Trào lưu chủ tình trong văn học Việt Nam thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một đề tài không
nhỏ, những vấn đề mà chúng tôi đặt ra và giải
quyết mới chỉ là bƣớc đầu. Nhiều công việc
tiếp theo liên quan vẫn đang để ngỏ. Ví dụ
phân tích kỹ hơn trào lƣu chủ tình qua các tác
giả tiêu biểu trong giai đoạn văn học này nhƣ
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn. hoặc
so sánh trào lƣu chủ tình với những trào lƣu
cùng giai đoạn. Với thơ Nôm Hồ Xuân
Hƣơng, chất chủ tình nhƣ ngọn lửa đƣợc nhen
lên từ lò than đang độ ấm nồng nhất, rực đỏ
nhất. Năng lƣợng của nó đủ sức nóng thu hút
những ai quan tâm đến hành trình phát triển
của tƣ tƣởng nhân quyền nói chung và nữ
quyền nói riêng trên thế giới và Việt Nam.
Đóng góp của thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng vì
thế mang tầm nhân loại
7 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 429 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trào lưu chủ tình trong văn học Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XĨ qua thơ Nôm Hồ Xuân Hương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 44
TRÀO LƯU CHỦ TÌNH TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ XVIII
ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA THƠ NÔM HỒ XUÂN HƯƠNG
Hoàng Thị Tuyết Mai, Vũ Thị Ngọc
Trường Đại học Khoa học - ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Giai đoạn thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là thời kì phát triển rực rỡ của văn học Việt Nam. Nhìn từ
góc độ nhân học văn hóa có thể nói đây là thời kỳ văn học lấy con ngƣời tự nhiên, phàm trần làm
đối tƣợng thể hiện. Đề cao tình cảm, bộc bạch những cảm xúc đa dạng, phong phú, có màu sắc cá
nhân, thầm kín, riêng tƣ thay vì các lý tƣởng thành ý, chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ của con ngƣời xã hội, con ngƣời cộng đồng. Trào lưu chủ tình là cách gọi mang hàm nghĩa đề
cao cảm xúc, tình cảm một cách có ý thức, có cơ sở triết học. Trào lưu chủ tình trong văn học
thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một khái niệm sử dụng theo nghĩa ƣớc lệ, nhằm định danh một
xu hƣớng văn học chiếm vị trí nổi bật nhất, làm nên thành tựu quan trọng nhất của văn học giai
đoạn này: trào lƣu văn học đề cao tình (emotions, feelings, cantiment). Trào lưu chủ tình gợi ra
một hƣớng nghiên cứu mới trong tiến trình văn học trung đại, đặc biệt là thế kỉ XVIII – đầu thế
kỉ XIX. Trong phạm vi bài viết này chúng tôi tìm hiểu thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng dƣới ánh sáng
của Trào lƣu chủ tình.
Từ khóa: văn học, trào lưu chủ tình, thất chủ tình, nhân học văn hóa, thơ Nôm Hồ Xuân Hương
Giai đoạn thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là
thời kì phát triển rực rỡ của văn học Việt
nam. Nếu nhìn từ góc độ nhân học văn hóa có
thể nói đây là thời kỳ văn học lấy con ngƣời
tự nhiên, phàm trần làm đối tƣợng thể hiện.
Đề cao tình cảm, bộc bạch những cảm xúc đa
dạng, phong phú, có màu sắc cá nhân, thầm
kín, riêng tƣ thay vì các lý tƣởng thành ý,
chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ của con ngƣời xã hội, con ngƣời cộng
đồng. Văn học giai đoạn này đƣợc PGS.TS
Trần Nho Thìn gọi là Trào lưu chủ tình – tức
là cách gọi mang hàm nghĩa đề cao cảm xúc,
tình cảm một cách có ý thức, có cơ sở triết
học. Trào lƣu chủ tình gợi ra một hƣớng
nghiên cứu mới trong tiến trình văn học trung
đại, đặc biệt là thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX.
Trong phạm vi bài viết này chúng tôi tìm hiểu
thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng dƣới ánh sáng của
Trào lƣu chủ tình.
HỒ XUÂN HƢƠNG VỚI TRÀO LƢU
CHỦ TÌNH
Hồ Xuân Hƣơng là một hiện tƣợng độc đáo
trong văn học Việt Nam. Thơ Nôm của Hồ
Xuân Hƣơng là mảng văn học thú vị và hấp
dẫn. Lâu nay, nhiều nhà nghiên cứu dành giấy
Tel: 0986222413
bút cho mảng thơ độc đáo của thiên tài kĩ nữ
này. Các tác giả: Đông Châu Nguyễn Hữu
Tiến, Nguyễn Văn Hạnh, Văn Tân, Xuân
Diệu, Nguyễn Đức Bính, Chế Lan Viên, Vũ
Đức Phúc, Trần Thanh Mại, N.I. Niculin, Lê
Trí Viễn đã giải mã những tín hiệu nghệ
thuật ở những khía cạnh khác nhau và đạt
đƣợc những thành công nhất định. Tuy vậy,
tiếp cận thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng từ góc
độ nhân học văn hóa là một hƣớng đi hoàn
toàn mới. Gần đây, tác giả luận văn thạc sĩ
Trần Thị Hƣơng có đi theo hƣớng nghiên cứu
này nhƣng chƣa hình dung Hồ Xuân Hƣơng
trong mạch chung của trào lƣu chủ tình. Vì
vậy tìm hiểu thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng
dƣới ánh sáng của Trào lưu chủ tình chúng tôi
hi vọng phát hiện ra những nét mới trong sáng
tác của Bà.
Trào lưu chủ tình trong văn học thế kỷ
XVIII đầu thế kỷ XIX là một khái niệm sử
dụng theo nghĩa ƣớc lệ, nhằm định danh một
xu hƣớng văn học chiếm vị trí nổi bật nhất,
làm nên thành tựu quan trọng nhất của văn
học giai đoạn này: Trào lƣu văn học đề cao
tình (emotions, feelings, cantiment), tức thiên
về xúc cảm thay vì lý trí tỉnh táo của nhà Nho
truyền thống [1, tr 548].
MÔ TẢ TRÀO LƢU CHỦ TÌNH
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 45
Ở Việt Nam, Trào lƣu chủ tình đƣợc biểu hiện
bởi ba khía cạnh tiêu biểu. Thứ nhất, Trên
phương diện quan niệm về con người (nhân
vật) có thể thấy mẫu nhân vật sống chủ tình,
“việt danh giáo nhiệm tự nhiên” [1, tr 536]
rất rõ nét. Thế kỉ XVIII – XIX con ngƣời
đƣợc phản ánh với những khát vọng đời
thƣờng nhất. Tiêu biểu là những ngƣời phụ
nữ không che giấu xúc cảm, cam chịu theo
giáo lý nữa mà đã nói lên tiếng lòng với
những nỗi khát khao cháy bỏng về tình yêu,
hạnh phúc lứa đôi. Đó là ngƣời chinh phụ,
ngƣời cung nữ, là cái tôi táo bạo Hồ Xuân
Hƣơng hoặc Nguyễn Công Trứ theo đuổi lối
sống phong lƣu, trọng tình cảm và có những
nét “nhiệm đản”: ngất ngƣởng, công khai ca
ngợi thú tài tình... Thứ hai, Về phương diện
thể loại, sự xuất hiện những thể loại dân tộc
với thơ Nôm Đƣờng luật phá cách, ngâm
khúc, hát nói đã chuyển tải những tƣ tƣởng
mới mẻ tạo cho thời đại một diện mạo mới.
Thứ ba, Về phương diện quan niệm văn học,
văn học giai đoạn này không phải để nói chí, để
tải đạo nhƣ gần tám thế kỉ nay mà để bộc lộ
khát vọng của con ngƣời trần thế nhất. Tức là
quan niệm văn học thực sự là văn học, nó
không còn là phƣơng tiện của chính trị, đạo đức
hay ý chí nào khác. Điều đó cũng có nghĩa là
đến lúc này văn học của ta mới thực sự có giá
trị tự thân, là nó, với nghĩa đầy đủ nhất.
BIỂU HIỆN CỦA TRÀO LƯU CHỦ TÌNH
TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM THẾ KỶ
XVIII ĐẦU THẾ KỶ XIX QUA THƠ NÔM
HỒ XUÂN HƢƠNG
Trào lƣu chủ tình trong văn học thế kỷ XVIII
đầu thế kỷ XIX biểu hiện ở mỗi tác giả, mỗi
tác phẩm có màu sắc và mức độ đậm nhạt
khác nhau. Qua nghiên cứu thơ Nôm Hồ
Xuân Hƣơng, theo chúng tôi, Trào lƣu chủ
tình đƣợc thể hiện ở những khía cạnh sau
Tài năng được ý thức như một thứ đặc
quyền không chỉ của đàn ông
Hồ Xuân Hƣơng trƣởng thành trong giai đoạn
lịch sử đen tối khủng hoảng, chịu sự ảnh
hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng nhất nam viết tử
thập nữ viết vô. Đàn bà ít đƣợc đi học và
không đƣợc ứng thí nhƣ đàn ông, may mắn là
học ít chữ, lấy chồng sinh con và lo việc nội
trợ. Sống trong xã hội tam cương, ngũ
thường, tam tòng tứ đức, bao lễ giáo hạn chế,
phủ nhận quyền ý thức về giá trị của mình,
nhƣng Hồ Xuân Hƣơng luôn có ý thức khẳng
định chính mình. Bà khinh thƣờng bọn phàm
phu tục tử, bà đặt mình ngang hàng thậm chí
cao hơn nam giới. Hồ Xuân Hƣơng ý thức rất
rõ giá trị tài năng của mình và không ngần
ngại khinh thị bọn nhà nho dốt nát một cách
phũ phàng :
Khéo khéo đi đâu lũ ngẩn ngơ,
Lại đây cho chị dạy làm thơ
( Mắng học trò dốt)
Bình phẩm viên thái thú họ Sầm, kẻ mang
quân từ Trung Quốc sang, tƣởng có thể “nuốt
chửng” nƣớc Việt Nam nhỏ bé rút cuộc chỉ
mua lấy một cái chết nhục nhã, Xuân Hƣơng
đã mỉa mai và kiêu ngạo viết :
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu ?
(Đề đền Sầm Nghi Đống)
“Đây” là đại từ nhân xƣng, chỉ dùng trong
đối ngoại suồng sã, thân mật giữa những
ngƣời cùng vai phải lứa, ngang hàng. Đối
thoại với quan Thái thú thần linh mà nữ sĩ
xƣng “đây”, thế là xấc xƣợc, rất coi thƣờng.
Ngang tàng quá! Rồi nữ sĩ lại đem mình - một
ngƣời đàn bà - so sánh với vị tƣớng Thiên
triều về cái sự anh hùng mới độc đáo làm sao.
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu? – câu thơ
châm biếm nhắc lại cái chết nhục nhã, hèn
nhát của tên tƣớng giặc phƣơng Bắc. Một câu
hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt
đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hƣớc nhân
lên nhiều lần. Đánh giá nhân cách - sự anh
hùng - của Sầm Nghi Đống, nữ sĩ muốn nói
lên “tầm vóc” của nữ sĩ phƣơng Nam. Bà đã
ý thức và tự hào về tài năng, phẩm hạnh của
mình, của giới mình. Bà đã chế giễu nhân
cách tầm thƣờng, cách xử sự tầm thƣờng của
những kẻ mày râu, những trang nam nhi, bậc
quân tử bất tài, vô hạnh trong xã hội.
Cái tôi cá nhân vốn không có đất sống trong
xã hội vốn hình dung con ngƣời bằng các
quan hệ ngôi thứ. Cái tôi ấy với ngƣời phụ nữ
trong xã hội phong kiến nam quyền càng
không mảy may có đất dung thân. Mặc lòng,
trong thơ Nôm của Hồ Xuân Hƣơng cái tôi
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 46
vẫn ngang ngƣợc tồn tại. Bài Mời trầu vừa
nhƣ một cử chỉ thách thức, táo bạo vừa nhƣ
một minh chứng cho sự tồn tại hiển nhiên của
cái tôi trong tƣ duy táo bạo của ngƣời phụ nữ
vốn chẳng tầm thƣờng. Với bài thơ này, nữ sĩ
Hồ Xuân Hƣơng đã ghi dấu ấn cá nhân của
mình nhƣ một hiện tƣợng mới mẻ trong lịch
sử văn học. Khẳng định tài năng và ý thức về
giá trị của mình nhƣ một “nguyên cớ” làm cơ
sở coi thƣờng những đấng, bậc mày râu kém
tài kém đức núp bên trong cái vỏ đạo đức.
Dƣờng nhƣ không chỉ là ý thức mà đã trở
thành tiềm thức, Hồ Xuân Hƣơng có một lòng
tin mãnh liệt vào tài trí và khả năng sáng tạo
của ngƣời phụ nữ . Hồ Xuân Hƣơng gạt đi cái
hằng số mặc cảm phụ nữ thua kém đàn ông
ăn sâu thành tầng bậc bao đời, bà đặt ngƣời
phụ nữ ngang tầm với non sông nhƣ một phát
hiện mới mẻ. Hơn bất cứ ai cùng thời, Hồ
Xuân Hƣơng ý thức cao về vai trò của nữ
giới và nói tiếng nói tố cáo một cách mạnh
mẽ, quyết liệt. Khi ca ngợi những phẩm chất
thiên bẩm về giới của mình bà tự hào khẳng
định vẻ đẹp, tấm lòng son, tình yêu chung
thủy (Bánh trôi nước, Mời trầu...). Hồ Xuân
Hƣơng đã gạt những giọt nƣớc mắt yếu đuối
của mình, của “chị em” phụ nữ: Nín đi kẻo
thẹn với non sông để hiên ngang nhìn thẳng
vào cuộc đời, ngang nhiên đòi tồn tại bình
đẳng với những đấng bậc nam nhi của xã hội
phong kiến... Hồ Xuân Hƣơng đã thật sự ý
thức giá trị tài năng của mình, của giới mình
và muốn khẳng định nó nhƣ một thứ đặc
quyền không chỉ đàn ông mới có. Nhƣ thế,
nhân vật chính trong thơ Nôm của bà chủ yếu
là phụ nữ (trong đó có bản thân tác giả) với
diện mạo và tầm vóc mới, trong đó tài năng là
cơ sở cho những bứt phá về tƣ tƣởng, tạo tiền
đề cho sự nổi loạn tinh quái về ngôn từ. Con
ngƣời vũ trụ đứng giữa núi sông, trời đất vốn
là độc quyền của nhà Nho- ngƣời đàn ông nay
đã thấy xuất hiện trong tƣ thế ngƣời phụ nữ.
Cảm hứng trần thế bản năng trong thơ
Nôm Hồ Xuân Hương
Trong văn học trung đại Việt Nam tình yêu,
bản năng tính dục là mảng đề tài cấm kị. Tuy
nhiên, nhƣ một qui luật bình thƣờng, có cấm
kị thì có sự đối phó với cấm kị. Thơ đề vịnh
của Hồ Xuân Hƣơng nhƣ một dạng cái khó ló
cái khôn, là mảng thi pháp đối phó với cấm kị
ra đời. Trong hoàn cảnh đặc thù của xã hội
phong kiến, ngƣời ta né tránh việc đề cập đến
đời sống bản năng. Hồ Xuân Hƣơng đã thông
qua đề vịnh một đối tƣợng khác để thể hiện
chất chủ tình trong sáng tác của mình. Đọc
thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng, ta thấy sự vi phạm
cấm kị trong khung thời gian thƣờng nhật, sự
vi phạm bằng chữ bằng thơ. Mỗi bài thơ của
Hồ Xuân Hƣơng là một hội hè ngôn ngữ, náo
nức, mê say và tinh quái lạ thƣờng. Cái
thiêng, cái dâm, cái hiển nhiên cùng tồn tại
trong một hình ảnh thơ. Đọc thơ Nôm của bà,
ngƣời đọc luôn di chuyển từ cực này sang cực
kia trong cái không gian đạo đức – thẩm mĩ
riêng biệt nhờ thế mà đƣợc hƣởng một thích
khoái thẩm mĩ tối đa. Niềm thích khoái của kẻ
ăn trái cấm mà có chiếc vỏ bọc an toàn,
không lo bị trừng phạt
Từ góc nhìn chủ tình, ngƣời ta thấy Hồ Xuân
Hƣơng đề cao cái tự nhiên trong con ngƣời,
tranh đấu cho quyền tồn tại hợp pháp cái tự
nhiên ấy, mà trƣớc hết là tính dục:
Đá kia còn biết xuân già dặn
Chả trách người ta lúc trẻ trung
(Đá ông chồng bà chồng)
Tình ái vốn không phải vùng quan tâm của
Nho giáo. Nhƣng thực tế đa thê đa thiếp lại
đƣợc chấp nhận nhƣ một thứ đặc quyền, đặc
lợi của đàn ông. Nhƣ thế, cấm kị dục tình chủ
yếu áp dụng cho phụ nữ và đối tƣợng bị phán
xét là vi phạm hay không vi phạm điều cấm kị
này chỉ là phụ nữ. Hồ Xuân Hƣơng đã khinh
bạc mà tài tình chỉ ra cái nguồn cơn chớ trêu
ấy bằng sự linh hoạt của ngôn ngữ. Phụ nữ bị
chối từ quyền làm chủ bản thể, quyền ý thức
trách nhiệm về hành động của mình. Đề cập
đến một vấn đề cấm kị trong văn chƣơng là
tính dục – vấn đề vốn rất khó diễn đạt một
cách thẩm mĩ kể cả với các nhà văn nam giới
nhƣng Xuân Hƣơng lại tỏ ra rất “có nghề” khi
diễn đạt bằng những hình ảnh gần gũi của đời
sống: đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, ốc nhồi, quả
mít, cái quạt, cảnh dệt vải, tát nƣớc, đánh đu,
đánh cờ.....Công bằng mà nói, viết về bản
năng tính dục rất khó vì ranh giới mong manh
giữa phi đạo đức nhân bản với khát khao hạnh
phúc, khát khao tự do. Hồ Xuân Hƣơng biểu
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 47
lộ cái khó ấy bằng thơ đề vịnh và đã kết hợp
đƣợc cái thực với cái ảo, cái cụ thể với cái trìu
tƣợng, cái công khai với cái ẩn kín, cái “mình
thấy” với cái “mình cảm” theo bút pháp nghệ
thuật “đồng hiện” khiến hình tƣợng thơ xuất
hiện với hai nghĩa thanh tục khó có thể bóc tách.
Thơ Nôm Xuân Hƣơng là sự khúc xạ của
cuộc đời ngƣời phụ nữ nói chung trên cuộc
đời riêng của bản thân bà. Thơ Xuân Hƣơng
bao giờ cũng có tính cách nóng bỏng, quyết
liệt sôi nổi, vì chính nhà thơ không chỉ quan
sát cuộc sống mà là sống giữa lòng cuộc sống,
không phải chỉ có đồng cảm mà là cảm nhận
một cách sâu sắc, nếm trải tất cả... Điểm về
của mọi rung động chủ tình trong Hồ Xuân
Hƣơng là tiếng lòng với khát khao cháy bỏng
về hạnh phúc lứa đôi – một cách mãnh liệt và
táo bạo, vị tha và nhân hậu, lạc quan và tin
yêu để gạt bỏ hết những trăn trở, âu lo, để ấp
ôm hạnh phúc, để gìn giữ, chở che và nâng
niu không ngừng. Những phức hợp tâm tình
ấy neo đậu và ám ảnh trong tâm hồn ngƣời
đọc không nguôi về một Hồ Xuân Hƣơng chủ
tình góp phần tạo nên diện mạo của văn học
Việt Nam thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Trong áp lực văn hoá của cả Nho giáo và Phật
giáo cộng lại, tình bị áp chế, bị dồn nén để
cho chí, đạo, tu tâm, quả dục, diệt dục thắng
thế. Trên thực tế, tình là một thành tố hữu cơ
không thể thiếu đƣợc trong kết cấu tâm lý của
con ngƣời. Phân tâm học đã chỉ rõ, cái bản
năng không thể bị tiêu diệt mà chỉ bị ý thức
dồn nén, đẩy xuống tầng tiềm thức và đƣợc
phát lộ ra qua ngả vô thức. Sự vận động của
đời sống thực tiễn đã tạo nền tảng cho bƣớc
chuyển biến từ quan niệm con ngƣời thánh
nhân, quân tử, từ lý tƣởng Phật trở lại với
quan niệm về con ngƣời trần thế, tự nhiên.
Con ngƣời của thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX
là những con ngƣời “trị nội” (sống cho
mình), khác với con ngƣời của văn học những
thế kỷ trƣớc chủ yếu là con ngƣời “trị ngoại”
(sống cho ngƣời khác). Hồ Xuân Hƣơng đã
dùng văn chƣơng ca ngợi, khẳng định quyền
sống bản năng con ngƣời nên dù ý thức hay
vô thức Xuân Hƣơng đã truyền bá tƣ tƣởng
mới mẻ cho thời đại.
Sự cách tân thể loại thơ Nôm Đường luật
Thơ Nôm Đƣờng luật là một thể loại lớn của
văn học trung đại Việt Nam, lớn về số lƣợng
và lớn về thành tựu nghệ thuật. Thơ Nôm
Đƣờng luật có vị trí quan trọng trong hành
trình văn học dân tộc. Sự ra đời của thơ Nôm
Đƣờng luật đã tạo bƣớc ngoặt lớn của văn học
Việt Nam: chính thức xuất hiện dòng văn học
viết bằng tiếng Việt, tồn tại, phát triển song
hành cùng văn học chữ Hán. Trên cơ sở tiếp
thu thơ Đƣờng luật Trung Quốc để sáng tạo
một thể loại văn học mới, thơ Nôm Đƣờng
luật tuy có nguồn gốc ngoại lai nhƣng đã trở
thành thể loại văn học dân tộc, có địa vị
ngang hàng với những thể loại văn học thuần
túy dân tộc nhƣ truyện thơ (viết theo thể lục
bát), ngâm khúc (viết theo thể song thất lục
bát), hát nói.
Thế kỷ XV có thể gọi là thế kỷ của thơ Nôm
Đƣờng luật, bởi sự xuất hiện của hai tập thơ
lớn là Quốc âm thi tập nửa đầu thế kỷ và
Hồng Đức quốc âm thi tập nửa cuối thế kỷ.
Ngƣời có công đầu tiên là Nguyễn Trãi, với
Quốc âm thi tập lịch sử văn học Việt Nam đã
có thêm một thể thơ mới – thơ Nôm Đƣờng
luật. Nguyễn Trãi là ngƣời thể hiện mạnh mẽ
xu hướng phá cách trong sáng tác Đƣờng luật
Nôm, và sau đó là Nguyễn Bỉnh Khiêm với
phong cách triết gia kế thừa. Đến thế kỷ XVII
thơ Nôm Đƣờng luật phát triển với nhịp điệu
bình thƣờng, không có thành tựu đặc sắc, phải
bƣớc sang thế kỷ XVIII – XIX thơ Nôm
Đƣờng luật khởi sắc trở lại. Và ngƣời có đóng
góp to lớn trong sự khởi sắc đó chính là hiện
tƣợng Hồ Xuân Hƣơng.
Với Hồ Xuân Hƣơng, thơ Nôm Đƣờng luật
tiếp tục xu hƣớng dân tộc hóa đồng thời
chuyển nhanh trên con đƣờng dân chủ hóa
nội dung và hình thức thể loại. Trong văn học
trung đại Việt Nam, Hồ Xuân Hƣơng gần nhƣ
là trƣờng hợp duy nhất không viết dƣới bất cứ
ánh sáng của học thuyết tôn giáo chính trị nào
từ trên rọi xuống. Thơ Hồ Xuân Hƣơng là sự
vƣợt thoát hoàn toàn khỏi giáo điều phong
kiến, là sự đoạn tuyệt khá triệt để với tinh
thần “đẳng cấp” của Nho giáo. Với thơ Hồ
Xuân Hƣơng, thơ Nôm Đƣờng luật không còn
ở địa vị “đẳng cấp trên” trong hệ thống chủ
đề, đề tài của văn học trung đại, nó đã thực
hiện một cuộc cách tân đầy ý nghĩa: cuộc
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 48
sống đời thƣờng nguyên sơ, chất phác, dân dã
là đối tƣợng thẩm mỹ. Cái bản năng, tự nhiên,
trần tục vốn xa lạ với phong cách trang trọng,
cao quý của Đƣờng luật bỗng trở nên thích
dụng với phong cách trữ tình trào phúng của
thơ Hồ Xuân Hƣơng.
Nếu Nguyễn Trãi là ngƣời đầu tiên thể hiện
mạnh mẽ tinh thần phá cách thì thơ Hồ Xuân
Hƣơng là biểu hiện đầu tiên ý muốn trở về với
hình thức vốn có của Đường luật. Sau thơ Hồ
Xuân Hƣơng câu lục ngôn không còn vai trò
của “cái mã” để nhận diện thơ Nôm Đƣờng
luật. Ở Hồ Xuân Hƣơng xu hƣớng dân tộc
hóa không thành vấn đề lớn, chiếm vị trí số
một. Đóng góp lớn nhất của Hồ Xuân Hƣơng
đối với sự phát triển của Đƣờng luật không
phải ở xu hƣớng dân tộc hóa mà là dân chủ
hóa. Thơ Hồ Xuân Hƣơng là tiếng nói dân
chủ nhất thì đồng thời cũng là những vần thơ
Việt Nam nhất trong dòng thơ Nôm Đường
luật. Hồ Xuân Hƣơng bộc lộ thái độ tự nhiên
tràn đầy tình cảm trong sáng, thơ Hồ Xuân
Hƣơng rất bình dân, duyên dáng giàu khả
năng gợi cảm, gợi tình, chứa chan tình tự và
cảm khoái, không dùng Hán tự điển tích.
Ngôn ngữ dân tộc dƣới ngòi bút của Hồ Xuân
Hƣơng vừa súc tích, chính xác lại vừa uyển
chuyển phong phú về nghĩa, đặc sắc về tạo
hình, dồi dào về âm thanh nhịp điệu. Thơ
Nôm Hồ Xuân Hƣơng cũng mang tinh thần
phá cách nhằm xây dựng một lối thơ Việt
Nam. Nếu Nguyễn Trãi phá cách cấu trúc
hình thức Đƣờng luật, thì đến thơ Hồ Xuân
Hƣơng thơ Nôm Đƣờng luật đã tiến tới một
sự ổn định về cấu trúc hình thức, Hồ Xuân
Hƣơng phá cách thơ Nôm Đƣờng luật là phá
mối quan hệ chỉnh thể giữa nội dung và hình
thức vốn có của thể loại. Hồ Xuân Hƣơng đã
đƣa một nội dung không nghiêm chỉnh vào
một hình thức nghiêm chỉnh để tạo lên sức
công phá mạnh mẽ, để khẳng định chức năng
trào phúng to lớn của thơ Nôm Đƣờng luật.
Hồ Xuân Hƣơng đã cách tân thơ Nôm để
chuyển tải cảm xúc riêng tƣ, nhất là tình yêu
một cách táo bạo khi đề cập đến vấn đề cấm
kỵ trong xã hội đó là tính dục Với những
ngôn từ rất đơn giản nhƣng lại rất sống động
và gợi hình. Hồ Xuân Hƣơng đã đem lửa thắp
sáng cho nền văn học chữ Nôm. Cái tục của
Hồ Xuân Hƣơng không phải là cái dung tục
hạ cấp mà là cái tục rất thanh, rất mỹ học. Tất
cả cái tục đó đều đƣợc bà hƣớng đến một mục
tiêu rõ rệt là tôn vinh vai trò và vị trí ngƣời
phụ nữ, chống lại địa vị độc tôn của nam giới
đã đƣợc xã hội đƣơng thời thừa nhận một
cách bất công, vô lí.
Với thơ Hồ Xuân Hƣơng, thơ Nôm Đƣờng
luật đã đạt tới đến đỉnh cao, và xuất hiện
phong cách tác giả. Đây là bƣớc phát triển
vƣợt bậc vì trƣớc đó chủ yếu là phong cách
thời đại và phong cách thể loại của thơ Nôm
Đƣờng luật. Hơn 50 bài thơ Nôm [13, tr 22]
đã khẳng định một phong cách Hồ Xuân
Hƣơng rất riêng và độc đáo. Đó là thế giới thơ
Nôm thắm tƣơi trong trẻo thuần túy đến tuyệt
vời, thiên nhiên căng tràn sức sống; là triết lý
tự nhiên của cuộc đời trần thế, của trực giác
bản năng, của say mê, và yêu thƣơng táo
bạoPhong cách ấy bình dân hóa hơn quý
tộc hóa, phong cách trữ tình trào phúng hơn là
trữ tình trang nghiêm cao quý.
KẾT
Trào lưu chủ tình trong văn học Việt Nam thế
kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX là một đề tài không
nhỏ, những vấn đề mà chúng tôi đặt ra và giải
quyết mới chỉ là bƣớc đầu. Nhiều công việc
tiếp theo liên quan vẫn đang để ngỏ. Ví dụ
phân tích kỹ hơn trào lƣu chủ tình qua các tác
giả tiêu biểu trong giai đoạn văn học này nhƣ
Nguyễn Du, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ,
Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn..... hoặc
so sánh trào lƣu chủ tình với những trào lƣu
cùng giai đoạn. Với thơ Nôm Hồ Xuân
Hƣơng, chất chủ tình nhƣ ngọn lửa đƣợc nhen
lên từ lò than đang độ ấm nồng nhất, rực đỏ
nhất. Năng lƣợng của nó đủ sức nóng thu hút
những ai quan tâm đến hành trình phát triển
của tƣ tƣởng nhân quyền nói chung và nữ
quyền nói riêng trên thế giới và Việt Nam.
Đóng góp của thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng vì
thế mang tầm nhân loại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung
đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nhà
xuất bản Giáo dục.
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 49
[2]. Trần Ngọc Vƣơng (1999), Nhà nho tài tử
và văn học Việt Nam, Nhà xuất bản Đại học
quốc gia Hà Nội.
[3]. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển
Việt Nam, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội.
[4]. Khoa Ngữ văn và Báo chí, Văn học so
sánh nghiên cứu và dịch thuật, Nhà xuất bản
Đại học quốc gia Hà Nội
[5]. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2006),
Văn học Việt Nam thế kỷ X – XIX những vấn
đề lý luận và lịch sử, Nhà xuất bản Giáo dục.
[6]. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc
Phi (2009), Từ điển thuật ngữ văn học, Nhà
xuất bản Giáo dục.
[7]. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương –
hoài niệm phồn thực, Nhà xuất bản văn hóa
thông tin.
[8]. Trần Thanh Mại, “Thử bàn lại vấn đề
dâm và tục trong thơ Hồ Xuân Hƣơng”, Tạp
chí Văn học, số 4/ 1961
[9]. Đỗ Đức Hiểu, “Thế giới thơ Nôm Hồ
Xuân Hƣơng”, Tạp chí Văn học, số 5/ 1990
[10]. Phạm Du Yên (tập hợp và giới thiệu),
Thơ Hồ Xuân Hương, Nhà xuất bản Tổng hợp
Đồng Nai
[11]. Tuấn Thành - Anh Vũ (tuyển chọn)
(2007), Văn học trung đại Việt Nam, Hồ Xuân
Hương tác phẩm và lời bình, Nxb Văn học,
[12]. Các nhà thơ nữ Việt Nam - Sáng tác và
phê bình, Nhà xuất bản Giáo dục, 2003
[13]. Luận văn thạc sĩ của Trần Thị Hƣơng,
Cấm kị và đối phó với cấm kị nhìn từ góc độ
văn hóa, Trƣờng ĐHKHXH&NV Hà Nội,
2008.
SUMMARY
MOVEMENT OF CANTIMENTALISM IN THE 18TH-EARLY 19TH CENTURY
VIETNAMESE LITERATURE THROUGH THE POETRY OF HO XUAN HUONG
Hoang Thi Tuyet Mai
, Vu Thi Ngoc
College of Science - Thainguyen University
The period from the 18th century to the early 19th century marked the golden development of literature in
Vietnam. Seen from the perpective of cultural anthropology it might be considered to be the literary period
which focuses on the natural and secular man. Instead of such ideals as good will, sincerity, self-
improvement, managing one’s household, pacifying the world, which are typical of the social man, it gives
prominence to diversified emotions which are individualistic and secret. Movement of Cantimentalism is a
movement which emphasizes feelings and emotions consciously and philosophically. The movement of
Cantimentalism in the 18th century- early 19th century Vietnamese literature is a conventional concept
which aims to define the most prominent and fruitful literary trend in this period: the one which dignifies
emotions. Studying literature under the theory of Cantimentalism is a new research trend for approaching
the medieval literary process, especially the 18th century - early 19th century period. Within the scope of
this article, we examine the poetry in Chinese-transcribed Vietnamese of Ho Xuan Huong in the light of
Cantimentalism movement.
Keyword: literature, movement of cantimentalism, cantimentalistic, cultural anthropology, poetry in
chinese-transcribed Vietnamese of Ho Xuan Huong
Hoàng Thị Tuyết Mai và cs Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 73(11): 44 - 49
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên | 50
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_32769_36609_2282012134884449_5311_2052667.pdf