Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay

LỜI NÓI ĐẦU Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan nhà nước và là gốc của chính quyền nhân dân. Các cơ quan nhà nước khác đều do Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành lập. Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực trên phạm vi toàn quốc, Hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương mình. Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương (Điều 1 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). "

doc11 trang | Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2040 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tổ chức và hoạt động của hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tổ chức Và hoạt động của Hội đồng nhân dân A. LỜI NÓI ĐẦU Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân dân địa phương, là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội đồng nhân dân cùng với Quốc hội hợp thành hệ thống cơ quan nhà nước và là gốc của chính quyền nhân dân. Các cơ quan nhà nước khác đều do Quốc hội và Hội đồng nhân dân thành lập. Khác với Quốc hội là cơ quan thay mặt toàn thể nhân dân cả nước, sử dụng quyền lực trên phạm vi toàn quốc, Hội đồng nhân dân thay mặt nhân dân địa phương sử dụng quyền lực nhà nước trong phạm vi địa phương mình.  Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương, biện pháp quan trọng để phát huy tiềm năng của địa phương, xây dựng và phát triển địa phương về kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, không ngừng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa phương đối với cả nước. Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết của hội đồng nhân dân; giám sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương (Điều 1 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). 1. Lịch sử về Hội đồng nhân dân. Sau khi cách mạng tháng 8-1945 thắng lợi, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi vòng áp bức của chính sách thực dân, đồng thời đã gạt bỏ chế độ vua quan. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, kể từ đây lịch sử dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã bước sang một trang mới, một thời kỳ mới với việc thiết lập một chế độ mới, chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa. Các tầng lớp nhân dân lao động đã làm chủ đất nước, làm chủ chế độ, được hưởng đầy đủ các quyền công dân của một quốc gia, trong đó có các quyền cơ bản như quyền tự do dân chủ, quyền bầu cử, ứng cử đã được ghi nhận lần đầu tiên trong bản Hiến pháp của nước ta được Quốc hội khoá I thông qua năm 1946 (tại mục B, chương 2 Hiến pháp 1946). Cũng từ đây, bộ máy nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà đã được thiết lập, nhân dân đã lần đầu tiên thực hiện quyền bầu cử để bầu ra chính quyền các cấp, trong đó có chính quyền địa phương (gồm:Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp). Kể từ đó đến nay, đã 65 năm qua, mặc dù có những sự thay đổi cho phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện của đất nước nhưng dù trong hoàn cảnh, điều kiện nào (thời chiến hay thời hoà), chính quyền các cấp nói chung và chính quyền địa phương (trong đó có Hội đồng nhân dân) đã làm tròn vai trò là cơ quan quyền lực của nhân dân. Nhờ vậy, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được đảm bảo và mở rộng hơn. Ngược dòng lịch sử, chúng ta sẽ thấy rằng trong Hiến pháp 1946 đã dành hẳn một chương để quy định về tổ chức và hoạt động Hội đồng nhân dân (ChươngV của Hiến pháp 1946), cụ thể tại Điều 58 đã nêu “Ở tỉnh, thành phố, thị xã và xã có Hội đồng nhân dân do đầu phiếu phổ thông, trực tiếp bầu ra. Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố, thị xã hay xã cử ra Ủy ban hành chính. Ở bộ và huyện, chỉ có Ủy ban hành chính. Ủy ban hành chính bộ do Hội đồng các tỉnh và thành phố bầu ra. Ủy ban hành chính huyện do Hội đồng các xã bầu ra”. Như vậy, ngày từ lúc mới thành lập, Hội đồng nhân dân chỉ có 02 cấp, đó là cấp tỉnh và cấp (không có cấp huyện như ngày nay). Đến Hiến pháp 1959, quy định về tổ chức của Hội đồng nhân dân các cấp cũng đã có sự thay đổi so với trước, cụ thể tại Điều 78 nêu “Các đơn vị hành chính trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, khu tự trị, thành phố trực thuộc trung ương;Tỉnh chia thành huyện, thành phố, thị xã;Huyện chia thành xã, thị trấn.Các đơn vị hành chính trong khu vực tự trị do luật định”. Điều 79 quy định: “Các đơn vị hành chính kể trên đều thành lập Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính.Các thành phố có thể chia thành khu phố có Hội đồng nhân dân và Uỷ ban hành chính theo quyết định của Hội đồng Chính phủ”. Theo quy định trên thì Hội đồng nhân dân đều được thành lập ở các cấp (tỉnh, huyện, xã), như vậy hiến pháp cho phép tổ chức hội đồng nhân dân cấp huyện. tuy nhiên, cũng cần lưu ý thêm là trong thời kỳ này do hoàn cảnh, điều kiện của đất nước còn chiến tranh, nên Hiến pháp còn quy định thêm về tổ chức của hội đồng nhân dân các khu tự trị (Điều 92 Hiến pháp 1959). Kế thừa những quy định của Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 vẫn tiếp tục ghi nhận các quy định về tổ chức Hội đồng nhân dân các cấp (thành lập Hội đồng nhân dân ở 3 cấp: tỉnh, huyện, xã), nhưng cũng thấy rằng đây là thời kỳ đất nước đã thống nhất toàn vẹn lãnh thổ nên không còn ghi nhận quy định về việc tổ chức Hội đồng nhân dân của các khu tự trị như hiến pháp 1959 nữa. B. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP Theo quy định của pháp luật (tại Điều 51 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003) thì tại kỳ họp thứ nhất của HĐND mỗi khoá sẽ tiến hành bầu ra các các cơ cấu của HĐND, UBND các cấp, các chức danh của Thường trực HĐND, các Ban của HĐND và của UBND.  I. TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TRUNG ƯƠNG (GỌI CHUNG LÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP TỈNH) (1); TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN QUẬN, HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ TRỰC THUỘC TỈNH (GỌI CHUNG LÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN)(2). (1) Xem phụ lục 1 (2) Xem phụ lục 2 Tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND được Quốc hội khoá XI thông qua ngày 26/11/2003 (gọi tắt là Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003) quy định “HĐND các cấp có Thường trực HĐND. HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có các Ban của HĐND” và tại các Điều 52, Điều 54 quy định “Thường trực HĐND do HĐND cùng cấp bầu ra”, “HĐND cấp tỉnh lập ra 3 Ban; Ban Kinh tế và Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội, Ban Pháp chế; nơi nào có nhiều dân tộc thì có thể thành lập Ban Dân tộc, cấp huyện có Thường trực HĐND và 02 Ban: Ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế. Như vậy, theo quy định trên thì HĐND cấp tỉnh,cấp huyện có Thường trực HĐND và các Ban của HĐND. Khi so sánh quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 với quy định tại Điều 5 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì chúng ta thấy rằng tổ chức của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện không có sự thay đổi. Cũng giống như quy định đối với các thành viên Thường trực HĐND cấp tỉnh, Trưởng các ban của HĐND cấp tỉnh, các thành viên của Thường trực HĐND cấp huyện không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp; Trưởng các Ban không thể đồng thời là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 52, 54 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Cũng cần nói thêm về tổ chức HĐND cấp huyện, như chúng ta đã biết, thì Hiến pháp năm 1959 không quy định về tổ chức HĐND cấp huyện nhưng kể từ Hiến pháp 1980 đến Hiến pháp 1992 đã quy định về việc tổ chức HĐND ở tất cả các cấp (tỉnh, huyện, xã). 1. Cơ cấu, tổ chức của Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện: Theo quy định hiện hành thì Thường trực HĐND cấp tỉnh và cấp huyện gồm có Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên Thường trực (Điều 52 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Các chức danh này do HĐND cùng cấp bầu ra trong số đại biểu HĐND theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND khoá trước. Các thành viên của Thường trực HĐND cấp tỉnh không thể đồng thời là thành viên của Uỷ ban nhân dân cùng cấp. Chủ tịch HĐND có thể làm nhiệm vụ kiêm nhiệm, Phó Chủ tịch HĐND và Ủy viên Thường trực phải làm việc chuyên trách (điểm 5 Điều 18 Quy chế Hoạt động của HĐND năm 2005). Khi nghiên cứu các quy định trước khi Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 ra đời, chúng ta thấy rằng khái niệm Thường trực HĐND chỉ ra đời từ năm 1989 (ghi nhận lần đầu tiện tại Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989). Đây là một sự thay đổi rất cơ bản về tổ chức của HĐND so với trước đó nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của HĐND. Ngoài ra, cũng cần nói thêm rằng, trước khi Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 có hiệu lực, Thường trực HĐND cấp tỉnh cũng chỉ có 02 chức danh Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND nhưng Chủ tịch thường là kiêm chức danh Bí thư hoặc Phó Bí thư trực của Cấp ủy. Do vậy, hoạt động của Thường trực HĐND không đảm bảo tính tập thể trong hoạt động. Từ chính thực tế này, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã quy định thêm chức danh Ủy viên thường trực HĐND để đảm bảo có 02 người hoạt động chuyên trách  Trước đó, (Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1962, 1983), HĐND huyện không có Thường trực HĐND nên trong thời gian giữa 2 kỳ họp Uỷ ban nhân dân cùng cấp sẽ làm thay vai trò của cơ quan Thường trực của HĐND. Do vậy, vị trí của HĐND ở địa phương bị lu mờ. Mặc dù vậy, từ năm 1989 đến trước khi có Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003, Thường trực HĐND cấp huyện cũng chỉ có 2 chức danh là Chủ tịch và Phó Chủ tịch nhưng Chủ tịch thường kiêm chức danh Bí thư hoặc Phó Bí thư trực của cấp ủy nên hoạt động của Thường trực HĐND không đảm bảo việc lãnh đạo của tập thể. Để khắc phục hạn chế này, Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 đã quy định bổ sung chức danh Ủy viên Thường trực HĐND cấp huyện  2. Cơ cấu, tổ chức của các Ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện: Theo quy định tại Điều 54 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp tỉnh có các Ban sau: Ban Pháp chế, Ban Kinh tế - Ngân sách, Ban Văn hoá - Xã hội. Ngoài ra, tuỳ theo đặc thù của từng địa phương mà thành lập thêm Ban Dân tộc (đối với tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhiều dân tộc). HĐND huyện có 02 ban: Ban Kinh tế - xã hội và Ban Pháp chế. Mỗi ban gồm có Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành viên khác. Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì số lượng thành viên của các Ban của HĐND cấp tỉnh, cấp huyện sẽ do HĐND cùng cấp quyết định. Tuy nhiên, quy nghiên cứu các quy định của Quy chế Hoạt động của HĐND năm 2005 thì chúng ta có thể thấy rằng mỗi Ban sẽ gồm Trưởng ban, Phó Trưởng ban, các thành viên khác và bộ phận giúp việc cho Ban. Trong đó Trưởng ban hoặc Phó Trưởng ban phải làm việc chuyên trách, người còn lại có thể làm việc kiêm nhiệm. HĐND cùng cấp sẽ quy định thời gian mà Trưởng Ban hoặc Phó Trưởng Ban làm việc kiêm nhiệm phải dành cho hoạt động của Ban (Điều 26 của Quy chế Hoạt động của HĐND năm 2005). Các thành viên của các ban của HĐND cấp tỉnh và cấp huyện không thể đồng thời là thành viên của UBND cùng cấp; Trưởng các Ban không thể đồng thời là thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND cùng cấp, Chánh án Toà án nhân dân, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 54 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003).Quy định này nhằm đảm bảo cho hoạt động của Ban, hoạt động của các thành viên của các Ban được độc lập, khách quan, tránh tình trạng “vừa đá bóng vừa thổi còi”. Khi nghiên cứu các quy định về tổ chức các Ban của HĐND, chúng ta biết rằng việc tổ chức ra các Ban của HĐND đã được quy định từ rất sớm ( Điều 28 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1962; Điều 27 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1983; Điều 27 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1989). Các Luật Tổ chức HĐND và UBND trước Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 không quy định cụ thể về việc thành lập các Ban (số Ban, tên gọi, số lượng thành viên các Ban) nên mỗi nơi thành lập mỗi kiểu và gây khó khăn cho công tác hướng dẫn hoạt động của các Ban dẫn đến hiệu quả hoạt động không cao. Ngoài ra, các Ban cũng không có người hoạt động chuyên trách mà đều là kiêm nhiệm (các Ban gồm: Trưởng ban, Phó trưởng ban và các thành viên khác). Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 1994 thì nhà làm luật đã quy định cụ thể về số ban của HĐND từng cấp (cấp tỉnh: 03 Ban; cấp huyện: 02 Ban) và Trưởng ban của HĐND tỉnh có thể làm việc chuyên trách. Chính vì vậy, việc Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 quy định mang tính bắt buộc Trưởng Ban hoặc Phó trưởng Ban phải hoạt động chuyên trách nhằm từng bước chuyển một bộ phận hoạt động kiêm nhiệm sang chế độ chuyên trách để tập trung thời gian chuyên môn cho Ban. Qua đó, nâng cao hiệu quả hoạt động của các Ban ( Điều 26 của Quy chế Hoạt động của Hội đồng nhân dân năm 2005). Bên cạnh các Ban chuyên môn, HĐND cấp tỉnh và HĐND cấp huyện còn thành lập các Ban lâm thời để thực hiện 1 công việc nhất định và tự giải tán khi công việc đã hoàn thành. Ví dụ: Ban Kiểm tra tư cách đại biểu HĐND được bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá để kiểm tra kết quả bầu cử đại biểu HĐND và các vấn đề khác có liên quan. II. TỔ CHỨC CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ, PHƯỜNG, THỊ TRẤN (GỌI CHUNG LÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ)(3). Theo quy định tại Điều 5 và Điều 52 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp xã chỉ tổ chức Thường trực HĐND, không có các Ban chuyên môn như HĐND cấp tỉnh, cấp huyện. Thường trực HĐND cấp xã cũng chỉ có 02 thành viên là Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, không có ủy viên thường trực, trong đó Chủ tịch HĐND cấp xã hoạt động kiêm nhiệm nên chỉ có 01 chức danh trong thường trực HĐND hoạt động chuyên trách mà thôi. Cũng như quy định đối với cấp tỉnh và cấp huyện, các chức danh này do HĐND cấp xã bầu ra tại kỳ họp đầu tiên của mỗi khoá trong số các đại biểu HĐND cấp mình theo sự giới thiệu của Chủ tịch HĐND khoá trước. Khi nghiên cứu những quy định về tổ chức và hoạt động của HĐND trước đây (trước khi có Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003), chúng ta thấy rằng trước năm 1989 thì HĐND cấp xã không có Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND nên giữa 2 kỳ họp HĐND, UBND sẽ làm thay nhiệm vụ của cơ quan Thường trực của HĐND. Từ năm 1989 đến 2003 thì mặc dù HĐND cấp xã đã có Chủ tịch và Phó Chủ tịch nhưng đều hoạt động kiêm nhiệm và vẫn chưa được gọi là Thường trực HĐND cấp xã. Đến Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì chúng ta thấy có sự thay đổi, cụ thể theo Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì HĐND cấp xã có Thường trực HĐND. Việc ban hành những quy định này nhằm nâng cao vai trò của Thường trực HĐND cấp xã, giúp HĐND cấp xã hoạt động thường xuyên, hiệu quả hơn, cũng như duy trì mối quan hệ phối hợp công tác với các cơ quan nhà nước khác, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị. CHƯƠNG 2 HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP HĐND các cấp thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình thông qua việc triển khai các hoạt động của các bộ phận cấu thành, đó là: hoạt động của Đại biểu HĐND, hoạt động của Thường trực HĐND, hoạt động của các Ban của HĐND (Đối với HĐND cấp tỉnh và huyện). Các bộ phận trên hoạt động thông qua các hình thức như Kỳ họp (hình thức chủ yếu và quan trọng nhất), tổ chức giám sát (giám sát chuyên đề, giám sát đột xuất), tiếp xúc cử tri (trước và sau mỗi kỳ họp), chất vấn; tiếp nhận đơn thư của công dân, chuyển cho cơ quan chức năng và theo dõi quá trình giải quyết đơn thư … 1. Hoạt động của Đại biểu HĐND: Theo quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 thì đại biểu HĐND là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân địa phương, gương mẫu chấp hành chính sách, pháp luật của nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chính sách, pháp luật và tham gia vào việc quản lý nhà nước (Điều 36 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Đại biểu HĐND của địa phương nào thì do nhân dân địa phương đó trực tiếp bầu ra và chịu sự giám sát của nhân dân địa phương. Hoạt động của đại biểu HĐND gồm những hoạt động trước kỳ họp, hoạt động trong kỳ họp và hoạt động sau kỳ họp.  1.1 Tham dự Kỳ họp, phiên họp của HĐND: Kỳ họp là hình thức hoạt động chủ yếu của HĐND. Tại kỳ họp toàn thể (đa số) các đại biểu HĐND sẽ bàn bạc, quyết định những vấn đề quan trọng của địa phương. Thông qua kỳ họp, ý chí, nguyện của nhân dân địa phương được chuyển thành quyết định của cơ quan quyền lực, có giá trị bắt buộc thực hiện chung (các nghị quyết). Ngoài ra, kỳ họp còn quyết định các biện pháp để đảm bảo việc thi hành pháp luật của các cơ quan nhà nước cấp trên tại địa phương; thực hiện quyền giám sát của HĐND đối với các cơ quan nhà nước tại địa phương trong việc thực hiện nghị quyết của HĐND. Tại kỳ họp thứ nhất của mỗi khóa HĐND thì nội dung chủ yếu là bầu ra các cơ cấu của HĐND, UBND nên kỳ họp này có thể coi là kỳ họp về tổ chức bộ máy chính quyền ở địa phương. Tại kỳ họp này, HĐND sẽ bầu ra Thường trực HĐND (Chủ tịch, Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực), các thành viên của UBND (Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các ủy viên UBND), thành viên các Ban của HĐND, thư ký kỳ họp. Đại biểu HĐND có nhiệm vụ tham dự đầy đủ các Kỳ họp thường kỳ, Kỳ họp chuyên đề, Kỳ họp bất thường của HĐND; tại kỳ họp, các đại biểu có trách nhiệm tham gia thảo luận và quyết định những vấn đề liên quan đến nội dung, chương trình của kỳ họp HĐND. Khi đại biểu HĐND vắng mặt, phải có lý do và báo cáo Chủ tịch HĐND hoặc Chủ toạ phiên họp (Điều 38 Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Thành phần quan trọng nhất của các kỳ họp là các đại biểu HĐND, do vậy việc đảm bảo số lượng tham dự kỳ họp là yêu cầu bắt buộc của các kỳ họp (phải có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu HĐND tham dự). Ngoài ra dự kỳ họp còn có các thành phần khác như Đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND cấp trên được bầu tại địa phương, Chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, các đoàn thể cùng cấp, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn của UBND, lãnh đạo các ban ngành như Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và đại diện cử tri. Mặc dù các thành phần này cũng được phát biểu ý kiến nhưng không được biểu quyết. Để kỳ họp HĐND được tổ chức có chất lượng, hiệu quả, pháp luật quy định các đại biểu có trách nhiệm nghiên cứu trước dự kiến nội dung, chương trình kỳ họp, các văn bản liên quan đến nội dung kỳ họp như các báo cáo, các tờ trình, đề án, dự thảo nghị quyết của kỳ họp …; chuẩn bị ý kiến phát biểu về các vấn đề liên quan đến chương trình nội dung của kỳ họp. HĐND mỗi năm họp thường lệ 2 kỳ, ngoài ra, khi cần thiết, HĐND cũng có thể tổ chức các kỳ họp chuyên đề hoặc kỳ họp bất thường theo yêu cầu của Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND cùng cấp hoăc khi có ít nhất 1/3 tổng số đại biểu HĐND cùng cấp yêu cầu (Điều 48 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Kỳ họp sẽ do thường trực HĐND triệu tập và chỉ được tiến hành khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu tham dự họp. Quy định này nhằm đảm bảo tính đa số trong việc bàn bạc, biểu quyết thông qua các nội dung quan trọng của kỳ họp (các nghị quyết của Hội đồng chỉ được thông qua khi có quá 1/2 tổng số đại biểu nhất trí biểu quyết). Kỳ họp của HĐND được tiến hành công khai, trừ khi cần thiết phải họp kín. Vì Kỳ họp là hình thức hoạt động của yếu của Hội đông nhân dân nên việc các đại biểu HĐND tham dự đầy đủ các kỳ họp, tham gia thảo luận, quyết định những vấn đề quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá - giáo dục - y tế - thể dục thể thao …, củng cố quốc phòng - an ninh sẽ quyết định chất lượng, hiệu quả hoạt động chung của HĐND. Chính vì vậy, tại Điều 8 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 nêu “Hiệu quả hoạt động của HĐND được bảo đảm bằng hiệu quả của các Kỳ họp HĐND…” 1.2 Hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND: Một nội dung quan trọng của các kỳ họp, góp phần tích cực thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát việc thi hành pháp luật và nghị quyết của HĐND từ phía các cơ quan nhà nước ở địa phương, đó là hoạt động chất vấn của đại biểu HĐND tại kỳ họp. Theo quy định của pháp luật, đại biểu HĐND có quyền chất vấn Chủ tịch HĐND, Chủ tịch UBND và các thành viên khác của UBND cùng cấp, thủ trưởng các cơ quan chuyên môn thuộc UBND, Chánh án Toà án nhân dân, Viện Trưởng Viện Kiểm sát nhân dân cùng cấp (Điều 41 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Tại kỳ họp, các chất vấn của đại biểu HĐND sẽ được cơ quan, người bị chất vấn trả lời trực tiếp. Nếu cơ quan, người bị chất vấn chưa thể trả lời trực tiếp tại kỳ họp mà cần điều tra, xác minh thêm thì Hội đồng sẽ quyết định cho người bị chất vấn phải trả lời bằng văn bản đến đại biểu đã chất vấn và thường trực HĐND hoặc trả lời chất vấn tại kỳ họp sau. Hoạt động chất vấn có thể thực hiện trực tiếp tại các kỳ họp hoặc trong thời gian giữa các kỳ họp. Trong trường hợp chất vấn được thực hiện trong thời gian giữa các kỳ họp thì đại biểu HĐND gửi chất vấn đến Thường trực HĐND để chuyển đến cơ quan, người bị chất vấn. Về hình thức chất vấn, các đại biểu có thể chất vấn bằng văn bản hoặc bằng miệng. 1.3 Hoạt động tiếp xúc cử tri trước và sau mỗi kỳ họp thường lệ: Theo quy định tại Điều 39 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và Điều 38 của Quy chế Hoạt động của HĐND năm 2005 thì trước và sau mỗi kỳ họp, các đại biểu phải tiếp xúc cử tri. Việc tiếp xúc cử tri trước mỗi kỳ họp của đại biểu là để lắng nghe tâm tư, nguyện vọng nhân dân nơi đại biểu ứng cử, tiếp thu các ý kiến, kiến nghị của cử tri với kỳ họp và với các cơ quan nhà nước cấp trên. Sau kỳ họp, đại biểu phải tiếp xúc cử tri để báo cáo kết quả của kỳ họp, kết quả giải quyết các ý kiến, kiến nghị của cử tri, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND và vận động nhân dân thực hiện nghị quyết đó. Ngoài ra, mỗi năm một lần vào cuối năm, kết hợp với việc tiếp xúc cử tri, các đại biểu HĐND phải báo cáo với cử tri nơi được bầu kết quả hoạt động của mình và của HĐND trong năm và phương hướng hoạt động trong năm tới. Như vậy, qua xem xét, nghiên cứu các quy định về tiếp xúc cử tri của đại biểu HĐND, chúng ta thấy rằng với hoạt động này sẽ đảm bảo cho các ý kiến, kiến nghị, phản ánh của nhân dân đến được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, qua đó giúp cho các cơ quan nhà nước hoàn thiện hiện thống pháp luật, củng cố tổ chức, nâng cao hiệu quả hoạt động; giúp các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc xây dựng các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội được toàn diện hơn, đảm bảo sự phát triển đồng đều giữa các vùng miền, các khu vực. Ngoài ra, qua hoạt động tiếp xúc cử tri, các chủ trưởng, chính sách, pháp luật mới và nghị quyết của HĐND đến với nhân dân một cách trực tiếp qua việc phổ biến, giải thích của đại biểu HĐND. Qua đó cũng góp phần nâng cao nhận thức của nhân dân trong việc chấp hành pháp luật.  1.4 Hoạt động tiếp nhận, xem xét, nghiên cứu, chuyển đơn thư của công dân đến các cơ quan chức năng; theo dõi, đôn đốc quá trình giải quyết đơn thư và báo cáo kết quả giải quyết với công dân: Ngoài các hoạt động như vừa trình bày trên, đại biểu HĐND còn thực hiện việc nhiệm vụ tiếp nhận, xem xét, nghiên cứu và kịp thời chuyển đến các cơ quan thẩm quyền giải quyết; đồng thời theo dõi, đôn đốc quá trình giải quyết và báo cáo kết quả giải quyết đơn thư cho công dân biết (Điều 40 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Cơ quan có thẩm quyền giải quyết có trách nhiệm phải báo cáo kết quả giải quyết cho đại biểu HĐND trong thời hạn do luật định. Với quy định này, quyền khiếu nại, tố cáo của công dân được đảm bảo thực hiện, tránh việc các cơ quan có thẩm quyền kéo dài, không giải quyết hoặc chậm trễ trong việc giải quyết, làm ảnh hưởng đến các quyền, lợi ích chính đáng của công dân. Cũng qua hoạt động này, HĐND sẽ thực tốt hơn chức năng giám sát của mình đối với các cơ quan nhà nước, các tổ chức khác tại địa phương.  2. Hoạt động của Thường trực HĐND: Tuỳ theo cấp hành chính mà cơ cấu của Thường trực HĐND có khác, chẳng hạn Thường trực HĐND cấp xã chỉ có Chủ tịch và Phó Chủ tịch HĐND, đối với cấp tỉnh và cấp huyện, thì Thường trực HĐND gồm 3 chức danh: Chủ tịch, Phó Chủ tịch và Ủy viên Thường trực. Thường trực HĐND các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức các hoạt động của HĐND, chịu trách nhiệm báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp. Các thành viên Thường trực HĐND chịu trách nhiệm tập thể về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Thường trực HĐND; chịu trách nhiệm cá nhân trước Thường trực HĐND về nhiệm vụ, quyền hạn được Thường trực HĐND phân công. Chủ tịch HĐND chỉ đạo hoạt động của Thường trực HĐND cùng cấp; Phó Chủ tịch, Ủy viên thường trực làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chủ tịch HĐND. 2.1 Triệu tập, chủ toạ các kỳ họp của HĐND; phối hợp với UBND cùng cấp trong việc chuẩn bị cho kỳ họp. Theo quy định thì Thường trực HĐND có trách nhiệm phối hợp với UBND cùng cấp trong việc chuẩn bị cho kỳ họp của HĐND; triệu tập và chủ toạ các kỳ họp thường lệ, chuyên đề, đột xuất của HĐND (Điều 53 của Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003). Nói chung, hoạt động của HĐND các cấp chủ yếu là tại các kỳ họp. Do đó, việc chuẩn bị chu đáo nội dung, chương trình, các báo cáo, dự thảo các văn bản của HĐND, UBND như nghị quyết, đề án …là rất quan trọng.  2.2 Kiểm tra, đôn đốc UBND, các cơ quan nhà nước khác tại địa phương trong việc thực hiện Nghị quyết của HĐND. Có thể nói đây là hoạt động khá quan trọng của Thường trực HĐND các cấp. Bởi vì, HĐND thường lệ chỉ họp 2 kỳ họp trong năm, do đó hoạt động giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND cũng không thể duy trì thường xuyên được mà chủ yếu tập trung tại kỳ họp.  2.3 Giám sát việc thi hành pháp luật tại địa phương: Nội dung này đề cập đến hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật nói chung. Bao gồm giám sát việc thi hành Hiếp pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTV Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, Quyết định, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ, quyết định, chỉ thị thông tư của các Bộ và quyết định, chỉ thị của UBND cấp trên. Như vậy, xét về nội dung giám sát thì hoạt động này rất rộng, trên tất cả các lĩnh vực. Trước đây (trước khi Quốc hội thông qua Nghị quyết số 10/2001/QH10, ngày 25/12/2001 của Quốc hội khoá 10 về việc sửa đổi Hiếp pháp năm 1992), chức năng giám sát việc thi hành pháp luật thuộc HĐND các cấp và của Viện Kiểm sát các cấp. Tuy nhiên, hiện nay, Viện Kiểm sát các cấp chỉ còn chức năng kiểm sát việc thi hành pháp luật trong hoạt động tư pháp nên hoạt động giám sát chung tại địa phương do HĐND các cấp thực hiện. 2.4 Điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND, xem xét kết quả giám sát của các Ban và báo cáo cho HĐND khi cần thiết: Thường trực HĐND cấp tỉnh, cấp huyện có vai trò quan trọng trong việc điều hoà, phối hợp hoạt động của các Ban của HĐND, trong đó tập trung vào một số hoạt động sau: - Phân công cho các Ban thẩm tra các dự thảo nghị quyết, báo cáo, tờ trình, đề án trình do UBND và các ngành trình ra kỳ họp của HĐND. - Phân công cho các Ban đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện nghị quyết của HĐND và các công việc khác. Phân công cho các Ban một số nội dung trong chương trình giám sát của HĐND thông qua và Thường trực HĐND; điều hoà, phối hợp chương trình hoạt động của các Ban; đôn đốc các Ban hoạt động. - Xem xét kết quả giám sát của các Ban, trong trường hợp cần thiết thì báo cáo với HĐND để HĐND xem xét, quyết định. - Tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm hoạt động của các ban nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các Ban. 2.5 Giữ mối quan hệ với đại biểu HĐND, các Tổ đại biểu HĐND; tổng hợp chất vấn của đại biểu để báo cáo HĐND: - Đôn đốc các Tổ đại biểu HĐND tổ chức để đại biểu HĐND tiếp xúc cử tri, thu thập ý kiến, nguyện vọng của cử tri. - Theo dõi, đôn đốc, tổng hợp các ý kiến, kiến nghị của cử tri do các tổ đại biểu HĐND chuyển đến để chuyển đến các cơ quan nhà nước, các tổ chức hữu quan nghiên cứu giải quyết và theo dõi, đôn đốc việc giải quyết; báo cáo trước HĐND những ý kiến, kiến nghị đó và kết quả giải quyết của các cơ quan, tổ chức hữu quan. 2.6 Hoạt động tiếp dân, tiếp nhận, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra và xem xét tình hình giải quyết kiến nghị, khiếu nại, tố cáo của công dân: Ngoài hoạt động giám sát, công tác phối hợp chuẩn bị các kỳ họp của HĐND, Thường trực cũng có giống như UBND, phải tổ chức hoạt động tiếp công dân, tiếp nhận ý kiến, kiến nghị, đơn thư khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân và chuyển cho các cơ quan hữu quan để giải quyết, đồng thời có trách nhiệm theo dõi, đôn đốc, xem xét tình hình giải quyết đơn thư và báo cáo kết quả giải quyết cho công dân và HĐND. Với hoạt động này của Thường trực HĐND đã góp phần tích cực trong việc giám sát tình hình giải quyết đơn thư của công dân từ phía các cơ quan, tổ chức hữu quan, hạn chế tình trạng trì trệ, chậm trễ thậm chí kéo dài thời hạn giải quyết đơn thư từ phía các cơ quan, tổ chức có trách nhiệm giải quyết. 2.7 Thực hiện các hoạt động khác: Ngoài những hoạt động chính như đã vừa trình bày trên, Thường trực HĐND còn thực hiện các hoạt động khác như phê chuẩn kết quả bầu các chức danh của Thường trực HĐND cấp dưới trực tiếp; trình HĐND bỏ phiếu tín nhiệm đối với các chức danh do HĐND bầu ra theo đề nghị của Mặt trận tổ quốc cùng cấp hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu yêu cầu; phối hợp đưa ra bãi miễn những đại biểu HĐND không còn xứng đáng theo đề nghị của Mặt trận tổ quốc cùng cấp; hàng quý, 6 tháng, hàng năm báo cáo tình hình hoạt động của HĐND dân cấp mình lên HĐND, UBND cấp trên trực tiếp; giữ mối quan hệ phối hợp công tác với Mặt trận tổ quốc cùng cấp; tổ chức các Hội nghị giao ban giữa thường trực HĐND cấp mình với Thường trực HĐND cấp dưới nhằm trao đổi, học hỏi kinh nghiệm hoạt động; hàng tháng tổ chức họp giao ban thường trực HĐND cấp mình nhằm kiểm điểm việc thực hiện nhiệm vụ, các nghị quyết của HĐND, các quyết định của chính Thường trực HĐND và đề ra nhiệm vụ tháng sau. 3. Hoạt động của các Ban của Hội động nhân dân Các Ban của HĐND các cấp hoạt động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước HĐND cùng cấp. Các thành viên của Ban của HĐND chịu trách nhiệm tập thể về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Ban trước HĐND; chịu trách nhiệm cá nhân trước Ban về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được Ban phân công. 3.1 Hoạt động chuẩn bị cho kỳ họp của HĐND: Các ban của HĐND các cấp chuẩn bị cho kỳ họp HĐND thông qua các việc: - Tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp của HĐND liên quan đến lĩnh vực mà từng Ban được phân công. - Thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án của Uỷ ban nhân dân, các ngành trình kỳ họp liên quan đến lĩnh vực mà các Ban đã được phân công.  - Báo cáo kết quả hoạt động giám sát của Ban tại kỳ họp của HĐND. Theo quy định, trước mỗi kỳ họp, các Ban của HĐND các cấp phải tổ chức giám sát theo lĩnh vực được phân công và chuẩn bị báo cáo thuyết trình để báo cáo tại kỳ họp.  3.2 Hoạt động giám sát theo sự phân công: Mỗi Ban của HĐND các cấp, tuỳ theo sự phân công của HĐND, Thường trực HĐND mà thực hiện hoạt động giám sát trong những lĩnh vực nhất định. Nhưng nhìn chung, các Ban thực hiện một số hoạt động giám sát sau: - Giúp HĐND giám sát hoạt động của UBND và các cơ quan chuyên môn của UBND cùng cấp trong những lĩnh vực mà Ban được phân công (Ví dụ: Ban Ban Dân tộc tỉnh giám sát trong lĩnh vực thực hiện các chính sách dân tộc, Ban Văn hoá - xã hội giám sát trong lĩnh vực thực hiện các chính sách phát triển văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục thể thao, …). - Giúp HĐND giám sát việc thực hiện nghị quyết của HĐND, tình hình thi hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức tại địa phương trong các lĩnh vực mà Ban được phân công. CHƯƠNG 3  MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG VÀ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CÁC CẤP 1. Xem xét, bổ sung thêm thành viên chuyên trách cho Thường trực HĐND cấp xã: Theo quy định hiện nay (Luật Tổ chức HĐND và UBND năm 2003) thì Thường trực HĐND cấp xã chỉ có 02 chức danh là Chủ tịch và Phó Chủ tịch. Tuy nhiên, Chủ tịch HĐND cấp xã làm việc kiêm nhiệm, do đó không đảm bảo tính tập thể trong hoạt động của Thường trực HĐND cấp xã. 2. Thí điểm mô hình chỉ tổ chức HĐND ở hai cấp, HĐND cấp tỉnh và HĐND cấp xã. Thực tế cho thấy hoạt động của HĐND cấp huyện và cấp xã rất mờ nhạt, hình thức, vai trò của người đại biểu chưa được thể hiện nhiều, nhất là trong việc xây dựng các quyết sách về phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương. Các Nghị quyết của HĐND thường chỉ là sản phẩm sao chép lại các văn bản của cấp ủy hoặc của UBND cùng cấp. Hoạt động giám sát cũng không được coi trọng, không được duy trì thường xuyên và cũng không hiệu quả. Báo chí trong nước trong thời gian qua liên tục đưa tin về các vụ việc vi phạm pháp luật tập thể của chính quyền địa phương ở một số nơi mà nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do HĐND cấp cơ sở ở những nơi đó đã buông lỏng chức năng giám sát, tạo điều kiện cho các cơ quan hành chính nhà nước vi phạm pháp luật, thậm chí có những trường hợp cán bộ chủ chốt của HĐND cũng vi phạm pháp luật. Do đó thiết nghĩ chỉ nên tổ chức Hội động nhân dân 2 cấp (cấp tỉnh và cấp xã, không tổ chức ở cấp huyện) nhưng phải có những quy định chặt chẽ, các biện pháp để nâng cao vai trò cơ quan quyền lực, cơ quan giám sát ở địa phương của HĐND cấp xã, từng bước làm cho hoạt động của đại biểu HĐND cấp xã chuyên nghiệp hơn. 3. Nâng cao tỷ lệ đại biểu HĐND chuyên trách ở các cấp: Từ thực tế khảo sát chất lượng hoạt động của đại biểu HĐND các cấp cho thấy phần lớn đại biểu HĐND các cấp đều hoạt động kiêm nhiệm (nhất là cấp huyện, cấp xã), chỉ một số rất ít đại biểu hoạt động chuyên trách. Chính vì vậy, còn nhiều đại biểu HĐND xem nhẹ hoạt động HĐND, chỉ xem đây là hoạt động phụ bên cạnh hoạt động chuyên môn của mình mà thôi. Nhiều cơ quan, tổ chức chưa quan tâm tạo điều kiện để đại biểu tham gia tích cực vào các hoạt động của HĐND. 4. Thực hiện chính sách, chế độ thoả đáng với đại biểu HĐND: Để đại biểu HĐND các cấp an tâm trong hoạt động HĐND thì việc nhà nước quan tâm, kịp thời có các chính sách, chế độ hỗ trợ thoả đáng đối với đại biểu HĐND là rất cần thiết, điều đó sẽ giúp họ hoạt động tích cực, hiệu quả hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTổ chức Và hoạt động của Hội đồng nhân dân ở nước ta hiện nay.doc
Tài liệu liên quan