Theo định hướng phát triển thuỷ lợi đến năm 2020 là lấy tập trung nâng cao hiệu quả
sử dụng nước làm mục tiêu chính, ưu tiên xây dựng các hệ thống thủy lợi tiết kiệm
nước, phát triển các tổ chức dùng nước của nông dân, của cộng đồng địa phương và
của nhà đầu tư để bảo vệ, quản lý vận hành hiệu quả hệ thống thuỷ lợi và tiết kiệm
nguồn nước, nâng hiệu suất sử dụng công suất thiết kế lên trên 90%. Tăng dần mức
đảm bảo phục vụ cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ
v.v. Tăng năng lực phòng chống thiên tai, đảm bảo nhu cầu cấp thoát nước cho sản
xuất nông nghiệp, dân sinh và các ngành kinh tế. Cấp đủ nguồn nước để khai thác 4,5
triệu ha đất cây trồng hàng năm, tiến tới bảo đảm tưới chủ động cho 100% diện tích
lúa 2 vụ (3,32 triệu ha). Nâng dần tần suất đảm bảo tưới lên 85%. Mở rộng diện tích
tưới cho rau màu, cây công nghiệp. Nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ
về nghiên cứu đánh giá nguồn nước, quy hoạch, thiết kế, xây dựng thuỷ lợi và quản lý
khai thác công trình thuỷ lợi đạt mức trên trung bình của châu Á. Với định hướng phát
triển thủy lợi nêu trên, đứng trước sự nghiệp của doanh nghiệp và đòi hỏi của người
lao động thì HEC cần phải quyết tâm vững bước tiến lên. Trước hết là phải đào tạo,
củng cố lại nguồn nhân lực xây dựng đội ngũ kỹ sư chuyên sâu trong các lĩnh vực kỹ
thuật, nghiên cứu mở rộng ngành nghề kinh doanh, mở rộng thị trường, phát triển sản
xuất. Để đảm bảo ổn định, phát triển bền vững của HEC, thì không thể thiếu nhiệm vụ
ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh
11 trang |
Chia sẻ: nguyenlam99 | Lượt xem: 778 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổng công ty tưvấn xây dựng thủy lợi Việt Nam - Công ty cổ phần 60 năm xây dựng và phát triển, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TỔNG CÔNG TY TƯ VẤN XÂY DỰNG THỦY LỢI VIỆT NAM - CTCP
60 NĂM XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN
Võ Văn Lung
Thạc sỹ - Chủ tịch HĐQT - Phó Tổng Giám đốc TCT
1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LỊCH SỬ SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Tổng công ty Tư vấn xây dựng thuỷ lợi Việt Nam - CTCP (HEC), tiền thân là Phòng
thiết kế đo đạc thuộc Nha Thủy lợi Bộ Giao thông Công chính, được thành lập ngày 06
tháng 4 năm 1955. Thực hiện Quyết định số 3075/QĐ-BNN-ĐMDN ngày 15 tháng 10
năm 2007 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, HEC đã chuyển sang hoạt
động theo mô hình Công ty cổ phần. Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, cùng với
sự thay đổi và phù hợp với yêu cầu phát triển, hội nhập của đất nước, HEC đã chuyển
qua nhiều tên gọi khác nhau: Phòng thiết kế đo đạc; Cục Thiết kế thuỷ lợi, sau đó gọi
là Cục Khảo sát thiết kế thuỷ lợi; Viện Thiết kế thuỷ lợi -Thuỷ điện; Viện Khảo sát
thiết kế thuỷ lợi; Viện Khảo sát thiết kế thuỷ lợi Quốc gia; Công ty Khảo sát Thiết kế
Thuỷ lợi I; Công ty Tư vấn xây dựng Thuỷ lợi I; Công ty Tư vấn xây dựng thủy lợi
Việt Nam hiện nay là Tổng công ty Tư vấn xây dựng thủy lợi Việt Nam - CTCP. Kể từ
khi thành lập ngành thuỷ lợi trong Bộ Giao thông Công chính (1945 - 1955), qua các
giai đoạn trực thuộc Bộ Thuỷ lợi Điện lực, Bộ Thuỷ lợi - Kiến trúc đến Bộ Thuỷ lợi
(1958 - 1995), rồi Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Mặc dù tổ chức có thay
đổi, tên gọi có khác nhau nhưng bất kỳ ở đâu và trong thời gian nào, các nhiệm vụ
thuỷ lợi vẫn luôn được toàn thể người lao động HEC phấn đấu phát triển vì mục tiêu
hiện đại hóa ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, vì sự
phát triển bền vững của đất nước.
Trải qua 60 năm xây dựng và phát triển, với bao thế hệ đã qua, HEC đã khảo sát thiết
kế trên 800 công trình thuỷ lợi vừa và lớn góp phần đáng kể vào công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Ngày nay, thương hiệu HEC đã trở nên quen thuộc
với các chủ đầu tư, nhà điều hành và các nhà thầu hoạt động trong lĩnh xây dựng các
công trình thủy lợi. Điều này được thể hiện qua sự hiện diện của đội ngũ chuyên
gia HEC ở hầu hết các công trình thủy lợi, các dự án trọng điểm của Nhà nước.
Nhìn lại những năm đầu, sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, hoà
bình lập lại trên miền Bắc, sự nghiệp khôi phục và chuẩn bị phát triển thuỷ lợi trên quy
mô rộng lớn đã bắt đầu kể từ ngày 06-4-1955 khi Chính phủ lập Nha Thuỷ lợi thuộc
Bộ Giao thông công chính và tiếp đó ngày 09-9-1955 Bộ Thuỷ lợi và Kiến trúc ra đời.
Trong thời cơ lịch sử đó, Cục Thiết kế Thuỷ lợi được thành lập theo Nghị định số
922/TTg ngày 09-6-1956 do Phó Thủ tướng Phan Kế Toại ký bổ nhiệm kỹ sư Trần
Ngọc Hậu làm Giám đốc và kỹ sư Đào Trọng Kim làm Phó Giám đốc, đánh dấu một
thời kỳ phát triển mới của công tác Khảo sát và Thiết kế Thuỷ lợi. Ngay từ những
ngày đầu thành lập dưới sự chỉ đạo của Bộ các kỹ sư của HEC đã tập trung nghiên cứu
các giải pháp để hạn chế lũ cho Hà Nội và vùng đồng bằng Bắc Bộ. Một số các công
trình Thuỷ lợi từ nhỏ, vừa, đến lớn như các hồ Cấm Sơn, Núi Cốc v.v; các hệ thống
trạm bơm ở Bắc Nam Hà; Bắc, Nam Thái Bình v.v được xây dựng. Thành quả thuỷ
lợi trong những năm này đã tạo cơ sở cho ổn định sản xuất vụ mùa, mở ra vụ Chiêm -
Xuân còn hạn hẹp, bấp bênh trở thành vụ sản xuất chính có năng suất cao. Nhờ có thuỷ
lợi cùng các biện pháp nông nghiệp đã tạo ra những cánh đồng 5 tấn trên diện rộng từ
đồng bằng đến trung du, miền núi, nhiều vùng ở tình trạng chiêm khê mùa thối đã trở
thành vùng tưới tiêu chủ động năng suất cây trồng tăng cao, góp phần nâng cao điều
kiện sống cho nhân dân khu vực hưởng lợi.
HEC là doanh nghiệp tư vấn khảo sát, thiết kế hàng đầu trong lĩnh vực phát triển thuỷ
lợi ở Việt Nam, nơi quy tụ được một đội ngũ lớn các chuyên gia có kinh nghiệm, trình
độ kỹ thuật cao và chuyên sâu trong ngành thủy lợi.
Ngoài ra, HEC còn khảo sát thiết kế nhiều dự án thuỷ lợi, thuỷ điện ở Lào, Campuchia
và gửi chuyên gia sang làm việc ở các nước Châu Phi, Lào. Thông qua việc hợp tác
với các đối tác có tên tuổi trên thế giới như: NIPPON KOEL, BCEOM, LUIS
BERGER, KOLON, WB, ADB, v.v HEC đã dần tiếp cận được các công nghệ tiên
tiến và hiện đại của Thế giới. Với kiến thức chuyên sâu, quy trình và trang thiết bị hiện
đại, HEC luôn tin tưởng vào khả năng đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng
dịch vụ tư vấn. Với định hướng phát triển của HEC trong lĩnh vực thủy lợi, HEC đã
chủ động xây dựng mục tiêu phát triển nhằm đáp ứng hiệu quả nhất yêu cầu ngày càng
cao của khách hàng và phấn đấu trở thành một doanh nghiệp tư vấn tầm cỡ trong khu
vực và Thế giới. HEC khẳng định một cách chắc chắn rằng tất cả sản phẩm do HEC
cung cấp cho khách hàng đều đạt chỉ tiêu chất lượng đã đề ra với phương châm:
“Chất lượng sản phẩm là mục tiêu hàng đầu và là thách thức lớn nhất đối với
Tổng công ty Tư vấn Xây dựng Thủy lợi Việt Nam - CTCP”.
2. NHỮNG THÀNH TỰU VÀ TRƯỞNG THÀNH
Kể từ khi thành lập đến nay, HEC luôn đảm bảo và kiểm soát tốt chất lượng sản phẩm
tư vấn của mình. Và, nhất là từ năm 2001 trở lại đây hệ thống quản lý chất lượng theo
ISO 9001 : 2000, năm 2009 nâng cấp thành ISO 9001 : 2008 thì sản phẩm tư vấn của
mình càng được những người lao động của HEC quan tâm thực hiện. Nhờ vậy, trải qua
các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt, phức tạp, diễn biến mưa lũ ngày một cực đoan
nhưng những công trình do HEC thiết kế vẫn được đảm bảo vận hành an toàn cùng
năm tháng. Ngoài tư vấn đảm bảo công năng, HEC đã dần kết hợp đảm bảo cả công
năng lẫn cảnh quan tạo ra diện mạo mới bền đẹp cho công trình.
2.1 Những công trình cấp nước tưới, tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp và dân sinh
kinh tế
Để đạt được mục tiêu trên, một loạt các công trình thủy lợi lớn, vừa và nhỏ đã được
khảo sát thiết kế và xây dựng phát huy hiệu quả to lớn. Một số các công trình thủy lợi
tiêu biểu do HEC thiết kế đã làm thay đổi bộ mặt của vùng hưởng lợi, đẩy lùi nghèo
đói góp phần vào công việc hiện đại hóa nông nhiệp và phát triển nông thôn, có thể kể
ra các công trình tiêu biểu như: Hệ thống đại thủy lợi Bắc Hưng Hải, Hệ thống thủy lợi
Cầu Sơn - Cấm Sơn, Hồ và Thủy điện Kẻ Gỗ, Hệ thống thủy lợi Yên Lập, Tiêu úng
Vân Đình, Hồ Núi Cốc, Hệ thống Thuỷ lợi Thạch Nham, Tân Giang, Cam Ranh, Phú
Ninh, Sông Quao, Ayun Hạ v.v Đặc biệt, trong những năm gần đây một loạt các
công trình lớn tưới cho hàng chục ngàn ha, cung cấp nước sinh hoạt và công nghiệp đã
và đang được khảo sát thiết kế và xây dựng, điển hình như: Hồ Cửa Đạt (Thanh Hóa),
Hồ Định Bình (Bình Định), Hồ Tả Trạch (Thừa Thiên Huế), Dự án Ngàn Trươi - Cẩm
Trang (Hà Tĩnh), v.v Dưới đây là hình ảnh một số hồ chứa nước lớn điển hình phục
vụ đa mục tiêu.
Hồ chứa nước Tân Giang - Ninh Thuận
Tưới: 3000ha; cấp nước sinh hoạt, chậm lũ
Hồ chứa nước Cam Ranh - Khánh Hòa
Tưới: 2300ha; cấp nước sinh hoạt cho
70.000 hộ dân
Hồ chứa nước Easuop Thượng - ĐăkLăk
Tưới: 9455ha; cấp nước sinh hoạt, phục vụ
chăn nuôi, cải tạo khí hậu; phát điện
N=1600KW
Hồ chứa nước Định Bình - Bình Định
Tưới: 27.660ha; giảm lũ hạ du;
Nuôi trồng thủy sản; phát điện;
tạo nguồn: 3m3/s
Hồ chứa nước Cửa Đạt - Thanh Hóa
Giảm lũ với tần suất 0,6%;
Tưới: 86.862ha; phát điện 97MW ;
Sinh hoạt, công nghiệp: 7,715m3/s
Hồ chứa nước Tả Trạch - Thừa Thiên Huế
Tưới: 25.900ha; chống lũ, đẩy mặn; phát
điện 16,5MW; cấp nguồn nước cho bắc,
nam Sông Hương
2.2 Đê điều - Phòng chống giảm nhẹ thiên tai
Là nước thuộc khu vực có điều kiện khí hậu nhiệt đới gió mùa, có lượng mưa bình quân
năm khá cao và tỷ lệ vùng núi chiếm tới ¾ diện tích lãnh thổ. Với đặc điểm về hình thái
khí hậu và địa hình nêu trên nên hình thành dòng chảy cũng như thiên nhiên phức tạp từ
khi hình thành đồng bằng châu thổ. Để bảo vệ cuộc sống và điều kiện canh tác, ông cha ta
đã đắp bồi, hình thành nên những tuyến đê. Qua hàng ngàn năm, nước ta đã xây dựng và
củng cố được gần 6.000 km đê sông, trên 2.000 km đê biển để chống lũ lụt cho lưu vực
sông Hồng, sông Mã, sông Cả. Hệ thống bờ bao hơn 8.000 km ở đồng bằng Sông Cửu
Long, chống lũ đầu mùa bảo vệ lúa hè thu cùng với hệ thống thoát lũ ra biển Tây đã đưa
đồng bằng Sông Cửu Long từ một vụ lúa bấp bênh lên hai vụ lúa đông xuân và hè thu có
năng suất cao. Trong đó HEC đã tham gia thiết kế, cải tạo nâng cấp nhiều hệ thống đê
sông, đê biển điển hình như đê Hà Nội, đê sông Mã, đê Sông Thái Bình v.v... Đặc biệt đối
với tuyến đê trên địa bàn nội đô Hà Nội, nhờ có đề xuất giải pháp xén trạch, chuyển thành
đê bê tông đã biến hơn 6km đê nội thành vốn ô nhiễm, mất mỹ quan, giao thông chật hẹp
chuyển thành con đường gốm sứ sạch đẹp tạo cơ sở hạ tầng giao thông cho thủ đô.
Đê Hà Nội
Bảo vệ 335.000 ha đất tự nhiên và 4
triệu hộ dân
Kè Phú Gia - Hà Nội
Bảo vệ chống sạt lở bờ
2.3 Tham gia phát triển thuỷ điện
Tiền thân là Viện Khảo sát thiết kế Thuỷ lợi - Thuỷ điện. HEC đã tham gia thiết kế
nhiều công trình thuỷ điện như: Thác Bà, Khe Diên, Hoà Bình, Kè Gỗ, Đá Bàn, Thác
Bay, Định Bình, Cửa Đạt, Nước Trong v.v...
Nhà máy thủy điện Thác Bà - Yên Bái
Phát điện 108MW, điều tiết lũ
Đập bê tông và Nhà máy thủy điện
Nước Trong - Quảng Ngãi
Phát điện 16,5MW
Thủy điện Cửa Đạt - Thanh Hóa
Phát điện 97 MW
Thủy điện Định Bình – Bình Định
Phát điện 6,60MW
2.4 Phát triển khoa học kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực
Ngoài việc chủ trì xây dựng các quy trình quy phạm, Tiêu chuẩn Quốc gia, tiêu
chuẩn ngành. HEC đã không ngừng hoàn thiện trong quá trình phát triển, tự vươn
lên, tự đổi mới, theo đó nhiều thành tựu nghiên cứu công nghệ mới được ứng
dụng vào lĩnh vực tư vấn thiết kế và thực tế xây dựng như: Áp dụng công nghệ
đập hỗn hợp nhiều khối; công nghệ đập đá đắp chống thấm bằng bản mặt BTCT;
công nghệ đập bê tông trọng lực truyền thống; công nghệ đập bê tông đầm lăn
RCC; công nghệ chống thấm bằng tường lõi BTCT cho đập vật liệu địa phương;
công nghệ Xi phông lửng; công nghệ tràn băng qua kênh; Biện pháp thi công kênh
qua vùng đất cao lanh; áp dụng cửa van quạt điều khiển tự động vào đập dâng
nước và mới đây là áp dụng đập phím đàn Piano kết hợp với việc sử dụng bê tông
tự đầm.
2.4.1 Công nghệ đập hỗn hợp nhiều khối
Đập đất với chiều cao không lớn có yêu cầu điều kiện địa hình địa chất không cao, dễ
dàng cơ giới hoá, kỹ thuật thi công đơn giản, giá thành thấp, nên đã được xây dựng
phổ biến. Qua thống kê thấy hình thức mặt cắt đập đã xây dựng rất phong phú: đập
đồng chất, đập có tường nghiêng sân phủ chân khay, đập có tường tâm v.v... Trong các
năm gần đây, ở khu vực miền Trung đã xuất hiện thêm kết cấu đập hỗn hợp nhiều khối
có hệ thống tiêu nước kiểu ống khói kết hợp thảm tiêu nước nằm ngang. Kết cấu đập
này ra đời sau khi có hàng loạt các sự cố đập ở khu vực, điển hình là: Đập Suối Trầu
(3 lần), Suối Hành và Am Chúa v.v... Nguyên nhân của các sự cố được xác định chủ
yếu do điều kiện địa chất, vật liệu đất đắp đập khu vực có những tính chất cơ lý đặc
biệt: trương nở, co ngót, tan rã, lún ướt và sự phân bố rất không đồng đều của vật liệu
đắp theo diện và độ sâu.
Đập hỗn hợp nhiều khối sử dụng được nhiều loại vật liệu, trong đó có cả hỗn hợp đất
đá đào móng công trình đầu mối, nhờ đó mà giảm bớt được việc khai thác vật liệu tại
mỏ. Với việc phân vùng vật liệu hợp lý sẽ phát huy các ưu điểm, hạn chế tối đa các
nhược điểm, giải quyết các tồn tại về tính chất đặc biệt đất đắp đập trong khu vực:
trương nở, co ngót, tan rã, lún ướt. Theo đó, điều kiện làm việc của đập (thấm, trạng
thái ứng suất, ổn định cục bộ, ổn định tổng thể v.v...) được cải thiện, độ ổn định và tuổi
thọ công trình đuợc nâng cao. Cho đến nay, kết cấu đập này đã trở thành một xu thế
lựa chọn mặt cắt đập trong khu vực. Các đập đã xây dựng theo loại hình này đã chứng
tỏ được tính an toàn, kinh tế so với các loại đập đã xây dựng trước đây.
2.4.2 Công nghệ đập đá đắp chống thấm bằng bản mặt bê tông (CFRD)
Trước đây đối với các đập có chiều cao lớn được xây dựng trên nền địa chất là đá lại ở
vùng sẵn vật liệu đất đá, thường được lựa chọn loại đập đá đổ lõi giữa chống thấm,
điển hình của loại đập này là: Hoà Bình, Đại Ninh, Hàm Thuận Đa My, Yaly. Đập đá
đổ lõi giữa có một số nhược điểm: Khối lượng lớn do yêu cầu mái xoải hơn, tính ổn
định và biến dạng phức tạp do chịu tác dụng của áp lực lỗ rỗng trong khối lõi, đường
bão hoà trong đập cao; không có khả năng cho nước tràn qua trong thi công dẫn đến
yêu cầu cho chi phí dẫn dòng cao, tốc độ thi công bị hạn chế trong mùa mưa, từ đó dẫn
đến giá thành đập cao, thời gian thi công thường kéo dài và bị động. Xu thế trong các
thập kỷ gần đây loại hình đập CFRD đã gần như thay thế loại hình đập đá đắp lõi giữa
chống thấm.
Nhiều quốc gia đã nghiên cứu và áp dụng loại đập này, trong đó là Trung Quốc là
nước đi đầu trong việc phát triển loại đập CFRD và đạt nhiều thành tựu trong kỹ thuật
xây dựng. Đập CFRD cấu tạo từ đá đắp là chính, chống thấm bằng bản mặt BTCT nằm
ở mái thượng lưu. Do chống thấm bằng bản mặt bê tông nên hầu như hạn chế được
dòng thấm đi qua; thân đập là đá đắp nên đường bão hòa thấp, không có áp lực nước lỗ
rỗng - một yếu tố làm giảm sức kháng cắt khối đập - vì vậy đập có độ ổn định cao hơn,
mái dốc lớn, tiết kiệm được vật liệu xây dựng, có ý nghĩa rất lớn về mặt giảm chi phí
xây dựng, thời gian thi công ngắn, giảm nhẹ được cường độ thi công công trình. Khi
động đất xẩy ra, do đại bộ phận đập đều khô nên khả năng kháng chấn tốt hơn. Trước
khi xây dựng công trình đầu mối Thuỷ Lợi Cửa Đạt, ở Việt Nam đã xây dựng 2 công
trình Thủy điện Tuyên Quang và thủy điện Quảng Trị đều là công trình do Bộ Năng
lượng (nay là Bộ Công Thương) quản lý. Công trình đầu mối Thuỷ Lợi Cửa Đạt là
công trình đầu tiên của ngành Thuỷ lợi được áp dụng công nghệ này. Đập chính có
chiều cao lớn nhất 118,75m, đây là đập có chiều cao lớn nhất nước ta hiện nay. Trong
quá trình nghiên cứu thiết kế HEC đã có sự hợp tác với các chuyên gia của Bộ Nông
Nghiệp & PTNT, Trường Đại Học Thuỷ Lợi, Viện KHTL cùng với các chuyên gia
Trung Quốc, Canada, Pháp v.v... Trong quá trình xây dựng, có xẩy ra các tình huống
phức tạp, nhưng với sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ kỹ sư HEC, sự cộng tác tư vấn của
các chuyên gia trong và ngoài nước nên đã giải quyết tốt các tình huống xẩy ra. Qua
đây cũng đã rút ra được nhiều bài học và kinh nghiệm, cũng như các ứng dụng khoa
học, kỹ thuật tiên tiến mới để áp dụng cho các công trình kế tiếp như: giải pháp đắp cát
mịn phía trên lớp bản mặt bê tông, giải pháp xử lý thoát không, bố trí hai lớp cốt thép,
sử dụng bọt xốp ở khe co giãn v.v
2.4.3 Công nghệ đập bê tông trọng lực truyền thống
Cùng với các loại đập vật liệu địa phương, đập bê tông cũng được xây dựng để ngăn
sông suối tạo hồ chứa nước, khi điều kiện tự nhiên thích hợp và đảm bảo tính kinh tế.
Loại hình đập này đã được áp dụng từ lâu ở các nước trên Thế giới. Ở nước ta, công
nghệ thiết kế và thi công đập bê tông trọng lực tạo hồ chứa vẫn còn nhiều mới mẻ.
Năm 1993, Bộ Thuỷ lợi chỉ đạo HEC tiến hành khảo sát lập Luận chứng Kinh tế Kỹ
Thuật công trình thuỷ lợi Tân Giang, trong đó phương án công trình đầu mối được Bộ
Thuỷ Lợi phê duyệt là đập bê tông trọng lực.
Trong giai đoạn TKKT, HEC đã nghiên cứu 2 phương án đập bê tông: Bê tông đầm
lăn và bê tông truyền thống và Bộ đã duyệt theo phương án bê tông đầm lăn. Tuy
nhiên, do có khó khăn về vật liệu độn, giá thành tro bay đưa đến tuyến xây dựng
không rẻ hơn giá xi măng, điều kiện cung ứng và chất lượng tro bay còn nhiều bất cập
nên Bộ đã cho phép thay đổi hình thức kết cấu đập Tân Giang từ phương án bê tông
đầm lăn sang bê tông truyền thống. Trong quá trình thiết kế, ngoài các vấn đề về
nghiên cứu bố trí tổng thể, tối ưu mặt cắt, xử lý nền, dẫn dòng thi công, phân khoảnh
đổ v.v lần đầu tiên đã nghiên cứu áp dụng cấp phối bê tông thường có trộn tro bay
để giảm nhiệt thuỷ hoá, phụ gia chống thấm và nhiều phụ gia khác phục vụ chặn dòng
vào tháng 9 năm 2001. Năm 2003, đập đã trải qua thử thách mùa lũ đầu tiên an toàn.
Như vậy, đập bê tông trọng lực Tân Giang là đập được xây dựng lần đầu tiên ở Việt
Nam hoàn toàn bằng công nghệ thiết kế, thi công trong nước và là đập bê tông cao
nhất thời điểm bấy giờ. Có thể đánh giá đây là một bước đột phá của ngành Thuỷ Lợi
Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực nghiên cứu thiết kế. Sự ra đời đập bê tông trọng lực
Tân Giang là tiền đề cho sự ra đời của nhiều đập bê tông trọng lực truyền thống và
RCC tiếp theo trong ngành như: đập bê tông Sông Lòng Sông (45m), đập bê tông Định
Bình (56 m), Nước Trong (72,5 m) và nhiều đập khác của ngành điện lực.
2.4.4 Công nghệ đập bê tông trọng lực đầm lăn RCC
Đập bê tông đầm lăn (RCC) là loại đập kết hợp được ưu điểm về kết cấu của đập bê
tông truyền thống và ưu điểm về công nghệ thi công của đập đất. Đập RCC có ưu điểm
thi công nhanh, công trình đưa vào khai thác sớm, lượng dùng xi măng thấp hơn so với
đập bê tông truyền thống, nhiệt độ trong khối đập cũng được giảm nhỏ. Vì vậy, trên cơ
sở thành tựu công nghệ đập bê tông truyền thống đã đạt được, HEC đã chủ trương ứng
dụng rộng rãi giải pháp công nghệ thiết kế, thi công đập bê tông đầm lăn vào thiết kế
đập. Đập bê tông được áp dụng công nghệ RCC đầu tiên trong ngành thủy lợi ở Việt
Nam là đập Định Bình, Nước Trong tương lai là đập Tân Mỹ, Sông Chò 1, Đồng Điền
cũng sẽ kiến nghị áp dụng công nghệ này. Kể từ khi thiết kế đập RCC đầu tiên là đập
Định Bình, đến đập Nước Trong mặt cắt đập đã được thay đổi nhiều về phân vùng vật
liệu cũng như biện pháp thi công trên cơ sở tối ưu hóa. Và, điều căn bản hơn là HEC
đã sử dụng được phần mềm Abaqus - Mỹ để tính toán, phân tích nhiệt trong quá trình
thi công và vận hành. Nhờ vậy, đã chủ động trong việc bố trí phân vùng vật liệu cũng
như khống chế chiều cao lên đập.
2.4.5 Công nghệ chống thấm bằng tường lõi BTCT cho đập vật liệu địa phương
Đập vật liệu địa phương tuy có ưu điểm giá thành hạ, yêu cầu về tình hình địa hình,
địa chất nền móng không cao, song không phải tại vị trí dự kiến xây dựng công trình
nào cũng có đầy đủ vật liệu đất đắp đập, đặc biệt vật liệu đắp khối chống thấm, đập
Tràng Vinh (Quảng Ninh) là một ví dụ điển hình. Để khắc phục sự khan hiếm vật liệu
đất đắp khối chống thấm, HEC đã nghiên cứu ứng dụng công nghệ chống thấm bằng
tường lõi BTCT trong đập. Đập có chiều cao lớn nhất là 30m, năm 2003 hoàn thành đã
đưa vào khai thác sử dụng an toàn, đây là đập có tường lõi BTCT đầu tiên ở Việt Nam.
2.4.6 Công nghệ đập tràn kiểu phím đàn Piano
Đối với khu tưới Văn Phong thuộc dự án hồ chứa nước Định Bình (Bình Định) đã có
nhiều giải pháp, hình thức kết cấu đập. Tuy nhiên, nếu vẫn áp dụng các dạng đập dâng
truyền thống thì phải xây lắp 20 cửa van, nhưng vẫn bị ngập một đoạn đường Quốc lộ
19 và phải di dân tương đối nhiều. Đó là chưa kể đến ảnh hưởng khi vận hành của các
cửa van khi mưa bão bị mất điện. Đây chính là động lực để các kỹ sư HEC nghiên cứu
áp dụng hình thức tràn phím đàn Piano để nâng cao năng lực xả qua tràn và giảm qui
mô cũng như số lượng cửa van (từ 20 cửa xuống 10 cửa), đảm bảo công trình vận hành
an toàn, hiệu quả, tiết kiệm được kinh phí xây dựng và kinh phí vận hành công trình.
Không những thế cũng trong công trình này, HEC đã cùng các bên có liên quan đã áp
dụng thành công công nghệ bê tông tự đầm, nhờ vậy công trình thi công đảm bảo chất
lượng và mỹ quan với chi phí thấp hơn. Hiện nay, công trình đã được xây dựng xong
với hình thức đẹp và bề thế, tạo dựng diện mạo mới cho vùng quê hương người anh
hùng dân tộc Quang Trung.
2.4.7 Nghiên cứu ứng dụng các phần mềm tiên tiến
Nhận thức được rằng trong thời đại bùng nổ tin học và ứng dụng công nghệ hiện nay,
muốn cạnh tranh và hội nhập quốc tế thì HEC phải tự đào tạo và trang bị các phần
mềm chuyên dụng. Nhờ việc trang bị và sử dụng thuần thục các phầm mềm này đã
góp phần tạo dựng nên thương hiệu của HEC.
a) Geostudio 2007 - Canada: Tính toán thấm, ứng suất cho đập đất và đập bê tông, tính
toán lún cho đập đất trong quá trình thi công và vận hành để xác định chiều cao phòng
lún thích hợp, tính toán ổn định cho đập đất, mái dốc và ổn định nền móng các công
trình thủy lợi.
b) SEEP 3D - Canada: Tính toán thấm không gian 3D, dùng cho các công trình có tính
phức tạp về điện kiện thấm như các đoạn mà địa chất nền biến đổi lớn và chiều cao
đập thay đổi lớn theo chiều dọc đập (đoạn vai đập và các công trình có độ dốc vai
đập lớn).
c) Quake - Canada: Tính toán ứng suất của công trình chịu động đất và tính toán hóa lỏng
của đập đất, các kết quả ứng suất được chuyển sang Modun Slope để đánh giá hệ số ổn
định của công trình.
d) SAP 2000 - Mỹ: Tính toán kết cấu cho các công trình để kiểm tra điều kiện ổn định và
bố trí thép cho kết cấu.
e) Abaqus - Mỹ: Phân tích ứng suất của tai van (gối cửa van cung) và ứng suất trong đập
bê tông bằng mô hình không gian 3D.
f) Phase II - Canada: Tính toán tình hình ứng suất phân bổ xung quanh tuy nen khi đào và
khi đã gia cố, tính toán xác định kết cấu chống đỡ và kết cấu gia cố áo tuy nen.
g) Plaxis - Hà Lan: Tính toán ứng suất, biến dạng, ổn định của công trình, mái đào đắp, đập
trên nền đất theo mô hình vật liệu đàn hồi tuyến tính và đàn hồi không tuyến tính có xét
đến sự tương tác giữa công trình và đất đá xung quanh công trình.
h) Abaqus - Mỹ: Tính toán mô phỏng bài toán nhiệt thủy hóa của bê tông có xét đến quá
trình thi công và ảnh hưởng của môi trường xung quanh trong quá trình thi công và
vận hành. Từ đó tính toán xác định phân bố ứng suất của bê tông trong giai đoạn thi
công và vận hành và đề ra biện pháp khống chế nhiệt cho bê tông.
3. NHỮNG TRĂN TRỞ
Trải qua những thời kỳ hoàng kim về việc tập trung đầu tư phát triển thủy lợi, cho đến
nay các công trình thủy lợi, thủy điện lớn đã cơ bản được xây dựng hoàn chỉnh. Hiện
tại, chỉ còn lại các dự án có quy mô nhỏ và vừa, lại trong bối cảnh cắt giảm đầu tư
công nên nguồn kinh phí đầu tư cho thủy lợi không được dồi dào. Hơn nữa, các đơn vị
tư vấn được thành lập nhiều nên tạo ra sự cạnh tranh quá khốc liệt. Vì thế, nguồn công
việc mà HEC tiếp cận được ngày càng khó khăn. Trong khi đó lực lượng lao động lành
nghề được đào tạo bài bản, giầu kinh nghiệm đã dần về nghỉ theo chế độ. Lực lượng
kỹ sư mới được tiếp nhận tuy có trình độ tin học, ngoại ngữ khá nhưng chưa đạt độ
chín về kinh nghiệm, lực lượng kỹ sư chuyên sâu để đáp ứng trình độ hội nhập quốc tế
chưa đạt được yêu cầu như kỳ vọng. Với nguồn công việc giảm, thu nhập thực tế của
người lao động có xu thế chưa ổn định, thậm chí giảm thấp. Từ đó dẫn đến tình trạng
chẩy máu chất xám chưa thể hạn chế. Mặt khác, khi nguồn công việc trong nước giảm
thấp, HEC có thể phải cơ cấu, xắp xếp lại nguồn nhân lực thì đời sống những kỹ sự
tâm huyết, gắn bó với HEC, với sự nghiệp tư vấn thủy lợi sẽ ra sao? Thương hiệu HEC
được bồi đắp bởi bao thế hệ người lao động trong suốt 60 năm qua sẽ như thế nào?
Đây là những trăn trở, day dứt của những người lãnh đạo và những người có tâm huyết
với HEC hiện nay.
4. VƯỢT QUA THỬ THÁCH, VỮNG BƯỚC TIẾN LÊN
Theo định hướng phát triển thuỷ lợi đến năm 2020 là lấy tập trung nâng cao hiệu quả
sử dụng nước làm mục tiêu chính, ưu tiên xây dựng các hệ thống thủy lợi tiết kiệm
nước, phát triển các tổ chức dùng nước của nông dân, của cộng đồng địa phương và
của nhà đầu tư để bảo vệ, quản lý vận hành hiệu quả hệ thống thuỷ lợi và tiết kiệm
nguồn nước, nâng hiệu suất sử dụng công suất thiết kế lên trên 90%. Tăng dần mức
đảm bảo phục vụ cấp nước cho sinh hoạt, công nghiệp, nông nghiệp, du lịch, dịch vụ
v.v.... Tăng năng lực phòng chống thiên tai, đảm bảo nhu cầu cấp thoát nước cho sản
xuất nông nghiệp, dân sinh và các ngành kinh tế. Cấp đủ nguồn nước để khai thác 4,5
triệu ha đất cây trồng hàng năm, tiến tới bảo đảm tưới chủ động cho 100% diện tích
lúa 2 vụ (3,32 triệu ha). Nâng dần tần suất đảm bảo tưới lên 85%. Mở rộng diện tích
tưới cho rau màu, cây công nghiệp. Nâng cao năng lực và trình độ khoa học công nghệ
về nghiên cứu đánh giá nguồn nước, quy hoạch, thiết kế, xây dựng thuỷ lợi và quản lý
khai thác công trình thuỷ lợi đạt mức trên trung bình của châu Á. Với định hướng phát
triển thủy lợi nêu trên, đứng trước sự nghiệp của doanh nghiệp và đòi hỏi của người
lao động thì HEC cần phải quyết tâm vững bước tiến lên. Trước hết là phải đào tạo,
củng cố lại nguồn nhân lực xây dựng đội ngũ kỹ sư chuyên sâu trong các lĩnh vực kỹ
thuật, nghiên cứu mở rộng ngành nghề kinh doanh, mở rộng thị trường, phát triển sản
xuất. Để đảm bảo ổn định, phát triển bền vững của HEC, thì không thể thiếu nhiệm vụ
ổn định và phát triển sản xuất kinh doanh. Để tạo đà cho sản xuất, kinh doanh phát
triển thì cần có sự đột phá các khâu chính như sau:
1) Về việc làm: thay đổi tư duy, phương thức tiếp cận các chủ đầu tư để tìm kiếm việc
làm, mở rộng cập nhật thông tin thị trường để được đấu thầu và thắng thầu;
2) Về tổ chức thực hiện: Nâng cao hơn nữa về chất lượng khảo sát thiết kế, thông qua
việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trang bị các phần mềm chuyên dụng, trang
thiết bị bổ trợ từ đó góp phần củng cố, nâng cao uy tín và thương hiệu HEC;
3) Nghiệm thu, thanh toán: Tăng cường khâu nghiệm thu, thanh toán với các chủ đầu
tư, từ đó tạo nguồn để chi trả chi phí, đảm bảo hài hòa lợi ích người lao động, nhà đầu
tư và tăng cường tích lũy vốn nhằm tạo sự ổn định tư tưởng và nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực.
Ba khâu đột phá này củng cố và hỗ trợ lẫn nhau tạo đà cho nhau phát triển từ đó đưa
HEC vươn lên.
Xây dựng bộ máy từ Tổng công ty đến các đơn vị theo hướng tinh gọn, năng động và
chuyên nghiệp. Dựa trên cơ sở mô hình sản xuất hiện nay và chiến lược phát triển của
ngành cũng như nhu cầu của xã hội để định hướng hoạt động, cơ cấu lại bộ máy tổ
chức, nhân sự cho phù hợp.
Với truyền thống 60 năm qua, cán bộ người lao động của HEC sẽ quyết tâm phấn đấu
để tiếp bước những thế hệ đi trước làm tốt hơn nữa sự nghiệp xây dựng và phát triển,
tạo dựng thế và lực mới đưa HEC ngày càng lớn mạnh góp phần vào sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Nội san của HEC các năm 2005 đến 2008.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- hec_60_nam_7461.pdf