gốc của bức ảnh, để những thao tác sau được áp dụng trên 1 lớp riêng biệt. Chọn menu Layer và New > Layer via Copy, hoặc sử dụng phím tắt Ctrl + J (Windows) / Command + J (Mac) trên bàn phím: Khi nhìn vào bảng điều khiển chính, chúng ta sẽ thấy 2 Layer: một ở dưới (Layer gốc) và Layer 1 (tạo mới) ở trên: Lựa chọn Layer 1 và mở menu Filter > Blur > Radial Blur: Cửa sổ điều khiển Radial Blur của Photoshop hiển thị với 2 lựa chọn chính trong phần Blur Method là Spin và Zoom. Tại đây, chúng ta sẽ sử dụng Zoom với thông số Amount là 50 và Quality – Best: Nhấn OK để áp dụng hiệu ứng và đóng cửa sổ này lại, chúng ta sẽ có tác phẩm tạm thời như sau: Tùy thuộc vào cấu hình máy tính và các thiết lập khác thì quá trình áp dụng này sẽ diễn ra nhanh hoặc chậm Nếu cảm thấy chưa hài lòng với kết quả này, hãy sử dụng chức năng Undo Radial Blur trong mục Edit hoặc nhấn phím tắt Ctrl + Z (Windows) / Command + Z (Mac): Sau đó, áp dụng lại hiệu ứng trên bằng tổ hợp phím Ctrl + Alt + F (Windows) hoặc Command + Option + F (Mac), chọn giá trị Amount khác, thay đổi vị trí trong ô Blur Center... thực hiện các bước này cho đến khi bạn cảm thấy vừa ý. Tuy nhiên, vấn đề chính khi chúng ta sử dụng hiệu ứng này là Blur đã che phủ toàn bộ bức ảnh, không thực sự phù hợp với ý tưởng của bài thử nghiệm. Cụ thể, tại đây, chúng ta cần làm rõ phần khuôn mặt của em bé, chứ không phải tất cả khung cảnh. Vẫn chọn Layer 1, nhấn vào biểu tượng Layer Mask ở dưới khay hệ thống: Khi nhìn vào bức ảnh chính, mọi người sẽ không thấy hiện tượng gì xảy ra. Nhưng trong cửa sổ điều khiển chính của Layer, các bạn sẽ nhìn thấy 1 hình chữ nhật màu trắng bên cạnh, đó là đã tạo thành công lớp Layer Mask: Tiếp theo, lựa chọn công cụ Gradient Tool từ bảng Tools hoặc nhấn nút G trên bàn phím: Sau đó, nhấn chuột phải trong Windows hoặc Control + click (Mac) tại bất cứ vị trí nào trên bức ảnh để hiển thị bảng Gradient Picker, tại đây các bạn chọn phần Black to White (xếp thứ 3 từ trái sang phải, hàng trên cùng): Để làm hiển thị rõ phần khuôn mặt, chúng ta sẽ phải kéo chuột từ phần giữa ra bên ngoài. Cụ thể, ở đây chiếc mũi được chọn làm phần trung tâm, từ từ kéo chuột từ đây ra bên ngoài bên trái (theo hình dưới): Do thao tác này được thực hiện trên phần Layer Mask, do vậy sẽ không có sự thay đổi nào trên Layer 1. Thay vào đó, kết quả này sẽ được hiển thị trực tiếp trên lớp Layer Mask vừa tạo: Mặc dù chúng ta không thể nhìn thấy phần Gradient trong cửa sổ chính, nhưng lại rất rõ ràng qua Layer Mask. Phần diện tích màu đen bên trong được ẩn đi, và các thành phần Gradient này trở nên sáng hơn về các góc, còn toàn bộ phần màu trắng chính là những gì chúng ta đang nhìn thấy: Trong trường hợp hiệu ứng Blur này quá “mạnh”, hãy giảm độ Opacity của Layer 1 xuống tới mức phù hợp. Cụ thể tại đây, chúng tôi thay đổi về mức 70%: Và đây là kết quả hoàn thiện của chúng ta: 8. Tạo hiệu ứng gợn nước trong bức ảnh Trong bài này chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu và thực hành những bước cơ bản để tạo bức ảnh với mặt nước đang chuyển động và gợn sóng. Thực chất, Photoshop đã có sẵn 1 số bộ lọc để tạo hiệu ứng như trên, nhưng người sử dụng sẽ không thể đoán được từ tên của filter đó (không phải Ripple hoặc Ocean Ripple) nếu không tham khảo bài viết dưới đây.  Ảnh mẫu được sử dụng tại bài thử nghiệm này Và đây là kết quả sau khi chúng ta hoàn thành: Trước tiên, chúng ta sẽ vẽ 1 vùng bất kỳ trên bức ảnh, nơi những gợn nước sẽ xuất hiện. Chọn công cụ Elliptical Marquee Tool tại thanh menu hoặc nhấn phím M 2 lần: Sau đó, di chuyển vùng lựa chọn này vào vị trí phù hợp của bức ảnh, tùy từng đối tượng và các thành phần xuất hiện mà chúng ta sẽ có những sự lựa chọn khác nhau. Ví dụ tại đây: Giữ nguyên vùng lựa chọn này, các bạn nhấn Ctrl + J (Windows) hoặc Command + J (Mac) 2 lần để tạo 2 bản sao khác nhau: Để tiếp tục, chúng ta cần tạm ẩn phần Layer trên cùng (ở đây là Layer 1 copy) bằng cách nhấn vào biểu tượng hình con mắt phía bên trái: Và làm việc với lớp ngay bên dưới: Tiếp tục, giữ phím Ctrl (Windows) hoặc Command (Mac) và chọn lớp cần thao tác (tại đây là Layer 1): Quá trình này sẽ tạo ra 1 vùng chọn lựa khác bao quanh phần chính của Layer 1, nghĩa là vùng lựa chọn bên ngoài mà các bạn vừa vẽ tại bước trên sẽ xuát hiện trở lại. Lý do tại sao chúng ta lại phải làm như thế này trước khi áp dụng hiệu ứng từ filter là vì nếu làm ngược lại thì Photoshop sẽ áp dụng toàn bộ hiệu ứng lên tất cả các lớp và ảnh gốc: Và đây là phần chính của quá trình này, đó là việc áp dụng hiệu ứng sao cho hợp lý. Để tạo được hiệu quả như ý muốn, chúng ta cần sử dụng filter có tên là ZigZag (không phải là Ripple hoặc Ocean Ripple). Các bạn chọn Filter > Distort > ZigZag trong danh sách hiển thị: Bộ lọc này làm việc bằng cách biến những chi tiết trong vùng lựa chọn thành những gợn sóng nước. Tại phần dưới của bảng điều khiển là mục Style – các cách tương ứng để tùy chỉnh hiệu ứng của Photoshop. Có 3 lựa chọn chính: Around Center, Out From Center và Pond Ripples (mặc định), tương ứng với đó là 3 hiệu ứng khác nhau, và phụ thuộc và diện tích của vùng lựa chọn mà người sử dụng sẽ đưa ra phương án áp dụng phù hợp nhất của riêng họ: Phần điều khiển Amount có tác dụng thay đổi “cường độ” của các gợn nước sẽ xuất hiện, trong khi thông số Ridges ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng của gợn nước. Hãy chú ý và dựa vào cảm giác, trực quan của riêng mình để quyết định phương án nào là thích hợp hơn cả (hiệu ứng sẽ không được áp dụng thật sự cho đến khi bạn nhấn nút OK). Trong bài thử nghiệm này, chúng tôi áp dụng ZigZag 2 lần với thông số Ridges 12,Amount 70 và Style là Pond Ripples: Nhấn OK, và chúng ta sẽ có kết quả tương tự như sau: Sau đó, chúng ta sẽ cho hiển thị lại lớp Layer trên cùng (ở đây là Layer 1 copy) để tiến hành bước tiếp theo: Tại đây, chúng ta sẽ áp dụng bộ lọc ZigZag lại lần nữa. Nhấn phím tắt Ctrl + Alt + F (Windows) hoặc Command + Option + F (Mac) để sử dụng bộ filter vừa dùng gần đây nhất. Cụ thể lần này vùng áp dụng hiệu ứng sẽ là phần trung tâm của “vũng nước” vừa tạo ra ở bước trên, do vậy hãy chuyển mục Style về Out From Center, Ridges thành 4 và Amount thành 100: Nhấn OK để áp dụng sự thay đổi và đóng cửa sổ ZigZag. Chúng ta sẽ có kết quả tương tự như hình dưới đây: Sau đó, chọn menu Select > Transform Selection: Tính năng Transform Selection này tương tự như Free Transform của Photoshop ngoại trừ quá trình ảnh hưởng đến vùng lựa chọn bên ngoài. Giữ Shift + Alt (Windows) hoặc Shift + Option (Mac) và chọn phần góc trên bên trái của vùng lựa chọn (có dạng hình chữ nhật), sau đó kéo dần vào phía trung tâm bức ảnh cho tới khi diện tích còn khoảng 50 – 60% kích thước gốc. Nhấn Enter (Windows) hoặc Return (Mac) để áp dụng sự thay đổi: Tiếp tục, chọn menu Select > Inverse hoặc sử dụng phím tắt Shift + Ctrl + I (Windows) hoặc Shift + Command + I (Mac): Quá trình này sẽ làm đảo ngược vùng lựa chọn, khi đến bước này, chúng ta nhấn Backspace (Windows) hoặc Delete (Mac) để xóa toàn bộ thành phần xung quanh trung tâm của vũng nước đó. Nhấn Ctrl + D (Windows) hoặc Command + D (Mac) để loại bỏ vùng chọn: Tiếp theo, chọn menu Layer > Merge Down hoặc nhấn phím tắt Ctrl + E (Windows) hoặc Command + E (Mac): Và sau đó, chúng ta sẽ có 1 Layer mới vừa tạo: Tuy nhiên, việc áp dụng hiệu ứng của bộ lọc ZigZag phía trên đã tạo ra những chi tiết gợn sóng nước với nhiều hình răng cưa, do vậy bức ảnh nhìn sẽ không thật sự tự nhiên. Hãy làm “mềm” những chi tiết này bằng Gaussian Blur (menu Filter > Blur > Gaussian Blur): Bảng điều khiển Gaussian Blur của Photoshop hiển thị, điều chỉnh giá trị của Radius thành 0.4: Nhấn OK, và bức ảnh sẽ trông giống như dưới đây: Tùy vào từng bức ảnh và những chi tiết cụ thể, các bạn hãy linh hoạt trong việc tạo thêm gợn sóng nước và áp dụng hiệu ứng ZigZag sao cho thật sự hiệu quả. Và dưới đây là kết quả của chúng ta sau khi thực hiện quá trình như trên:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docshopcs6_chuan_1837.doc
Tài liệu liên quan