Tổng quan về các thị trường chứng khoán

1. NĐT cho rằng với tỷ lệ lợi tức trái phiếu A và B lần lượt là 8,1% và 7,5% là đủ bù đắp rủi ro trái phiếu. Tính giá trái phiếu? 2. Tại trung tâm GDCK, trái phiếu A và B được niêm yết với giá lần lượt là 102,5% và 70% mệnh giá. Tính tỷ lệ lợi tức yêu cầu? 3. Dự báo lãi suất thị trường thời gian tới giảm 0,5%. Đánh giá ảnh hưởng thông tin trên tới giá trái phiếu?

docx77 trang | Chia sẻ: hao_hao | Lượt xem: 1768 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổng quan về các thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riệu đơn vị; giảm 28% so với tháng trước. GTGD bình quân đạt 226,98 tỷ đồng; giảm 42% so với tháng trước. Câu 3: Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) được thành lập theo Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ, chính thức đi vào hoạt động từ năm 2005 là đơn vị sự nghiệp có thu, với các hoạt động chính là tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán niêm yết, đấu giá cổ phần và đấu thầu trái phiếu. Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) được thành lập theo Quyết định số 01/2009/QĐ-Ttg ngày 2/1/2009 của Thủ tướng Chính phủ trên cơ sở chuyển đổi, tổ chức lại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Theo các Quyết định trên Sở GDCK Hà Nội là pháp nhân thuộc sở hữu Nhà nước, được tổ chức theo mô hình công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng; được mở tài khoản bằng Việt Nam đồng và ngoại tệ tại Kho bạc Nhà nước và các NHTM trong và ngoài nước; là đơn vị hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính, thực hiện chế độ tài chính, chế độ báo cáo thống kê, kế toán, kiểm toán và có nghĩa vụ tài chính theo quy định pháp luật; hoạt động theo Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp, Điều lệ của Sở Giao dịch chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan. Ngày 24/6, Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HASTC) chính thức chuyển thành Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), được gắn liền với sự kiện khai trương thị trường giao dịch chứng khoán các công ty đại chúng chưa niêm yết (UPCoM) sau nhiều năm chuẩn bị. Thị trường chứng khoán Việt Nam bắt đầu có hai Sở tại hai đầu Nam – Bắc. Lên Sở, HNX là một đầu mối của 3 thị trường, nằm trong chương trình 3 mục tiêu đã được xác định: củng cố và phát triển thị trường niêm yết; ra mắt và phát triển thị trường UPCoM; thiết lập hệ thống giao dịch trái phiếu Chính phủ chuyên biệt (dự kiến ra mắt vào tháng 7 tới). Cả 3 thị trường này cùng dựa trên nền tảng công nghệ giao dịch từ xa, với hệ thống công bố thông tin đồng bộ, hiện đại, hiện cơ bản đã hoàn thiện. Trước đây HASTC là đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Còn nay HNX là doanh nghiệp nhà nước, công ty TNHH một thành viên do Bộ Tài chính thành lập và trực tiếp quản lý và đại diện chủ sở hữu, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước giám sát. Là doanh nghiệp, nhưng quan điểm mà lãnh đạo HNX đưa ra là doanh nghiệp này hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, mà theo yêu cầu tổ chức, quản lý và phục vụ thị trường. Tất nhiên, một lợi thế của mô hình mới, với riêng HNX, là cơ chế của một doanh nghiệp có thể giúp cải thiện chế độ đối với người lao động, giữ chân và thu hút nguồn nhân lực trình độ cao, có điều kiện để cơ cấu tổ chức tốt hơn để hoạt động hiệu quả hơn… Là doanh nghiệp, HNX cũng có cơ chế độc lập và chủ động hơn để triển khai các sản phẩm, dịch vụ cho thị trường. Thậm chí có thể xem đó là một hoạt động “đầu tư” và Sở có thể gọi vốn từ bên ngoài để phát triển những sản phẩm, dịch vụ đó, theo hướng ưu tiên cho chất lượng, tiến độ vì lợi ích của thị trường, thay cho cơ chế hành chính trước đó. Các hoạt động chính trong giai đoạn đầu của HASTC: Tổ chức đấu giá cổ phần cho các doanh nghiệp, tổ chức đấu thầu trái phiếu, tổ chức giao dịch chứng khoán theo cơ chế đăng kí giao dịch. HNX khai trương vào ngày 14/07/2005 với 6 công ty niêm yết. Từ một thị trường có giá trị giao dịch bình quân phiên chỉ 2 tỷ vào tháng 7/2005, đã tăng lên lên 18,4 tỷ/phiên vào năm 2006, 255,73 tỷ/phiên năm 2007, 230,33 tỷ/phiên năm 2008, và 778,8 tỷ/phiên năm 2009 tính đến ngày 30/10/2009. Các phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện tại TTGDCK Hà Nội với điều kiện về cơ sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật công nghệ và nhân sự còn nhiều hạn chế. Cho tới nay, với thời gian hơn 4 năm hoạt động, và 1000 phiên giao dịch được thực hiện sàn Hà Nội đã là quy tụ được trên 250 doanh nghiệp niêm yết , đăng ký giao dịch trên địa bàn cả nước, 98 công ty chứng khoán thành viên với gần 700.000 tài khoản giao dịch của nhà đầu tư. Tổng mức vốn hóa thị trường tại SGDCK Hà Nội hiện nay là 135.500 tỷ đồng, chiếm gần 10% GDP, gấp gần 70 lần giá trị vốn hoá thị trường tại thời điểm khai trương. Các loại hình doanh nghiệp niêm yết trên sàn Hà Nội cũng ngày càng đa dạng, phong phú về quy mô hoạt động, lĩnh vực sản xuất kinh doanh như tài chính, ngân hàng, công nghệ thông tin, sản xuất, kinh doanh dịch vụ, xây dựng, dầu khí, bảo hiểm… Ngày 18/11/2009, kết thúc phiên giao dịch thứ 1.000, HNX-Index tăng 2,5 điểm (1,37%) đạt 185,17 điểm. D. Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) Câu 1: Quy mô thị trường Theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực trạng doanh nghiệp năm 2001-2003, tính đến cuối năm 2002, cả nước có 2.829 công ty cổ phần. Trong đó 557 công ty nhà nước được cổ phần hoá, 2.272 công ty cổ phần không có vốn nhà nước. Tổng vốn tự có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp 20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn hoá của các công ty niên yết tại thời điểm đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cả nước có gần 2000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần. Tổng vốn điều lệ của các công ty này hơn hơn rất nhiều lần khối lượng vốn hoá trên thị trường chính thức.Đây chính là nguồn cung của thị trường OTC. Xu hướng phát triển thị trường OTC Việt Nam: TT OTC VN phát triển từ hình thái thị trường quản lý lỏng lẻo, không có tổ chức chặt chẽ đến thị trường có tổ chức, có sự quản lý của Nhà nước. Cho đến này, TT đã phát triển hình thức giao dịch điện tử hiện đại.Cụ thể: Hình thức tổ chức: HASTC khai trương và đi vào hoạt động vào năm 2005 và hoạt động theo mô hình thị trường OTC Hàng hóa trên thị trường: HASTC tổ chức đăng kí và giao dịch cho cổ phiếu chưa niêm yết hoặc chưa đủ điều kiện niêm yết, hoặc đủ điều kiện niêm yết nhưng không có nhu cầu niêm yết trên HOSE. Tính thanh khoản của chứng khoán trên OTC còn chưa cao. Nhiều ck trên thị trường tốt nhưng không có người mua. Tiêu chuẩn niêm yết trên OTC: HASTC tập trung giao dịch chủ yếu những doanh nghiệp có vốn điều lệ từ 5 tỷ đồng trở lên, hđ kinh doanh 1 năm có lãi, có 50 cổ đông bên ngoài. Phương thức giao dịch: Thỏa thuận thương lượng song phương. Quản lý thị trường: Nhà nước có pháp luật về quản lý thị trường, sự quản lý minh bạch và chặt chẽ. Nhận xét chung: Ở VN, TTCK tập trung có quy mô khoảng 145 triệu $, nhưng trên thị trường tự do lại có khoảng 1 tỷ $ cổ phiếu được mua bán, thị trường chính thức có khoảng 15000 nhà đầu tư, trong khi đó thị trường không chính thức có hơn 200000 nhà đầu tư. Như vậy, thị trường chứng khoán tự do của Việt Nam không hề nhỏ nhưng lại không được kiểm soát. Vì vậy, phát triển thị trường OTC là một giải pháp tốt để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam. Theo đánh giá, tiềm năng của thị trường OTC ở Việt Nam hiện nay và trong tương lai là rất lớn, nhất là trong điều kiện số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa nhưng chưa đủ điều kiện niêm yết trong thời gian tới sẽ tăng lên. Với thực trạng phát triển OTC hiện nay, nếu không có một khung pháp lý hoàn chỉnh bao gồm cả các điều khoản bảo vệ nhà đầu tư và một hệ thống giám sát hiệu quả hoạt động trên thị trường, thì nguy cơ xảy ra lũng đoạn thị trường là rất lớn mà rủi ro nghiêng về phía các nhà đầu tư. Câu 2: 1) Thực trạng OTC ở Việt Nam Việt Nam đã tồn tại thị trường OTC hay chưa? Theo chúng tôi, để giải quyết cau hỏi khá hóc búa này chúng ta cần chia làm hai giai đoạn, lấy ngày thành lập thị trường Upcom làm mốc chuyển đổi a) Trước ngày 24/06/2008 Ta có thể khẳng định trong giai đoạn này, Việt nam chưa có thị trường OTC mà mới chỉ dừng lại ở thị trường tự do. Thị trường tự do có thể được coi là bắt đầu được hình thành kể từ khi các doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa, và sự ra đời của Luật doanh nghiệp cho phép phát hành và chuyển nhượng chứng khoán công ty nói chung. Như vậy, nếu xét về mặt luật pháp thì thị trường này hiện nay chỉ có thể được coi là chưa được pháp luật điều chỉnh, không phải là vi phạm pháp luật, được hình thành một cách tự phát theo nhu cầu của thị trường. Đặc điểm của thị trường là hoàn toàn do khu vực tư nhân đứng ra tự tổ chức, vận hành thị trường, chưa có sự quản lý tổ chức của Nhà nước. Việc Việt nam chưa có thị trường OTC là do những nguyên nhân chủ yếu sau: - Trên thị trường sơ cấp tự do : tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng được bán trực tiếp tại địa điểm công ty phát hành hoặc phân phối theo các mối quan hệ quen biết nội bộ và thực hiện đấu giá qua SGDCK, TTGDCK, công ty chứng khoán. - Trên thị trường thứ cấp tự do : các môi giới tự do chưa có giấy phép hành nghề, sử dụng các phương tiện yết giá trên mạng Internet hoặc tụ tập mua bán tại các quán cà phê. Tại thị trường này, hàng ngày có hàng trăm loại chứng khoán của các công ty cổ phần được bán qua mạng Internet. Cũng nắm bắt nhu cầu giao dịch trên nên đã hình thành tự phát nơi đăng ký giao dịch cổ phiếu OTC trên trang web của các công ty kinh doanh chứng khoán, như: ANS, ABCS, BVSC,... hoặc các trang chuyên về giao dịch OTC, như: SanOTC,OTC24h...Trong đó, nếu như trong mục rao vặt OTC của địa chỉ BVSC, các thông tin giao dịch mua bán cổ phiếu chỉ được duyệt và đưa trên mạng 1 lần trong ngày thì địa chỉ SanOTC được xét duyệt và đăng tin liên tục trong ngày. Đây được coi là hai địa chỉ có tần suất giao dịch sôi động nhất và hiệu quả nhất trong việc khớp nối thông tin giữa cung và cầu về mua bán cổ phiếu OTC hiện nay. - Đánh giá: + Tích cực: Giao dịch cổ phiếu trên thị trường OTC tuy không chịu sự quản lý Nhà nước về thị trường chứng khoán và pháp luật chuyên ngành về chứng khoán, nhưng chịu sự quản lý Nhà nước về chuyên ngành kinh doanh, điều chỉnh pháp luật về giao dịch dân sự và hình sự, pháp luật chuyên ngành kinh doanh, Luật Doanh nghiệp, đặc biệt là các quy định về hội đồng quản trị và ban kiểm soát công ty cổ phần, quy định về cổ phần; các quy định về cổ phiếu, vốn điều lệ, kiểm toán và các quy định khác có liên quan. Do đó những người mua bán cổ phiếu OTC đều bám theo các quy định pháp luật nói trên để thực hiện các giao dịch và tìm kiếm cơ hội đầu tư sao cho phòng ngừa tới mức thấp nhất rủi ro. Văn phòng hội đồng quản trị của các ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm cổ phần, doanh nghiệp cổ phần khác nói chung, hầu như đều ban hành văn bản mẫu về hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu, đơn xin chuyển nhượng... Những quy định và điều khoản ràng buộc trong đó đều bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, tức là cả bên mua và bên bán, quyền lợi về chia cổ tức, mua cổ phiếu tăng vốn,... dựa trên điều lệ của công ty cổ phần và các quy định pháp luật khác có liên quan. Nếu như các hành vi lừa đảo thì cũng chịu các chế tài của luật hình sự. Các tranh chấp về dân sự cũng được giải quyết theo Luật Dân sự. Thanh tra chuyên ngành: ngân hàng, tài chính,... cũng có nội dung thanh tra và chức năng thanh tra giải quyết những vấn đề liên quan cổ đông, cổ phần, cổ phiếu, của ngân hàng thương mại cổ phần, công ty chứng khoán cổ phần và công ty bảo hiểm cổ phần,... cổ phiếu của các công ty chưa niêm yết giao dịch OTC cũng hầu hết được ghi rõ các giao dịch chuyển nhượng chỉ có giá trị khi làm thủ tục qua văn phòng hội đồng quản trị của doanh nghiệp đó. Thủ tục chuyển nhượng cũng hết sức chặt chẽ với việc xuất trình sổ hộ khẩu, chứng minh thư, chữ ký gốc... Các ngân hàng thương mại cổ phần bắt buộc phải thực hiện kiểm toán độc lập hay kiểm toán quốc tế hàng năm và phải công bố công khai thực trạng tài chính trước đại hội cổ đông, trước công luận. Do đó, về cơ bản thì hoạt động của thị trường tự do trong giai đoạn này chưa có những vụ lừa đảo lớn, việc giao dịch ở một số nơi khá thuận tiện, nhanh chóng, thanh toán sòng phẳng, chuyển quyền sở hữu nhanh và có thông tin tốt phục vụ cho quyết định mua bán chứng khoán. + hạn chế: Đã xuất hiện những hành vi tiêu cực đặc trưng của thị trường, đó là hoạt động thao túng giá, tung tin đồn sai lệch, mua bán nội gián kiếm lời, kinh doanh chứng khoán trốn thuế,… Các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu vô tội vạ ra công chúng, phát hành CP giả,.. Không có biên độ giá, thổi phồng lớn hơn giá trị thực của CP nhiều lần Hoạt động giao dịch trên thị trường tự do mạnh, song giá cả và mọi giao dịch mua bán lại nằm ngoài tầm kiểm soát của các cơ quan quản lý thị trường.Ví dụ: Cổ phiếu của một công ty có thể được tung tin cao gấp nhiều lần so với mệnh giá nhưng không ai có thể trả lời chính xác là tại mức giá đó có diễn ra giao dịch thực sự hay không? Các nhà đầu tư thường mất cảnh giác với những tin đồn về ngày lên sàn của các cổ phiếu nên không phân tích, đánh giá một cách cẩn thận vì vậy dẫn đến kết quả là bị lừa và hớ to. Các nhà đầu tư lão luyện thường tung tin về các giao dịch với mức giá rất cao. Các giao dịch đó có thật nhưng điều quan trọng là nó được giao dịch với khối lượng rất nhỏ và vị vậy họ đã đánh lừa được các nhà đầu tư non nớt. Những hoạt động chuyển nhượng diễn ra một cách tự phát và hoàn toàn bị thả nổi, chủ yếu qua cò nên tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nhà đầu tư. Bản thân nhà đầu tư cũng ngại mua cổ phiếu chưa niêm yết bởi khó chuyển nhượng trên thị trường. Theo quy định, chỉ có HASTC hay Sở dao dịch chứng khoán TP.HCM mới có chức năng tổ chức giao dịch chứng khoán song từ trước đến nay thị trường tự do vẫn dao dịch chứng khoán tự phát theo kiểu trao tay qua điện thoại, không được lưu kí không được thanh toán tập trung, không theo 1 khung pháp lí nào, không có các cơ quan chức năng theo dõi, kiểm tra, chế tài => gây ra nhiều bất cập rủi ro cho nhà đầu tư Việc thu thập thông tin của các nhà đầu tư về doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn, nguồn thông tin còn rời rạc và tính chính xác là chưa cao. Hơn nữa khả năng phân tích thông tin của các nhà đầu tư Việt Nam là còn kém. Do đó những thông tin thu thập được chưa phải thể căn cứ vững chắc để các nhà đầu tư đưa ra quyết đinh đầu tư mà thường theo tâm lý bầy đàn nên rủi ro là lớn và dễ bị thao túng nhất là khi thị trường chứng khoán trở nên sôi động. Những người mới vào nghề thì hầu như chỉ nắm thông tin vỉa hè và mang theo những hy vọng viển vông là "cái gì tăng thì nó sẽ tiếp tục tăng". "Về cơ bản, người ta nghiên cứu việc mua bán CP theo cách: Vợ người cháu của ông cậu của ông nội tôi làm ở Cty này nói rằng CP đó tốt" - Mike Temple - giám đốc một Cty đầu tư chứngkhoánTPHCM-nhậnxét. Trong giai đoạn này, ở Việt Nam , các trung gian tài chính trên TTCK Việt Nam là các công ty chứng khoán với các nghiệp vụ chủ yếu như môi giới, lưu ký chứng khoán, bảo lãnh phát hành và quản lý danh mục đầu tư. Các trung gian tài chính chưa thực hiện nghiệp vụ thực sự của các nhà tạo lập thị trường, đó là việc yết giá, số lượng mua và bán chứng khoán mà đặc biệt là thị trường trái phiếu trở nên thiếu sinh khí trầm trọng. Thêm vào đó, việc thiếu các công cụ phát sinh trên thị trường trái phiếu như hoán đổi, quyền lựa chọn, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai khiến cho Việt Nam chưa có các nhà tạo lập thị trường theo đúng nghĩa. Điều này càng được khẳng định qua diễn biến hết sức phức tạp và thất thường của TTCK Việt Nam giai đoạn cuối năm 2007 đến nay.Vì vậy, việc tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung có sự tham gia của nhà tạo lập thị trường là phù hợp với xu hướng và là một yêu cầu đặc biệt cấp thiết, đang đặt ra hiện nay ở nước ta b)Sự cần thiết phải tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung ở Việt Nam Thứ nhất, do vị trí và vai trò to lớn của OTC như ta đã nói ở trên Thứ hai, ở nước ta kể từ khi xuất hiện các công ty cổ phần, giao dịch chứng khoán trao tay cũng lập tức được hình thành. Do một số đặc điểm có tính khách quan, phần lớn các loại chứng khoán giao dịch phổ biến ở nước ta hiện nay đều là cổ phiếu của các doanh nghiệp được nhà nước cổ phần hoá. Trong giai đoạn này, trên cả nước có khoảng hơn 3,000 doanh nghiệp nhà nước đã được cổ phần hoá và khoảng hơn 1,000 công ty cổ phần thành lập theo Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, con số công ty cổ phần đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn niêm yết trên TTCK tập trung khoảng 400 công ty. Trong đó có hơn 600 công ty đại chúng đã đăng ký với Ủy ban Chứng khoán nhưng chỉ có 200 công ty niêm yết, số còn lại hơn 400 công ty chưa niêm yết là những công ty có quy mô vốn rất lớn, lớn hơn cả công ty niêm yết, đặc biệt là các ngân hàng.Như vậy, số lượng công ty cổ phần chưa đủ điều kiện niêm yết hoặc đủ điều kiện nhưng chưa niêm yết chiếm một tỷ trọng quá lớn và tất nhiên các công ty này cũng có nhu cầu vay vốn trên thị trường chứng khoán. Điều này cho thấy đối tượng cần có môi trường để giao dịch các loại chứng khoán chưa được niêm yết trên thị trường là một con số đáng kể. Thứ ba, theo mục tiêu và nhiệm vụ của kế hoạch 5 năm 2006-2010 thì chúng ta sẽ tiến hành cổ phần hóa khoảng 1,000 DNNN, số doanh nghiệp được Nhà nước chuyển thành công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là 1,600 doanh nghiệp và có khoảng 500 doanh nghiệp cổ phần mới thành lập có đầu tư vốn của nhà nước; 8 tập đoàn và 93 tổng công ty nhà nước. Kết quả DNNN đã cổ phần hoá trong thời gian qua so với yêu cầu đổi mới và kế hoạch đề ra vẫn còn chậm. Việc thu hút cổ đông ngoài doanh nghiệp vẫn còn hạn chế. Nhà nước còn chiếm tỷ trọng vốn điều lệ ở nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá, đã làm hạn chế sự đổi mới trong công tác quản trị doanh nghiệp, phương pháp quản lý, lề lối làm việc, tư duy quản lý vẫn còn như DNNN. Điều này do rất nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân là thiếu vắng sự vận hành của thị trường chứng khoán phi tập trung. Thứ tư, theo luật doanh nghiệp (khoảng 2 điều 51) thì việc phát hành chứng khoán ra công chúng được điều chỉnh theo luật pháp về chứng khoán và thị trường chứng khoán, nhưng Nghị định 144/2003/NĐ-CP (ngày 28/11/2003) chỉ điều chỉnh việc phát hành chứng khoán ra công chúng của những công ty sẽ đưa vào niêm yết tại SGDCK và TTGDCK. Nói khác đi phần lớn việc phát hành chứng khoán ra công chúng hiện nay của các công ty cổ phần chưa được quản lý chặt chẽ.Một vấn đề nổi cộm mà báo chí, công luận đang đề cập là việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá còn chưa đảm bảo tính công khai và công bằng. Việc đánh giá và bán ra không theo nguyên tắc của thị trường, cổ phiếu có giá trị thì được mua bán nội bộ, thân quen, còn cổ phiếu không có giá trị thì được bán cho nhà đầu tư, làm thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, thật sự chỉ có lợi cho một người những kẻ đầu tư trục lợi. Thư năm, thiếu vắng sự vận hành của thị trường chứng khoán phi tập trung làm cho cơ cấu TTCK Việt Nam chưa hoàn hảo gây nên tác động tiêu cực đối với đời sống kinh tế xã hội.Từ những thực trạng đang diễn ra trên thị trường đòi hỏi phải gióng lên một hồi chuông về quy chuẩn đạo đức cho TTCK Việt Nam cũng như phải tiếp tục hoàn thiện các chế tài quản lý. Thứ sáu, việc ra đời SGDCK Tp.Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội đã có tác động kích hoạt việc lưu thông các loại chứng khoán chưa niêm yết và hình thành nên một thị trường ngầm hoạt động song song với thị trường giao dịch tập trung. Thị trường này đã mở ra cơ hội cho các doanh nghiệp có thể thu hút vốn đầu tư và đáp ứng nhu cầu khá lớn về mua bán ở nước ta. Tuy nhiên hoạt động của thị trường ngầm đã bộc lộ tính rủi ro cao xuất phát từ tình trạng thiếu thông tin giao dịch. Nếu thị trường này tiếp tục phát triển tự do sẽ gây bất bình đẳng trong môi trường đầu tư chứng khoán và làm ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển ổn định lành mạnh của TTCK tập trung xuất phát từ những luận giải trên, đã khẳng định việc tổ chức thị trường chứng khoán phi tập trung đang trở thành một yêu cầu cấp bách đang đặt ra hiện nay ở nước ta. c) Sau khi ra đời thị trường Upcom ngay 24/6/2009 Để TTCK phi tập trung ra đời hoạt động tốt cần có sự chuẩn bị thật chu đáo, nếu gượng ép sẽ đưa đến những hậu quả khó lường. Nhận thức được điều này, ngày 20/11/2008 Bộ Tài chính đã ban hành quyết định 108/2008/QĐ-BTC quy định về Quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán công ty đại chúng chưa niêm yết tại TTGDCK Hà Nội (Upcom trực thuộc HASTC) với định  hướng là thu hẹp thị trường tự do, trở thành sàn giao dịch OTC hiện đại đầu tiên ở Việt Nam Đây là cơ sở pháp lí quan trọng trong việc triển khai TT Upcom ( TT giao dịch của CTĐC chưa niêm yết) Ngày 23/6/2009, BTC đã ban hành Thông tư sửa đổi bổ sung quy chế trên. Theo đó cho phép thành viên có đăng kí nghiệp vụ tự doanh đc phép mua và bán cùng một loại CP trong một ngày giao dịch nhằm thực hiện vai trò người tạo lập tị trường. Chỉ số CK của sàn Upcom sẽ Upcom – Index có cách tính giống như HNX- Index theo giá đóng cửa cuối ngày Ngày 24/6/2009 sàn Upcom chính thức đi vào giao dịch ngày đầu tiên Upcom chịu sự quản lí trực tiếp của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước( UBCKNN) .Theo đó, ngày 4/6/2009, UBCKNN đã có Công văn số 1044/UBCK-QLPH gửi các công ty đại chúng chưa niêm yết về lộ trình đăng ký, lưu ký cho các công ty đại chúng chưa niêm yết như sau: - Giai đoạn 1 (từ 1-15/ 6/2009): 15-20 công ty đại chúng chưa niêm yết đã đăng ký tham gia giai đoạn đầu của thị trường.           - Giai đoạn 2 (từ 15/6 -30/9/2009): Các công ty đại chúng chưa niêm yết có công ty chứng khoán quản lý sổ cổ đông theo danh sách do các công ty chứng khoán báo cáo UBCKNN và các công ty đại chúng tự nguyện.           - Giai đoạn 3 (từ 30/9-31/12/2009): Các công ty đại chúng còn lại. Hoạt động trên sàn Upcom Theo lãnh đạo Sở GDCK Hà Nội, sau khi thành lập, thị trường UPCoM đã góp phần đạt mục tiêu thu hẹp thị trường tự do, mở rộng thị trường giao dịch chứng khoán có tổ chức và quản lý của Nhà nước. Tính đến hết tháng 2-2010, sàn UPCoM đã có 43 DN niêm yết, với tổng khối lượng đăng ký hơn 634 triệu CP; tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường đạt hơn 50 triệu CP, giá trị hơn 691 tỷ đồng. Sự ra đời của thị trường UPCoM cùng với việc Ủy ban Chứng khoán Nhà nước công bố lộ trình đưa CP của công ty đại chúng chưa niêm yết vào đăng ký tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán cũng là động lực khiến nhiều DN quyết định lựa chọn phương án niêm yết, đưa số lượng công ty niêm yết tại hai sở GDCK tăng lên 461 công ty Tuy nhiên so với sự kì vong của các nhà đầu tư về thị trường Upcom thì con số này vẫn còn qua ít. + Giảm điểm là xu hướng chính chưa bao giờ Upcom-index vượt ngưỡng 100 điểm ở ngày lên sàn. : nhìn vào biểu đồ chỉ số Upcom-index có thể nhận thấy upcom giảm điểm nhiều hơn là tăng, có khi là những đợt giảm điểm trong vòng 1 tuần hay 10 ngày liên tiếp, chỉ số upcom tính đến ngày 1/10 là 68,46 điểm        + Thường có xu hướng đi ngược chiều với hai sàn niêm yết: đây là 1 xu hướng đã được dự báo trước . Upcom là thị trường mới vì thế chịu ảnh hưởng của sàn niêm yết là điều không cần nói. Có thể nhìn vào bảng chỉ số của ba sàn::: + Trong mỗi phiên khối lượng giao dịch ít,khối lượng giao dịch thành công thường chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng khối lượng dao dịch đã đăng kí ( như sau 2 tháng đầu đi vào hoạt động chỉ có 0,17%  dao dịch thành công trong tổng số khối lượng dao dịch đã đăng kí) =>thị trường ảm đạm, đìu hiu Tuy là một sân chơi an toàn cho các nhà đầu tư nhưng theo các chuyên gia nhận định, quy mô thị trường UPCoM hiện nay vẫn nhỏ, hàng hóa trên thị trường chưa đa dạng, do vậy tính thanh khoản chưa cao. Nguyên nhân chủ yếu là do: Thị trường mới ra đời, sự quan tâm và hiểu biết của các công ty và nhà đầu tư chưa đầy đủ. Nhiều công ty đại chúng còn quan niệm thị trường UPCoM là thị trường của các công ty chất lượng thấp, do đó không muốn tham gia vì sợ ảnh hưởng đến hình ảnh chứng khoán của đơn vị. Đặc trưng của thị trường UPCoM là giao dịch thỏa thuận, tuy nhiên sau một thời gian triển khai thì chính những thành viên thị trường đều tỏ ra khá thất vọng. Nhiều nhà đầu tư nói họ không thể mua được cổ phiếu trên UPCoM do không tìm được người bán có khối lượng cổ phiếu và giá bán giống họ. Vì thế, trong nhiều phiên liên tiếp, chỉ số UPCoM giảm điểm, với khối lượng giao dịch đạt ở mức thấp. Sau gần một năm hoạt động, chỉ số UPCoM-Index không những không tăng điểm, mà còn giảm tới hơn 50%. Đóng cửa phiên ngày 17-3, chỉ số UPCoM-Index đạt 44,29 điểm, với khối lượng giao dịch đạt 341031 CP, tương đương giá trị 4268 tỷ đồng Trên 2 sàn chính thức là Hà Nội và TP Hồ Chí Minh đã có nhiều hàng hóa có tính thanh khoản cao, nên lựa chọn của nhà đầu tư vẫn dành cho những CP trên 2 sàn này chứ không phải trên UPCoM. Lãnh đạo của Sở GDCK Hà Nội khẳng định, thời gian tới sẽ áp dụng phương thức giao dịch mới linh hoạt hơn để cải thiện tính thanh khoản và thu hút nhà đầu tư. Hầu hết các mã được giao dịch tích cực trên UpCom lại là những mã có thông tin chuẩn bị chuyển sang giao dịch trên 2 sàn chính thức. Điều này giấy lên lo ngại về tính thanh khoản sẽ ngày càng có chiều hướng đi xuống của sàn này, mặc dù mới đây HNX đã có thông báo sẽ tìm cách tháo gỡ điểm khó khăn này Thị trường thiếu sự tham gia của các ‘cổ phiếu vua’ : như cổ phiếu ngành ngân hàng, dầu khí ..đây là những CP có tính lỏng lớn, tạo sức hút cho thị trường. Chưa thấy vai trò của nhà tạo lập TT: các công ty chứng khoán của Việt Nam còn thiếu và còn yếu chưa phát triển đủ khả năng để trở thành những nhà tạo lập thị trường. Còn các NHTM, các quỹ bảo hiểm có khả năng hạn chế rủi ro cho thị trường thì lại không được thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán nên cũng không thể trở thành các nhà tạo lập thị trường. Biên độ bị quản lý là 10%, trong khi ở sàn HASTC là 7%, HOSE là 5%, thị trường tự do không giới hạn về biên độ => giảm tính hấp dẫn của thị trường Upcom Chế tài xử phạt ko hợp lý 2.Giải pháp cho sự phát triển của thị trường OTC Việt Nam: Những phân tích trên cho thấy mặc dù Nhà nước đã rất cố gắng nhằm tạo lập một thị trường OTC hoàn chỉnh theo mô hình của các TT OTC nổi tiêng trên thế giới nhưng cho dến thời điểm này, chúng ta mới chỉ có một số tiền đề khá cơ bản cho sự hình thành và phát triển thị trường như: Sự phát triển về số lượng và chất lượng của các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư có tổ chức; các loại chứng khoán khá đa dạng với chất lượng khá tốt và ngày càng được nâng cao; hệ thống tổ chức TCTG phát triển nhanh; hệ thống cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng kỹ thuật được đầu tư và phát triển… Để hình thành và phát triển thị trường OTC ở Việt Nam, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau: a) Đối với Upcom nói riêng Cho phép các công ty chứng khoán được phép tổ chức thị trường song song với Upcom của HNX. Điều đó có nghĩa là nếu doanh nghiệp đăng ký lên Upcom thì sẽ thực hiện theo quy định hiện hành, còn các công ty đại chúng sau khi thực hiện lưu ký chứng khoán cũng sẽ được giao dịch tại sàn do các công ty chứng khoán tổ chức và chỉ phải gửi báo cáo về HNX để tổng hợp, chuyển sang Trung tâm lưu ký chứng khoán để thanh toán bù trừ Ví dụ: Ngày 16/3/2009, Công ty Cổ phần Chứng khoán Phố Wall (WSS) đã chính thức khai trương vừa đưa vào hoạt động sàn OTC Phố Wall tại Hà Nội với mục đích tăng tính thanh khoản và minh bạch cho thị trường. Theo bà Phạm Diễm Hoa, Tổng Giám Đốc WSS, với số lượng trên 1.000 công ty đại chúng, trong đó trên 70% chưa được đăng ký niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán Hồ Chí Minh, Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và chưa kể đến hàng trăm công ty cổ phần sẽ trở thành công ty đại chúng trong thời gian tới, đây  là một thị trường giao dịch rất tiềm năng cho các công ty chứng khoán khai thác. Thực tế cho thấy, rất nhiều nhà đầu tư vẫn thực hiện "mua bán trao tay" trongc giao dịch chứng khoán, chỉ có một số ít (chủ yếu là tổ chức) dựa vào việc môi giới của công ty chứng khoán. Nhiều nhà đầu tư có nhu cầu mua chứng khoán chưa niêm yết, nhưng không thể tìm được người có nhu cầu, mặt khác, giao dịch chứa nhiều rủi ro, không có tổ chức trung gian đứng ra môi giới, tư vấn. "Tính thanh khoản của thị trường bị ảnh hưởng nghiêm trọng, đặc biệt là thị trường cổ phiếu chưa niêm yết (OTC). Vì vậy, chúng tôi tạo ra sàn giao dịch chứng khoán chưa niêm yết, giúp cho người mua và người bán có thể tìm đến nhau một cách nhanh chóng hơn, qua đó làm tăng nhanh tính thanh khoản của thị trường và giảm thiểu rủi ro trong thanh toán cho các chủ thể tham gia," bà Hoa nhấn mạnh./. Hoàn thiện hệ thống pháp luật về TTCK Việt Nam: sẽ làm tăng tính minh bạch hiệu quả cho thị trường upcom + Bổ sung Luật Doanh nghiệp về quản lý nghĩa vụ kiểm toán định kỳ đối với tất cả các doanh nghiệp. + Bổ sung quy định về quản trị công ty, thâu tóm, sáp nhập, mua lại cổ phiếu, bỏ phiếu tích luỹ nhằm tăng cường tính minh bạch và bảo vệ quyền lợi cổ đông. + Bổ sung Luật hình sự các tội danh trong lĩnh vực chứng khoán, hạn chế hoạt động cò mồi bất hợp pháp trên thị trường tự do, giảm thiểu rủi ro. + Xây dựng hành lang pháp lý cho công ty định mức tín nhiệm, đặc biệt là các quy định liên quan đến vấn đề chất lượng kế toán, kiểm toán, quy định về bảo vệ quyền lợi người đầu tư. Nâng cấp kĩ thuật: -Phải có hạ tầng internet tốt, với đường truyền có tốc độ cao có khả năng phục vụ cho người đầu tư truy nhập vào các trang web thông tin của các công ty chứng khoán hay tới hệ thống thông tin của HaSTC từ các thành viên một cách nhanh chóng, tránh được hiện tượng tắc nghẽn trên đường truyền. -Xây dựng một hệ thống mạng lớn để có thể liên kết tất cả các thành viên thị trường trên cả nước để có thể truy cập hệ thống, kết nối thông tin, các nhà đầu tư có thể tiếp cận thông tin thị trường kịp thời. -Một hệ thống quản lý mạng là cần thiết để cho phép phát hiện ra lỗi của hệ thống và kiểm soát toàn bộ hệ thống mạng. Hệ thống mạng nội bộ trong từng công ty chứng khoán và TTGDCK OTC phải được thiết lập và có độ bảo mật, an toàn cao. Mỗi một công ty chứng khoán phải có một đường truyền trực tiếp có tốc độ cao, có độ an toàn và bảo mật tốt tới HaSTC Thu hút thêm nhà đầu tư tham gia Upcom Khi đã có 1 khối lượng các cổ phiếu giao dịch trên thị trường upcom thì việc thu hút thêm nữa sự tham gia của các nhà đầu tư là một vấn đề cần phải có sự điều chỉnh về: + Tăng biên độ giao động giá: - Nếu so sánh với thị trường tự do thì upcom mang lại sự an toàn hơn - Nếu so sánh với thị trường tập trung thì những điều kiện về các quy đinh ràng buộc khi niêm yết là hok chặt chẽ bằng -->vậy để tạo đc lợi thế cạnh tranh , tăng tính hấp dẫn của upcom thì ko nên quy định biên độ giao động giá là 10%(HoSE 5%,HaSTC 7%, trong khi đó thị trường tự do là hok có biên độ giao động giá). Upcom giao dịch các loại cổ phiếu chưa niêm yết, các nhà đầu tư cho rằng, khi chấp nhận đầu tư vào những cổ phiếu đó, tức là họ đã chấp nhận mạo hiểm thì lợi nhuận kỳ vọng sẽ phải cao hơn > Tăng biên độ dao động giá từ 30% trở lên + Tăng tính thanh khoản bằng cách thực hiện thanh toán T+1 hoặc T+2 - Giao dịch trên các chợ OTC tự do hiện nay đang thực hiện với thời gian T+0, cũng như áp dụng phổ biến các hình thức mua bán khống, tuy rủi ro cao nhưng luôn đi kèm với lợi nhuận hấp dẫn. Do đó những lo ngại về tính thanh khoản của cổ phiếu OTC sau khi lên sàn UpCoM là hoàn toàn có cơ sở, vì vậy để tạo lợi thế cạnh tranh so với chợ OTC cần phải tăng tính thanh khoản của cổ phiếu trên upcom lên T+1,T+2, thậm chí có thể là T+0 - Để góp phần tăng thêm tính thanh khoản cho upcom nên thực hiện phương thức xé lẻ lệnh: VD: với lệnh bán 10000 cổ phiếu A, trong khi lệnh mua chỉ có 5000 cổ phiếu A thì lệnh mua vẫn được khớp + Cácthông tin trên thị trường upcom phải đc minh bạch hóa b) Đối với TT OTC Việt Nam nói chung Cần có các nhà tạo lập thị trường: Để thị trường phát triển tốt cần phải có những nhà tổ chức thị trường. Họ là những người thực hiện đồng thời hai chức năng: môi giới và kinh doanh chứng khoán. Để thực hiện các chức năng đó, các nhà tạo lập thị trường phải đáp ứng các yêu cầu về mức vốn pháp định, hệ thống cơ cở vật chất - kỹ thuật, đội ngũ nhân lực… và chịu sự kiểm soát chặt chẽ của cơ quan quản lý thị trường và Hiệp hội Kinh doanh chứng khoán. Các nhà tạo lập thị trường có thể là các CTCK phát triển, các NHTM hay các Quỹ bảo hiểm… chứ không nên chỉ bó hẹp là các CTCK như hiện nay. Có như vậy mới tạo được nền tảng cơ bản cho sự phát triển vững chắc của thị trường OTC. Cần có hệ thống kế toán và những yêu cầu kiểm toán thể hiện đúng “sức khỏe” của Doanh nghiệp: Đối với các công ty niêm yết chính thức, việc công bố thông tin phải tuân thủ theo những quy định chặt chẽ nhưng với các công ty không niêm yết thì điều này là không bắt buộc, do đó việc thông tin về tình trạng của Doanh nghiệp được đưa ra thường chưa sát thực, còn mập mờ hay chưa minh bạch. Đây chính là một rào cản của thị trường. Do vậy, yêu cầu cần có một hệ thống kế toán cà các yêu cầu kiểm toán nhằm thể hiện đúng thực trạng của Doanh nghiệp là một yêu cầu hết sức cần thiết cho sự phát triển của thị trường OTC, giúp các nhà đầu tư đánh giá thực trạng công ty một cách tốt nhất. Thị trường cần được hoạch định chiến lược phát triển một cách rõ ràng: cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán cần hoạch định rõ chiến lược phát triển thị trường OTC. Trong đó, cần hoạch định sự phát triển thị trường OTC đồng bộ với sự phát triển của thị trường tập trung. Cơ quan quản lý cần xác định rõ mô hình thị trường, bởi với mỗi mô hình thị trường OTC khác nhau thì loại hình, số lượng nhà tạo lập thị trường, phương thức đăng ký và giao dịch, thanh toán và lưu ký là khác nhau. Mô hình thị trường bao gồm các nhân tố, cơ chế vận hành, cần được thể chế hóa cụ thể trong các văn bản luật liên quan. Trên cơ sở xác định đúng mô hình thị trường, cần có chính sách hợp lý trong việc phát triển các nhân tố của thị trường, đặc biệt là chính sách hỗ trợ phát triển các tổ chức TCTG nhằm phát triển các nhà tạo lập thị trường chứng khoán; chính sách đầu tư hợp lý nhằm tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật, hệ thống thông tin của thị trường; tăng cường các chính sách hỗ trợ, bao gồm chính sách miễn giảm thuế; hỗ trợ đào tạo; hỗ trợ về thông tin và cơ sở vật chất kỹ thuật… Cần phát triển hơn nữa hoạt động của Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam. Do đang ở giai đoạn mới phát triển, vai trò của hiệp hội vẫn còn khá mờ nhạt. Các hoạt dộng quản lý thị trường, quản lý các thành viên chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường CK thực hiện. Cần phát triển hơn nữa các hoạt động tư vấn, đào tạo, hỗ trợ thông tin cho các thành viên đồng thời nâng cao vai trò hỗ trợ cho các nhà chính sách trong việc hoạch định và thực thi chính sách phát triển thị trường. Tăng cường cổ phần hóa doanh nghiệp về cả số lượng và chất lượng: Để tránh hiện tượng nhà nước hóa công ty cổ phần, nâng cao quyền tự chủ của các doanh nghiệp cần xem xét bán lượng cổ phần Nhà nước đang nắm giữ trong các doanh nghiệp nhà nước. Đồng thời cấn sớm thay đổi chính sách cổ phần hóa DN nhà nước hiện tại nhằm đảm bảo hơn quyền lợi cán bộ công nhân viên, thúc đẩy quá trình cổ phần hóa diễn ra nhanh và chất lượng hơn, thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường OTC nói riêng. Câu 3: Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là thị trường không có trung tâm giao dịch tập trung, đó là một mạng lưới các nhà môi giới và tự doanh chứng khoán mua bán với nhau và với các NĐT, việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và Internet, cơ chế xác lập giá chủ yếu là dựa trên cơ sở thương lượng giá. Thị trường OTC (khác với thị trường chứng khoán chợ đen) được tổ chức chặt chẽ bởi các tổ chức theo quy định của pháp luật và chịu sự quản lý của Nhà nước. Bắt đầu từ tháng 6/2008 CK sẽ được lưu ký tập trung, cổ phiếu của những công ty đại chúng chưa niêm yết phải được giao dịch tại công ty chứng khoán, sau đó chuyển kết quả qua Trung tâm giao dịch CK Hà Nội để thanh toán qua Trung tâm lưu ký chứng khoán. Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của những doanh nghiệp có doanh số, thu nhập và thị phần đang tăng với tốc độ nhanh hơn bình quân trong vài năm qua và nhà đầu tư kỳ vọng nó tiếp tục tăng trưởng lợi nhuận cao. Có một điểm nổi bật là cổ phiếu tăng trưởng là loại cổ phiếu của các doanh nghiệp có những sản phẩm hoặc dịch vụ chất lượng cao, có khả năng nắm bắt đáp ứng được những nhu cầu thiết yếu và mới của xã hội, tạo ra lợi nhuận biên, lợi nhuận trên vốn cổ phần và chỉ số P/E cao hơn các cổ phiếu khác. Ngoài ra, lợi nhuận cổ phiếu đó được ước tính sẽ tăng đáng kể trong 1 hoặc 2 năm tiếp theo Có thể nói thị trường OTC là thị trường cổ phiếu tăng trưởng vì - Cổ phiếu giao dịch trên thị trường OTC chiếm phần lớn là các cổ phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết trên sở giao dịch nhưng đáp ứng các điều kiện về tính thanh khoản và yêu cầu tài chính tối thiểu của thị trường OTC, trong đó chủ yếu là các cổ phiếu của các cty vừa và nhỏ, công ty có triển vọng phát triển, chuẩn bị niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hoặc có những lợi thế thương mại riêng biệt. Những công ty này có nhiều đặc điểm của các công ty tăng trưởng. - Việc giao dịch trên thị trường OTC gặp khá nhiều hạn chế như thông tin, giá cả không được cập nhật nhiều, rủi ro, doanh nghiệp trì hoãn kế hoạch niêm yết,… Như vậy cổ phiếu niêm yết và giao dịch trên thị trường OTC đa dạng và có độ rủi ro cao hơn so với các cổ phiếu niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán.Rủi ro là biến cố đồng hành trong quá trình đầu tư, nếu cổ phiếu có độ rủi ro càng lớn thì mức lợi nhuận kỳ vọng phải cao.Do đó những cổ phiếu được giao dịch nhiều trên thị trường OTC phải là những cổ phiếu có mức lợi nhuận kỳ vọng cao của các công ty đang tăng trưởng mạnh. Những cổ phiếu của các công ty kém phát triển sẽ bị đào thải theo quy luật phát triển của thị trường. Lấy ví dụ về một số cổ phiếu tăng trưởng trên thị trường OTC VN năm 2010. Đó không phải là những cổ phiếu tài chính, bất động sản hay dầu khí như trước đây, mà là các ngành hàng tiêu dùng có thị phần ổn định, đặc biệt là lượng cổ phiếu lưu hành hạn chế hay có hoạt động đặc thù. Ví dụ CTCP Cồn rượu Hà Nội (Halico) có vốn điều lệ đạt 200 tỷ đồng, kết thúc 9 tháng đầu năm 2010, Halico đạt tổng doanh thu trên 594 tỷ đồng, lợi nhuận sau thuế 87,45 tỷ đồng, EPS là 4.372 đồng. Cổ phiếu Halico đang được giao dịch ở mức giá 75.000 đồng/CP. CTCP Dịch vụ hàng hóa Nội Bài (NCTS), cổ phiếu được giao dịch quanh mức 50.000 đồng/CP. Sản lượng năm 2010 lên 192 tấn, doanh thu 245 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 133,262 tỷ đồng (tăng 37% so với 2009), lợi nhuận sau thuế trên 118 tỷ đồng và cổ tức chi trả ở mức 100% (2009 là 75%). Mặt khác, có rất nhiều các Tổng Công ty, các công ty lớn chưa muốn niêm yết trên sàn giao dich tập trung bởi nhiều yếu tố. Và đây chính là cơ hội cho thị trường OTC được tiếp cận tới những công ty có tốc độ tăng trưởng cao và tiềm năng này, như Công ty CP ĐT và phát triển năng lượng VN … hay nhóm các công ty trong lĩnh vực công nghệ thông tin, như: Công ty CP Công nghệ thông tin EIS; Công ty phần mềm Esoft … đây đều là những cổ phiếu tiềm năng khi mà lĩnh vực công nghệ thông tin ngày càng phát triển và đạt được nguồn lợi khổng lồ từ hoạt động này. Câu 4: Thị trường OTC( Over The Counter - Thị trường giao dịch qua quầy) hay còn gọi là thị trường phi tập trung, là thị trường được tổ chức không dựa vào một mặt bằng giao dịch cố định như thị trường sàn giao dịch (thị trường giao dịch tập trung), mà dựa vào một hệ thống vận hành theo cơ chế chào giá cạnh tranh và thương lượng thông qua sự trợ giúp của các phương tiện thông tin. Thị trường OTC không có một không gian giao dịch tập trung. Thị trường này thường được các công ty chứng khoán (CTCK) cùng nhau duy trì, việc giao dịch và thông tin được dựa vào hệ thống điện thoại và Internet với sự trợ giúp của các thiết bị đầu cuối. Hàng hoá của thị trường OTC chính là các loại chứng khoán được phép phát hành và chưa đủ điều kiện niêm yết trên sở giao dịch (SGD), chủ yếu là chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao, công ty mới thành lập nhưng có tiềm năng phát triển v.v… Khi xét về đối tượng và phương tiện tham gia thị trường này ta có thể nhận thấy rằng :Các chủ thể khi tham gia trên thị trường này càng có công nghệ tiên tiến thì càng có lợi thế cạnh tranh càng có cơ hội thu được lợi nhuận cao, chính bởi lẽ đó với các công ty công nghệ cao bị thu hút bởi OTC một phần vì điều kiện tham gia dễ hơn so với thị trường tập trung một phần chính là lợi thế do ngành kinh doanh của họ. Hay nói cách khác OTC có thể coi là thị trường cổ phiếu công nghệ. Có thể thấy rõ điều này ở thị trường OTC ở Mĩ,đó chính là thị trường Nasdaq : được thành lập năm 1971 bởi Hiệp hội những người buôn bán chứng khoán Quốc gia (NASD) và hiện đang được điểu hành bởi Nasdaq Stock Market, Inc. Nasdaq là sàn giao dịch chứng khoán điện tử lớn nhất nước Mỹ, với khoảng 3.200 công ty niêm yết và số lượng cổ phiếu giao dịch bình quân nhiều hơn bất kỳ sàn giao dịch khác ở Mỹ, kể cả NYSE. Có giá trị vốn hoá thị trường đứng thứ 3 thế giới (sau NYSE và Tokyo stock Exchange). Chỉ số Nasdaq được theo dõi nhiều nhất đối với các công ty hoạt động trong lĩnh vực công nghệ. Mặt khác khi xét điều kiện tham gia thị trường cũng như đối tượng tham gia nhận thấy một điều rõ ràng là hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những chủ thế chính có mặt trên OTC . Họ là những doanh nghiệp không đáp ứng được những điều kiện niêm yết trên sàn giao dịch tập trung ( vốn điều lệ, về lợi nhuận trong vòng 2-3 năm phải dương…) nên để huy động vốn nhanh chóng phục vụ sản xuất kinh doanh việc tìm tới OTC là tất yếu để đảm bảo nguồn tài trợ cho công ty. Và cũng vì thế mà OTC còn được coi là thị trường cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra OTC còn được biết đến như là thị trường của cổ phiếu tăng trưởng. OTC ra đời sớm nhất trong lịch sử hình thành phát triển thị trường chứng khoán đóng vai trò như một thị trường thứ cấp thực hiện vai trò điều hòa lưu thông các nguồn vốn luôn tồn tại và phát triển song song với thị trường chứng khoán tập trung. Do vậy chứng khoán giao dịch trên OTC mặc dù có thể là những chứng khoán được phép phát hành và chưa đủ điều kiện niêm yết trên sở giao dịch (SGD), chủ yếu là chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ, công ty công nghệ cao, công ty mới thành lập nhưng có tiềm năng phát triển v.v…Với cơ chế thương lượng và thỏa thuận giá là chủ yếu, cùng với việc sử dụng mạng máy tính rộng để giao dịch thông tin, quản lí và cơ chế thanh toán linh hoạt đa dạng thì giao dịch trên OTC đôi khi có sự sôi động và tăng trưởng mạnh mẽ hơn cả trên thị trường tập trung. OTC có thể được xem là thị trường cổ phiếu công nghệ, thị trường cổ phiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ, thị trường cổ phiếu tăng trưởng. E. Công ty chứng khoán Câu 1: * Hoạt động môi giới: - 4/5 công ty chứng khoán đang dẫn đầu thị phần môi giới trong nước đã nâng mức chuyên nghiệp hóa hoạt động môi giới thêm một bước bằng cách chia khách hàng theo nhóm và mỗi nhân viên môi giới phụ trách tư vấn cho một nhóm khách hàng. - Trong khi mảng môi giới cho nhà đầu tư nước ngoài, các CTCK lâu năm vẫn hoàn toàn chiếm ưu thế thì về thị phần môi giới trong nước lại thuộc về các CTCK năng động. - Năm 2011 là một bức tranh rất u ám đối với CTCK khi thua lỗ 68%; âm vốn chủ sở hữu. Đặc biệt, yếu tố mất thanh khoản rất nghiêm trọng. Và trong làn sóng thua lỗ, mất thanh khoản này, ngoài SMES bị đình chỉ tư cách thành viên của hai sở và bị rút nghiệp vụ môi giới thì HSSC là được cho là trường hợp tự nguyện đầu tiên rút bớt nghiệp vụ trong năm nay. Trước đó, CTCK Đông Dương (DDS) bất ngờ thông báo ngưng nghiệp vụ môi giới với lý do thị trường CK đã và đang trải qua giai đoạn hết sức khó khăn - Theo quy định, để được thực hiện nghiệp vụ môi giới, CTCK cần có vốn pháp định là 25 tỉ đồng, tư vấn đầu tư là 10 tỉ đồng, tự doanh là 100 tỉ đồng và bảo lãnh phát hành là 165 tỉ đồng. Tổng số vốn pháp định cần thiết cho cả 4 nghiệp vụ cơ bản này là 300 tỉ đồng. Nghiệp vụ môi giới không phải là nghiệp vụ có yêu cầu về vốn pháp định cao nhất, nhưng thời gian qua, do tình trạng suy thoái nghiêm trọng, doanh tu từ hoạt động này của các CTCK giảm đi một cách rõ rệt, ở một số CTCK nhỏ không có khả năng cạnh tranh thì doanh thu từ hoạt động môi giới gần như không đáng kể. Tuy nhiên, rút nghiệp vụ môi giới không có nghĩa là CTCK bị phá sản, mà đó chỉ là việc thu hẹp một mảng hoạt động mà khó có khả năng mang lại hiệu quả. CTCK vẫn tồn tại và vẫn thực hiện các hoạt động nghiệp vụ khác. CTCK khó khăn có thể xin rút bớt nghiệp vụ, ngược lại, khi “ăn nên làm ra” lại có thể đăng ký trở lại với UBCK. *Hoạt động tư vấn của ctck VN hiện nay -hoạt động tư vấn của CTCK đã được mở rộng và chuyên sâu hơn rất nhiều thể hiện ở các loại hình dịch vụ tư vấn ngày càng phong phú như: tư vấn phát hành thêm CP, tư vấn cấu trúc tài chính, tư vấn cổ phần hóa, định giá doanh nghiệp. - Năng lực tài chính của các CTCK còn thấp, nên hầu hết chỉ tập trung vào thực hiện nghiệp vụ môi giới mà chưa quan tâm đến phát triển nghiệp vụ TVDN và doanh thu từ hoạt động TVDN không đáng kể, nhiều công ty không có doanh thu. - Có rất nhiền CTCK vốn điều lệ chưa vượt quá 135 tỷ đồng mức vốn điều lệ tối thiểu để một CTCK hoạt động theo luật định. Đây là một trở ngại rất lớn đối công ty trong quá trình phát triển và tìm kiếm các hợp đồng tư vấn. - Nguồn thu từ nghiệp vụ này chỉ dừng lại ở “thu đủ bù chi”. Giá trị của mỗi hợp đồng tư vấn tài chính từ khoảng 60 triệu đồng đến 100 triệu đồng. Thời gian thực hiện một hợp đồng phải mất từ 60 ngày đến 90 ngày, bình quân lợi nhuận thu về sau khi trừ hết chi phí công ty thu được từ 10% đến 15% giá trị hợp đồng. *Hoạt động tự doanh của các ctck VN hiện nay - Vào đầu năm 2009, khi thị trường khó khăn, các công ty chứng khoán (CTCK) lại phải thực hiện yêu cầu tăng vốn pháp định mới được thực hiện các nghiệp vụ tương ứng, nên nhiều CTCK đã nộp đơn lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xin rút bớt nghiệp vụ tự doanh, bởi theo quy định, nghiệp vụ này yêu cầu vốn pháp định của doanh nghiệp là 100 tỷ đồng, một số tiền không nhỏ trong tình hình huy động vốn khó khăn. Điều này làm ảnh hưởng lớn đến doanh thu từ hoạt động tự doanh của các CTCK. - năm 2011, thị trường ảm đạm kéo dài, cổ phiếu mất giá, nhiều mã giảm sâu so với giá trị sổ sách, khiến CTCK nào càng tự doanh nhiều thì càng lâm vào khó khăn. Dù được coi là những nhà đầu tư chuyên nghiệp nhưng do lượng cổ phiếu nắm giữ nhiều trong khi thanh khoản thị trường thấp nên các công ty chứng khoán cũng rất khó xoay sở khi mặt bằng giá xuống nhanh như giai đoạn vừa qua. Tự doanh được coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra tình trạng thua lỗ của các CTCK. Và nhiều công ty lớn đã chuyển hẳn danh mục tự doanh của mình sang cho các quỹ. - Nhiều công ty dùng đòn bẩy tài chính, cho nhà đầu tư vay mua cổ phiếu khi cổ phiếu mất giá thì CTCK phải chấp nhận thiệt thòi. *Hoạt động BLPH của các CTCK VN hiện nay -ở VN, đa phần CTCK mới chỉ triển khai hoạt động mạnh trong bảo lãnh TPCP có rr thấp, còn bảo lanhxphat hành cổ phiếu thì còn hạn chế, chỉ tập trung bảo lãnh cho các công ty lớn. điều này cũng dễ hiểu do sự hạn chế thông tin cũng như rr con rất cao ở TTCK VN. - Trong thời gian qua, nguồn thu từ mảng bảo lãnh phát hành chứng khoán thì gần như các công ty chứng khoán không có thu nhập. Trong quý III năm 2010 ngoại trừ SSI đạt trên 10 tỷ đồng doanh thu, BVS đạt trên 1,4 tỷ đồng và CTS đạt 250 triệu đồng. - Doanh thu đại lý phát hành chứng khoán, doanh thu hoạt động ủy thác đấu giá… thì hầu như các công ty chứng khoán có rất ít hoặc không có nguồn thu Câu 2: Ở VN theo luật dn 2005 có 4 loại hình doanh nghiệp: Công ty TNHH Công ty cổ fần Công ty hợp danh Doanh nghiệp tư nhân Trong các loại hình doanh nghiệp trên, chỉ có công ty cổ phần là đc fép huy động vốn bằng fát hành cổ fiếu và trái phiếu, công ty TNHH chỉ đc fép fát hành trái fiếu.Như vậy công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có ưu thế trg việc huy động vốn bằng phát hành chứng khoán. Khi ttck VN fát triển, các dn xem đây là kênh fát hành cp để huy động vốn hữu hiệu nhất Thời jan qa có nhiều đợt fát hành huy động vốn theo nhu cầu fát triển của dn, đây là biểu hiện tích cực về hiệu lực hoạt động của ttck. Nhưg đồng thời cg có kô ít đợt fát hành tiềm ẩn khả năng để tranh thủ, tận dụng nguồn vốn trc các cơn khát đầu tư trên tt. Điều này fần nào đã dẫn đến tình trạng sử dụng vốn kô đúg theo nhu cầu fát triển, kô theo dự án cụ thể hay kế hoạch sử dụng vốn đã đc xác lập. Do vậy, kỳ vọng của nhà đầu tư, mong đợi của nên kinh tế và của tt chưa đc đáp ứg. Ở Vn, hành lang fáp lý còn rườm rà gây trở ngại đối với vc fát hành cổ phiếu (doanh nghiệp sẽ mất nhiều thời gian cho khâu chuẩn bị và xét duyệt hồ sơ), các công ty chứng khoán vn do hạn chế về kinh nghiệm, trình độ chuyên môn nên chưa đóng vai trò tích cực đối với việc tư vấn, bảo lãnh fát hành cho các công ty. Về fía các công ty, tt cổ phiếu cg như trái phiếu công ty còn kém fát triển do các công ty chưa quen vs vc huy động vốn qua vc fát hành cổ phiếu, trái phiếu mà vẫn dựa chủ yếu vào nguồn vốn vay ngân hang, đặc biệt là các tổng công ty lớn, các dn nn do có khả năng tiếp cận các nguồn vốn vay ngân hang, vay ưu đãi. Các đơn vị này cg thiếu tổ chức định mức tín nhiệm giúp cho việc xác định tín nhiệm và làm tăng tính minh bạch cho các cổ phiếu, trái phiếu fát hành…Do đó, các công ty cổ phần hiện nay còn rất hạn chế trg vc fát hành cổ phiếu để huy động vốn Độ co giãn của giá trái phiếu theo lãi suất: Bài tập: Trái phiếu coupon A mệnh giá 1000 USD, lãi suất 9,5%, trái  phiếu  B trả theo niên kim cố định mệnh giá 1000 USD, lãi suất 8,5%; 2 trái phiếu phát hành đầu năm 2005, đáo hạn cuối năm 2014. Thời điểm hiện tại là đầu năm 2009. NĐT cho rằng với tỷ lệ lợi tức trái phiếu A và B lần lượt là 8,1% và 7,5% là đủ bù đắp rủi ro trái phiếu. Tính giá trái phiếu? Tại trung tâm GDCK, trái phiếu A và B được niêm yết với giá lần lượt là 102,5% và 70% mệnh giá. Tính tỷ lệ lợi tức yêu cầu? Dự báo lãi suất thị trường thời gian tới giảm 0,5%. Đánh giá ảnh hưởng thông tin trên tới giá trái phiếu? Giải: 1. +Trái phiếu A: Trong đó: Như vậy với tỷ lệ lợi tức yêu cầu là 8,1%, NĐT có thể mua trái phiếu A với giá 1064,52 USD +Trái phiếu B: Giá trị của niên kim: Như vậy với tỷ lệ lợi tức yêu cầu là 7,5%, NĐT có thể mua trái phiếu B với giá 715,34 USD 2. +Trái phiếu A: Theo giả thiết ta có, Thử Áp dụng công thức nội suy tuyến tính: +Trái phiếu B: và Vậy với mức giá niêm yết trên thị trường …thì nhà đầu tư sẽ yêu cầu tỷ lệ lợi tức lần lượt là … 3. +Trái phiếu A: Lãi suất giảm 0.5% thì PV tăng và +Trái phiếu B: Lãi suất giảm 0.5% thì PV tăng và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtong_hop_ttck_6682.docx
Tài liệu liên quan