Phổ TGA-DTA của các mẫu SBA-16-APT,
SBA-16-APT-GLU được thể hiện qua hình 5.
Từ hình 5 cho thấy đối với mẫu SBA-16-APT
và SBA-16-APT-GLU xuất hiện pic thu nhiệt
ở 53,52oC và 59,62oC được quy cho là quá
trình mất nước hấp phụ vật lý bề mặt, hàm
lượng này là 14,64% và 8,259% tương ứng.
Trên phổ đồ của SBA-16-APT xuất hiện một
pic tỏa nhiệt ở 323,60oC ứng với sự mất trọng
lượng tổng 13,41%, được cho là sự phân hủy
của APTES đưa vào SBA-16. Đây cũng là
bằng chứng chứng minh nhóm -NH2 tồn tại
trong vật liệu SBA-16. Đối với mẫu SBA-16-
APT-GLU xuất hiện pic ở 290,27oC nhưng
pic này có đáy rộng từ 200oC đến 450oC với
tổng mất trọng lượng 18,686%, chỉ ra sự phân
hủy glutadiandehit xảy ra trước khi phân hủy
APTES. Điều này phù hợp với phổ IR ở trên
4 trang |
Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 511 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng hợp vật liệu lai mao quản trung bình SBA-16 bằng phương pháp gián tiếp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Hồng Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 93(05): 61 - 64
61
TỔNG HỢP VẬT LIỆU LAI MAO QUẢN TRUNG BÌNH SBA-16
BẰNG PHƯƠNG PHÁP GIÁN TIẾP
Nguyễn Thị Hồng Hoa1*, Đặng Tuyết Phương2, Nguyễn Thị Ngọc Linh1
1
Trường Đại học Khoa Học - ĐH Thái Nguyên
2Viện Hóa học- viện Khoa Học và Công nghệ Việt Nam
TÓM TẮT
Vật liệu mao quản trung bình SBA-16 và vật liệu lai mao quản trung bình SBA-16 là những vật
liệu có diện tích bề mặt lớn nên được ứng dụng nhiều trong việc đóng vai trò làm chất mang xúc
tác. SBA-16 là vật liệu SiO2 mao quản trung bình (MQTB) hình chai được tổng hợp trong điều
kiện axit ở 40oC với chất hoạt động bề mặt F127 poly (etylenoxit) - poly (propylenoxit) - poly
(etylenoxit) triblock copolyme (EO106PO70EO106) và nguồn vô cơ silic là TEOS để tạo nên màng và
hệ thống mao quản. Tuy nhiên việc cố định các chất xúc tác trên bề mặt của SBA-16 chủ yếu dựa
trên cơ chế hấp phụ. Trong quá trình phản ứng, chất xúc tác có thể bị thoát ra môi trường bên ngoài.
Để tăng độ bền của liên kết giữa chất xúc tác và chất mang (SBA-16), chúng tôi gắn những nhóm
chức hữu cơ lên bề mặt chất mang tạo ra vật liệu lai vô cơ- hữu cơ.
Từ khóa: SBA-16, SiO2, vật liệu mao quản, vật liệu lai mao quản, phương pháp gián tiếp
MỞ ĐẦU*
Vật liệu SBA-16 có cấu trúc rất trật tự, diện
tích bề mặt rất cao từ 600 đến 1000m2/g, kích
thước mao quản từ 0,8 – 8 nm đôi khi lên đến
30 nm. SBA-16 là vật liệu xốp, mao quản
trung bình hình chai với các hốc mao quản có
kích thước 5-12nm, trật tự, sắp xếp dạng lập
phương 3 chiều, hệ thống kênh lớn, có cấu
trúc đối xứng tâm thuộc nhóm không gian
Im3m [1, 2]. Để chức năng hóa bề mặt vật
liệu mao quản trung bình silica, có hai
phương pháp được áp dụng: phương pháp
biến tính trực tiếp và phương pháp biến tính
sau tổng hợp (phương pháp gián tiếp) [3-6].
Với phương pháp trực tiếp, để loại bỏ chất tạo
cấu trúc ta phải sử dụng nhiều dung môi gây
tốn kém. Với phương pháp gián tiếp, chất tạo
cấu trúc được loại bỏ hoàn toàn trước khi gắn
nhóm chức lên bề mặt chất mang mà không
làm ảnh hưởng đến cấu trúc của vật liệu.
Trong nghiên cứu này, SBA-16 được tổng
hợp bằng phương pháp thủy nhiệt, chức năng
hóa bề mặt SBA-16 bởi nhóm –NH2 bằng 3-
aminopropyltriethoxylane (ATPES). Sự tồn
tại và hàm lượng của nhóm amin trên bề mặt
SBA-16 được nghiên cứu và tính toán.
*
Tel: 0914 833436, Email: honghoakhtn@gmail.com
THỰC NGHIỆM
Tổng hợp và chức năng hóa SBA-16.
Hoà tan chất hoạt động bề mặt trong dung
dich axit HCl cho đến khi trong suốt, sau đó
cho từ từ TEOS vào dung dịch trên ở nhiệt
độ 450C trong điều kiện khuấy. Thành phần
gel của hỗn hợp
TEOS/F127/BuOH/HCl/H2O là 1/0,035/0-
2/0,9/122. Hỗn hợp trên tiếp tục được khuấy
ở 450C trong 24h trước khi được xử lý thuỷ
nhiệt ở các nhiệt độ khác nhau. Sản phẩm kết
tủa trắng được lọc, không rửa, sấy ở 1000C
trong 24h. Để loại chất hoạt động bề mặt,
sản phẩm được sấy và nung ở 5500C trong
5h. Ta thu được SBA-16 đã xử lý sạch chất
hoạt động bề mặt.
Chức năng hóa vật liệu SBA-16: 2 g vật liệu
MQTB được xử lý với dung dịch etanol chứa
3% thể tích APTES. Hỗn hợp được hồi lưu
trong môi trường khí nitơ ở 80oC trong 24h.
Vật liệu sau khi chức năng hóa được lọc, rửa
bằng etanol và làm khô tự nhiên. Kí hiệu
mẫu thu được là SBA-16-APT. Sau đó SBA-
16-APT được hoạt hóa bằng dung dịch
glutardialdehyd 25% và trong dung dịch đệm
photphat 0,1M (pH = 7,5). Sau khi lọc, rửa
bằng dung dịch đệm photphat (pH = 7,5),
sản phẩm thu được ký hiệu là SBA-16-
APT-GLU.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 93(05): 61 - 64
62
Các phương pháp đặc trưng mẫu
Phổ nhiễu xạ Rơnghen (XRD) được ghi trên
máy Siemens D5000, ống phát tia bằng
CuKα, bước sóng λ = 1,5406 Å, ghi ở nhiệt
độ phòng, góc quét 0.03 độ, bước quét 0,7s.
Phổ hồng ngoại (IR) được chụp trên máy FT-
IR Impact-410, trong vùng 1300 cm-1 - 400
cm-1. Phổ BET được tiến hành trên máy
Chem BET – 3000 (Quantachrome, Mỹ). Phổ
TGA- DTA được ghi trên máy DTG-60H,
Simultaneous DTA-TG APPARATUS-
Shimadzu, tốc độ nâng nhiệt 10o/ phút trong
không khí đến nhiệt độ 800oC.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Trước tiên là phổ XRD của các mẫu ở hình 1
chúng ta thấy các mẫu đều có góc 2θ<1 đặc
trưng cho vật liệu có kích thước mao quản
trung bình. Dạng cấu trúc sau khi chức năng
hầu như không thay đổi.
Hình 1. Phổ XRD của mẫu SBA -16, SBA-16-APT,
SBA-16-APT-GLU
Phương pháp TEM khẳng định một lần nữa
cấu trúc Im3m của vật liệu SBA-16. Ảnh
TEM của mẫu SBA-16 (hình 2A) cho thấy vật
liệu tồng hợp có độ trật tự cao, trên hình là
các mặt [100], [110] và [111] đặc trưng cho
cấu trúc lập phương dạng Im3m. Ảnh TEM
của mẫu SBA-16-APT (hình 2B) cho thấy sự
sắp xếp với độ trật tự cao và cấu trúc lập
phương của SBA-16 không thay đổi khi chức
năng hóa.
Hình 3 đưa ra phổ IR của các mẫu SBA-16,
SBA-16-APT và SBA-16-APT-GLU.
Trên phổ của SBA-16 xuất hiện dải phổ ở
vùng 1100-1000cm-1 đặc trưng cho dao động
của nhóm siloxane (Si-O-Si), ngoài ra không
tồn tại các pic của các nhóm chức khác.
Hình 2. Ảnh TEM của SBA-16 (A), SBA-16-APT (B)
Từ phổ IR của mẫu SBA-16-APT, cho thấy
sự có mặt của dao động biến dạng của liên kết
N-H ở vùng 678cm-1
và liên kết –NH2 ở vùng
1550cm-1 chứng tỏ sự tồn tại của nhóm
amino. Điều này khẳng định APTES đã liên
kết hoá trị với các nhóm silanol trên bề mặt
silica của SBA-16. Ngoài ra, có thể quan sát
thấy các píc ở vùng 2935-2945cm-1 và 3300-
3315cm-1 đặc trưng cho dao động đàn hồi của
liên kết C-H và N-H.
Trên phổ của SBA-16- APT-GLU có sự xuất
hiện các đám phổ 1655cm-1 và 1730cm-1 đặc
trưng cho liên kết R-CH=N và C=O tương
ứng, không nhận thấy dải liên kết N-H ở
3296cm-1 và 1550cm-1. Điều đó chứng minh
rằng, nhóm –NH2 tồn tại trên bề mặt SBA-16
đã liên kết đồng hóa trị với một nhóm –CHO
của glutadiandehit, do đó không còn tồn tại
nhóm –NH2 tự do. Sự xuất hiện dải hấp phụ
ở 2938cm-1 cho thấy sự có mặt của nhóm
CH2. Hơn nữa, do sự có mặt của
glutadiandehit, cường độ đám phổ đặc trưng
cho liên kết C-H (2936cm-1) tăng lên.
Hình 3. Phổ IR của SBA-16, SBA-16-APT và SBA-
16-APT-GLU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 93(05): 61 - 64
63
Phương pháp BET khẳng định cho chúng ta
về vật liệu tổng hợp đã được chức năng có
cấu trúc vật liệu mao quản trung bình và từ
đường phân bố kích thước mao quản của
mẫu cho chúng ta xác định được đường kích
của mẫu.
Đối với SBA-16, SBA-16-APT, SBA-16-
APT-GLU (hình 4) đường đẳng nhiệt xuất
hiện các vòng trễ dạng H2 đặc trưng cho vật
liệu có mao quản lớn dạng hình chai và sự
liên kết giữa các mao quản.
Hình 4. Đường đẳng nhiệt hấp phụ – khử hấp phụ
N2 mẫu SBA-16, SBA-16-APT, SBA-16-APT-GLU
Đường phân bố kích thước mao quản của các
mẫu (hình 4) cho chúng ta biết đường kính
mao quản của các mẫu SBA-16, SBA-16-
APT, SBA-16-APT-GLU lần lượt là 6,17;
6,40 và 5,30 nm.
Bảng 1. Tính chất cấu trúc của vật liệu SBA-16,
SBA-16-APT, SBA-16-APT-GLU
Mẫu SBET (m2/g)
V
(cm3/g)
D
(nm)
d
(nm)
SBA-16 881 0,72 7,17 3,53
SBA-16-
APT 679 0,49 6,40 3,10
SBA-16-
APT-
GLU
571 0,35 5,30 2,70
Trong đó:
SBET : Tổng diện tích bề riêng
D: Đường kính mao quản lớn (phần thân chai)
V: Tổng thể tích mao quản
d: Đường kính cửa sổ (phần cổ chai).
Mẫu SBA-16 có kích thước phần thân chai và
phần cổ chai là 7,17 nm và 3,53 nm, tương
ứng, diện tích bề mặt SBET là 881 (m2/g), lớn
hơn so với của SBA-16-APT (6,40 nm và
3,10 nm) và SBA-16-APT-GLU (5,30 nm và
2,70 nm). Sự giảm kích đáng kể thước phần
thân chai và phần cổ chai trong mẫu SBA-16-
APT cho thấy nhóm –NH2 đã được gắn vào bề
mặt bên trong phần thân chai và phần cổ chai
qua liên kết với nhóm OH bề mặt của SBA-
16. Kích thước phần thân chai và phần cổ
chai tiếp tục giảm sau khi hoạt hóa với
glutadiandehit, chứng tỏ nhóm –CHO của
glutadiandehit liên kết với chính –NH2 trên bề
mặt SBA-16.
Phổ TGA-DTA của các mẫu SBA-16-APT,
SBA-16-APT-GLU được thể hiện qua hình 5.
Từ hình 5 cho thấy đối với mẫu SBA-16-APT
và SBA-16-APT-GLU xuất hiện pic thu nhiệt
ở 53,52oC và 59,62oC được quy cho là quá
trình mất nước hấp phụ vật lý bề mặt, hàm
lượng này là 14,64% và 8,259% tương ứng.
Trên phổ đồ của SBA-16-APT xuất hiện một
pic tỏa nhiệt ở 323,60oC ứng với sự mất trọng
lượng tổng 13,41%, được cho là sự phân hủy
của APTES đưa vào SBA-16. Đây cũng là
bằng chứng chứng minh nhóm -NH2 tồn tại
trong vật liệu SBA-16. Đối với mẫu SBA-16-
APT-GLU xuất hiện pic ở 290,27oC nhưng
pic này có đáy rộng từ 200oC đến 450oC với
tổng mất trọng lượng 18,686%, chỉ ra sự phân
hủy glutadiandehit xảy ra trước khi phân hủy
APTES. Điều này phù hợp với phổ IR ở trên.
Hình 5. Phân tích nhiệt DTA - TGA của mẫu SBA-
16 - APT và SBA-16- APT-GLU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Nguyễn Thị Hồng Hoa và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 93(05): 61 - 64
64
Từ số liệu phân tích TGA ở trên có thể tính
được số nhóm OH, -NH2 và -CHO trên bề
mặt vật liệu (số nhóm/g SiO2) (Bảng 2).
Bảng 2: Số nhóm chức trên bề mặt vật liệu
SBA-16
Mẫu
(Số
nhóm
OH/g
vật liệu)
(Số
nhóm
NH2/g
vật liệu)
(Số
nhóm
CHO /g
vật liệu)
SBA-16 6,75.1018
SBA-16-
APT 0,74.10
18
SBA-16-
APT-
GLU
0,29.1018
Từ bảng 2 thấy rằng, SBA-16 có số nhóm
OH, NH2, và CHO nhiều. Điều này là cơ sở
để nghiên cứu tiếp theo khả năng gắn các tâm
xúc tác lên vật liệu lai mao quản trung bình
SBA-16.
KẾT LUẬN
Tổng hợp thành công vật liệu SBA-16.
Tổng hợp thành công vật liệu lai mao quản
trung bình SBA-16 bằng APTES tạo ra nhóm
chức –NH2 tồn tại trên bề mặt và được liên kết
đồng hóa trị với nhóm –CHO của
glutardialdehyd.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Đinh Cao Thắng, Bùi Hải Linh, Hoàng Yến,
Đặng Tuyết Phương, Vũ Anh Tuấn, Trần Thị Kim
Hoa, Tổng hợp, đặc trưng và tính chất xúc tác của
Vanađi oxit trên chất mang SBA-16, Tạp chí Khoa
học và Công nghệ, 45 (2007) 92 – 96.
[2]. Tea-wan Kim., Ryong., Michal Kruk., Kamil P.
Gierezal., Mietek, Jaroniee.,
Satoshi Kamiya., Osamu Terasaki, Tailoring the
Pore Structure of SBA-16 Silica Molecular Sieve
through the Use of Copolymer Blends and
Control of Synthesis Temperature and Time, J. Phys.
Chem. B, 108 (2004) 11480 - 11489.
[3]. He, Z. Liu, and C.Hai, Adsorption Heterogencity
of Lysozyme over Functionalized Mesoporous
Silica: Effect of Interfacial Noncovalent Interaction,
AIChE Journal 54 (2008) 2495-2506.
[4]. Đặng Tuyết Phương, Hoàng Yến, Bùi Thị Hải
Linh, Trần Thị Kim Hoa, Vũ Anh Tuấn. Tổng hợp
vật liệu lai mao quản nano MCF amin hóa. Tạp chí
Hóa học, 47 (6B), (2009) 84 – 87.
[5]. Glen E. Fryxell. The synthesis of functional
mesoporous materials. Inorganic Chemistry
Communications 9 (2006) 1141-1150.
[6]. Darbha Srinivas Lakshi Saikia. Functionalized
SBA-15 and its Catalytic Applications in Selective
Organic Transformations. Catal Surv Asia 12
(2008) 114-130
SUMMARY
SYNTHESIS OF HYBRID MESOPOROUS SBA-16 MATERIALS
BY INDIRECT METHOD
Nguyen Thi Hong Hoa*1, Đang Tuyet Phuong2, Nguyen Thi Ngoc Linh1
1College of Science – TNU
2Institute of Chemistry Technology -Vietnam Academy of Science and Technology
Mesoporous SBA-16 and hybrid mesoporous SBA-16 materials have large surface area so that
they were used to be the carrier. SBA-16 is SiO2 mesoporous material were synthesized under
acidic condition at 40oC with F127 poly (ethyleneoxide) - poly (propyleneoxide) - poly
(ethyleneoxide)triblock copolymer (EO106PO70EO106) as the template and TEOS (tetraethyl
octosilicat: (C2H5O)4Si ) as inorganic silica source to form
membranes and capillary systems. However, the catalyst fixed on the surface of SBA-16 is mainly
based on the adsorption mechanism. During the reaction, the catalyst may be released to the
environment outside. To increase the strength of the link between the catalyst and the
carrier (SBA-16), we fitted the surface organic functional group carriers to
create inorganic materials-organic hybrid.
Key words: SBA-16, SiO2, mesoporous materials, hybrid mesoporous materials, indirect method.
Ngày nhận bài:9/4/2012, ngày phản biện: 23/5/2012, ngày duyệt đăng:
*
Tel: 0914 833436, Email: honghoakhtn@gmail.com
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- brief_33521_37340_10920129012so593_split_10_3193_2052279.pdf