Trong mặt cắt ngang của
thung lũng sông đồng bằng
bao giờ cũng phân biệt một
bờ lở và bờ kia bồi. Khi dòng
chảy thay đổi các vật liệu mịn
hơn sẽ phủ lên hòn mảnh, khi
đó chiều rộng phần bồi tăng.
Vào mùa lũ, bãi bồi bị ngập
nước, phù sa – sét sẽ phủ lên
trầm tích cát trước đó hình
thành bồi tích bãi bồi. Chiều
dày và tính chất của nó hay
biến đổi.
20 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 4474 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem nội dung tài liệu Trầm tích lục địa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trầm tích lục địa
Thành tạo tàn tích (eluvi)
Đây là đới tàn tích – vỏ phong hóa của đá gốc. Về thành
phần, chúng có thể là sét và đất loại sét, đất rời xốp như cát
sạn, dăm và các loại chuyển tiếp…
Sét và đất loại sét được hình thành chủ yếu do phong hóa hóa
học các đá, còn đất dăm – cát hình thành do phong hóa vật lý.
Về địa mạo: chúng phổ biến ở miền chia nước thấp và phẳng,
ở các sườn thoải và rất thoải cũng như dọc các địa hình âm
(thung lũng sông suối, thềm bãi bồi, bãi bồi…. Tức là những
nơi mà các quá trình bóc mòn, xói mòn chưa kịp diễn ra.
Khi các điều kiện khí hậu, địa mạo, kiến tạo và những điều
kiện khác như nhau, thành phần đá gốc có quyết định tới sự
thành tạo tàn tích: sét, dăm sạn ….
Chiều dày thành tạo tàn tích biến đổi lớn còn điều kiện thế nằm
rất đa dạng.
Trong điều kiện khô hạn, chiều dày thường nhỏ (<10m), trong
điều kiện khí hậu ẩm – hàng chục mét.
Bề dày thường phụ thuộc vào độ sâu thâm nhập của các tác
nhân phong hóa (hình 5.1&5.2).
Hình 5.1a
Hình 5.2.Điều kiện thế nằm của trầm tích
eluvi. 1. Sườn tích, 2.Tàn tích,3. Đới đá
gốc nứt nẻ, 4. Đới đá gốc chưa bị phong
hóa
Những đặc điểm tiêu biểu của thành tạo tàn tích:
1. Khi bị phong hóa, nhìn chung đá bị tơi ra, mềm đi; độ rỗng, độ ưa nước,
độ thấm nước tăng, các t/c khác cũng bị biến đổi có t/c khác biệt hẳn
với đá gốc bên dưới;
2. Trong thành phần tàn tích, đặc biệt nếu phong hóa hóa học phát triển,
xuất hiện và tích lũy các sản phẩm sét do phong hóa thành phần vật
chất cũng thay đổi;
3. Trong những điều kiện khí hậu mà lượng bốc hơi > lượng mưa và đá ở
đới phong hóa bị rửa trôi, trong tàn tích tập trung dần những muối đơn
giản bị nước hòa tan và xảy ra sự nhiễm muối của đá thay đổi giá trị
về mặt xây dựng;
4. Ở những thành tạo tàn tích có sự hạ thấp của nồng độ ion hydro (pH
giảm) phát sinh môi trường axít gây ăn mòn kim loại và bê tông.
5. Liên quan tới đới tàn tích là sự tồn tại nước ngầm tạm thời hay thường
xuyên;
6. Thành tạo tàn tích ở sườn dốc thường dễ bị biến dạng gây trượt sạt lở …
Sườn tích (deluvi)
Chúng được tích lũy ở sườn và chân sườn dốc cũng như ở các
khoảnh thấp sát đường chia nước, do nước mưa rửa trôi các sản
phẩm phong hóa từ những nơi cao hơn đưa xuống;
Về thành phần thạch học, sườn tích rất khác nhau, trong đó các lớp
sét là phổ biến hơn cả. Thông thường đó là sét pha cát, sét và cát pha
sét.
Trong thành phần của chúng nhiều khi chứa tạp chất, các vật liệu
hòn mảnh thô như cát sạn, dăm, cuội hoặc những mảnh lớn hơn từ
đá gốc. Vật liệu loại này thường tạo thành thấu kính, ổ, lớp mỏng…
Các vật tàn dư hữu cơ trong sườn tích thường là động vật đã bị phân
hủy, động vật thân mềm hiện đại, xương cốt các loài có vú… đôi khi
có tàn tích thực vật
Sườn tích thường tạo nên những lớp phủ, đôi khi thành tầng dày và
thành vỉa. Sườn tích thường không phân lớp.
Sườn tích phân bố ở sườn thường bị di động: sạt, trượt lở, chảy trong
điều kiện thế nằm tự nhiên và nhất là khi sũng nước hay dưới tác động
nhân tạo
Về trạng thái: sườn tích loại sét rất không đồng nhất, có độ chặt bé,
nhiều khi ở trạng thái dẻo hoặc dẻo mềm.
Lở tích (Koluvi)
Người ta xếp vào lở tích các tập hợp vật liệu mảnh vỡ thô trên bề mặt
nghiêng của đường chia nước, ở sườn núi và chân sườn núi.
Đó là những tập hợp của sụt, sa khoáng, lở được tạo nên do sự dịch
chuyển sản phẩm phong hóa và sự phá hoại đất đá dưới tác dụng của
trọng lực bản thân đi một khoảng cách nhỏ hoặc rất nhỏ so với miền
lôi kéo.
Khi sụt, các khối đất đá chuyển qua một quãng đường bằng cách lăn
theo sườn dốc. Lúc đó xảy ra quá trình chọn lọc vật liệu, hiện tượng
này đôi khi không nhận ra được.
Khác với chọn lọc do dòng nước, ở đây hòn to có động lực lớn sẽ di
chuyển xa hơn. Càng tích lũy vật liệu trên sườn dốc, sức chống lăn
càng tăng nên sự chọn lọc thấy cả trong mặt cắt: Trên thô – dưới mịn
hơn.
Khi thiết kế xây dựng công trình thường tránh nơi có lở tích.
Bồi tích (aluvi):
Đó là tất cả các sản phẩm
hình thành bằng mọi cách ở
sông hợp thành các thềm cổ
và hiện đại của thung lũng
sông và lòng sông.
Đặc điểm của bồi tích thay
đổi theo hướng dòng chảy
của sông;
Bề dày bồi tích thường lớn;
Mặt cắt của bồi tích thay đổi
nhiều.
Mặt cắt ngang thung lung sông:
I,II,III – Thềm sông. A – mặt thềm, B – mép thềm, C- gỡ
thềm.H – chiều cao, - góc dốc đá gốc, P – góc dốc tự nhiên
đất chân dốc.
Mép dốc
Sườn
góc
Lòng sông
Bãi bồi
Các bậc thềm trong thung lũng:
I – Thềm tích tụ, a – bồi chồng xếp, b – nghiêng.
II – Thềm xâm thực.
III – Thềm điêu khắc.
IV – Dốc đá gốc.
Trong mặt cắt ngang của
thung lũng sông đồng bằng
bao giờ cũng phân biệt một
bờ lở và bờ kia bồi. Khi dòng
chảy thay đổi các vật liệu mịn
hơn sẽ phủ lên hòn mảnh, khi
đó chiều rộng phần bồi tăng.
Vào mùa lũ, bãi bồi bị ngập
nước, phù sa – sét sẽ phủ lên
trầm tích cát trước đó hình
thành bồi tích bãi bồi. Chiều
dày và tính chất của nó hay
biến đổi. Chúng gồm sét và
sét lẫn cát. (Hình 5.4)
Hình 5.4. Sơ đồ các giai đoạn phát triển bãi bồi ở thung
lũng xói mòn. I, II, III – các mặt cắt ngang thung lũng ở 3
giai đoạn phát triển kế tiếp.
1. Vị trí bờ xói lở ở pha trước; 2. Hướng chuyển dời lòng;
3. Mực nước kiệt; 4. mực nước cao:l- lòng; v- chân bờ
xói; bn. Bãi ngầm; 5. bồi; tích lòng sông; 6. bồi tích bãi
bồi; 7. trầm tích ven sườn.
Các trầm tích bãi bồi vũng
sâu đầm-hồ thường là bùn sét
pha cát, bùn cát pha sét hoặc
bùn sét. Chúng bị mùn hóa
mạnh chứa các lớp mỏng và
thấu kính than bùn
Các trầm tích aluvi – deluvi là
cát pha sét, sét pha cát và sét.
Đôi khi gặp sỏi, dăm cuội.
Còn ven sườn dốc đôi khi gặp
đá tảng.
Khi nhận định về aluvi, cần
lưu ý đến sự phát triển của
các đoạn thung lũng sông bị
đào sâu lại (hình 5.5)
Lũ tích:
Đó là những trầm tích được thành tạo bởi các dòng bùn đá của
sông miền núi, hoặc nói chung là các dòng chảy nhất thời phát
sinh trong các thời kỳ mưa nhiều.
Những trầm tích hợp thành nón vật phóng ở cửa sông miền núi là
lũ tích tiêu biểu. Chúng thường nối liền với nhau và tạo thành
những vạt dày ở đồng bằng trước núi.
Càng xa núi tới đồng bằng, thành phần và đặc trưng của lũ tích
dần dần thay đổi: vật liệu hòn mảnh được chọn lọc, ít gặp tảng lăn
và đá cuội, lũ tích chuyển thành cát và cát pha sét. Trong tầng cát
có tính phân lớp, thường là xiên chéo hoặc không có hình thù rõ
rệt. Càng xa núi, cát dần được thay thế bằng sét pha cát, sét.
Lũ tích có một số đặc điểm sau:
1. Chủ yếu lắng đọng ở đồng bằng trước núi hoặc chỗ trũng giữa núi;
2. Thường tạo thành những nón vật phóng, những vạt gấu và lớp phủ
chiếm diện tích đáng kể và nhiều khi có chiều dày lớn;
3. Có cả những loại không được tuyển chọn hoặc tuyển chọn kém như
sỏi – cát; đá khối – tảng lăn và cả những loại tuyển chọn tốt như bụi
sét;
4. Loại bụi - sét lẫn lộn đồng nhất nhiều khi có dạng và tính chất của
hoàng thổ điển hình, có tính chất lún sập, giàu muối dễ hòa tan, có
độ rỗng cao;
5. Các loại không đồng nhất có đặc điểm là chứa nhiều tạp chất và thể
bao của vật liệu hòn mảnh, thô, cấu tạo lộn xộn hoặc lớp chéo thô
xen kẽ không có quy luật của các thấu kính và các lớp mỏng hòn
mảnh có thành phần và tính chất khác nhau
Trầm tích hồ:
Chúng rất đa dạng; thành phần phụ thuộc vào đìêu kiện khí hậu của
khu vực, vị trí, kích thước và chiều sâu của hồ nước, đặc trưng địa
hình xung quanh và những nhân tố khác.
Tại những hồ lớn, điều kiện tích lũy trầm tích gần giống ở biển nên
có thể có sự thay đổi tướng từ bờ tới trung tâm.
Ở những vùng ẩm hoặc thừa ẩm, trong bồn hồ nước nhạt, các trầm
tích sét bao giờ cũng giàu VCHC, giữa những trầm tích này hay
gặp các lớp bùn thối, than bùn…
Ở những vùng khô hạn – chúng giàu các kết tủa hóa học như muối
sulfat, haloit và cả borat;
Trong trầm tích hồ bao giờ cũng có biểu hiện phân lớp (thường là
mỏng);
Trầm tích hồ có thể có trạng thái vật lý khác nhau. Trong
các trầm tích đệ Tứ có thể có dạng dẻo mềm, chảy, độ chặt
và độ ổn định bé;
Các trầm tích hồ có những đặc điểm sau:
1. Phân bố theo diện hạn chế và không dày;
2. Điều kiện thế nằm độc đáo;
3. Các loại sét thường giàu VCHC, nhiều loại muối khác nhau
và những tạp chất khác;
4. Có tính phân lớp (ở các loại sét thường là mỏng) làm cho
các tính chất trở thành dị hướng;
5. Trạng thái vật lý (độ chặt, độ rỗng, độ ẩm và độ sệt) khác
nhau.
Trầm tích do gió:
Các trầm tích này liên quan tới hoạt động tích tụ của gió.
Cát lưỡi liềm, cát đụn của sa mạc và bán sa mạc, các dải dọc bờ
biền bờ hồ là các thành tạo do gió điển hình.
Hoàng thổ là loại trầm tích đặc trưng nhất có nguồn gốc do
gió tạo thành.
Những đặc điểm của hoàng thổ:
1. Độ rỗng đại;
2. Độ chứa bụi cao;
3. Thường chứa muối, chủ yếu là cacbonat và sulfat;
4. Dễ bị rửa xói và tan rã;
5. Có khuynh hướng lún sập khi bị ẩm;
6. Điều kiện thế nằm có dạng tầng dày và lớp phủ.
Những dấu hiệu này là hậu quả của những điều kiện thành
tạo khác nhau của vật liệu hoàng thổ và sự biến đổi của nó
sau khi sinh đá.
Cần phân biệt rõ hoàng thổ và đất dạng hoàng thổ.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 83_compatibility_mode__4729.pdf