Tổ chức thực hiện công tác hòa giải cơ sở

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên còn giúp đỡ, tạo điều kiện về nhân lực (con người), về tinh thần (động viên, khuyến khích, thuyết phục) đối với công tác hoà giải ở cơ sở, đồng thời tham gia hoà giải trực tiếp các vụ việc, các tranh chấp, xích mích trong nhân dân. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn phối hợp với các cơ quan hữu quan tham gia hướng dẫn hoạt động hoà giải về nghiệp vụ, về cơ cấu tổ chức và phối hợp tiến hành sơ kết, tổng kết công tác hoà giải ở cơ sở.

pdf29 trang | Chia sẻ: yendt2356 | Lượt xem: 480 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tổ chức thực hiện công tác hòa giải cơ sở, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cấp; - Đại diện cho Tổ hoà giải trong quan hệ với Trưởng thôn, xóm, bản, ấp, Tổ trưởng tổ dân phố, cụm dân cư và với các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở. 1.5 Thủ tục bầu tổ viên, tổ trưởng tổ hoà giải Căn cứ vào các tiêu chuẩn và nhiệm vụ của tổ viên tổ hoà giải, công dân từ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự, có đủ các tiêu chuẩn quy định và có điều kiện tham gia công tác hoà giải đều có quyền đề cử, ứng cử vào danh sách bầu tổ viên tổ hoà giải. Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với các tổ chức thành viên của mặt trận lựa chọn, giới thiệu người để nhân dân bầu tổ viên tổ hoà giải. Việc bầu tổ viên Tổ hoà giải được tổ chức ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và cụm dân cư nơi Tổ hoà giải hoạt động và được tiến hành theo một trong các hình thức sau: - Họp nhân dân bàn, biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín; - Họp chủ hộ trong thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố, biểu quyết công khai hoặc bỏ phiếu kín; 10 Những người tham dự họp nhân dân hoặc đại diện cho chủ hộ trong cuộc họp chủ hộ phải là người từ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự. Các cuộc họp nói trên được tiến hành khi có ít nhất 2/3 số người trong diện họp tham dự. - Trong trường hợp không tổ chức họp được thì phát phiếu lấy ý kiến chủ hộ gia đình. Người được bầu là tổ viên Tổ hoà giải phải được quá nửa số người tham gia bầu tán thành. Trưởng thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố tổ chức và chủ trì các cuộc họp nhân dân, họp chủ hộ để bầu tổ viên Tổ hoà giải hoặc tổ chức việc phát phiếu lấy ý kiến chủ hộ. Biên bản bầu tổ viên tổ hoà giải trong các cuộc họp nhân dân, họp chủ hộ, biên bản kết quả phiếu lấy ý kiến chủ hộ và biên bản bầu Tổ trưởng Tổ hoà giải được gửi đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xem xét để công nhận thành phần Tổ hoà giải. Tổ trưởng tổ hoà giải do các tổ viên tổ hoà giải bầu trong số tổ viên. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xem xét và ra quyết định công nhận việc thành lập Tổ hoà giải và thành phần Tổ hoà giải. 1.6 Miễn nhiệm tổ viên tổ hoà giải Tổ viên tổ hoà giải bị miễn nhiệm trong những trường hợp sau: - Có hành vi vi phạm pháp luật; - Có hành vi trái đạo đức xã hội; - Thiếu nhiệt tình trong hoạt động hoà giải; - Theo nguyện vọng cá nhân xin rút khỏi tổ hoà giải. Căn cứ biên bản họp nhân dân, họp chủ hộ hoặc kết quả phiếu lấy ý kiến chủ hộ về việc miễn nhiệm tổ viên Tổ hoà giải do Trưởng thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố chủ trì, Ban Tư pháp đề nghị bằng văn bản để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cùng cấp xem xét, quyết định việc miễn nhiệm. 2. Nguyên tắc và phạm vi hoà giải 2.1 Nguyên tắc hoà giải Nguyên tắc hoà giải là những quan điểm, tư tưởng chỉ đạo mà khi tiến hành hoạt động hoà giải phải tuân thủ một cách đầy đủ, toàn diện và nghiêm túc. Các nguyên tắc này được quy định tại Điều 4 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở. - Hoà giải phải phù hợp với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân 11 Khi giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp nhỏ trong nhân dân nếu như người hoà giải chỉ căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc, phong tục tập quán của địa phương, dòng họ để dàn xếp các mâu thuẫn, tranh chấp thì chưa đủ và không hiệu quả. Các vụ việc nếu chỉ dừng lại ở các quy phạm đạo đức để hoà giải thì chưa hẳn đã mang lại kết quả tích cực và thoả đáng. Một vụ việc chỉ được giải quyết dứt điểm và có hiệu quả cao khi người hoà giải bên cạnh việc căn cứ vào các chuẩn mực đạo đức, phong tục, tập quán còn cần phải nắm vững và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhất là những quy định pháp luật liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân. Để thực hiện nguyên tắc này, tổ viên Tổ hoà giải phải nắm vững đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước. Trước hết, cần nắm vững quy định của pháp luật liên quan trực tiếp đến công tác hoà giải ở cơ sở như pháp luật dân sự (quan hệ tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế,...), pháp luật hôn nhân và gia đình (quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, quan hệ cha mẹ, con, nhận nuôi con nuôi, ly hôn, yêu cầu cấp dưỡng...), pháp luật về đất đai (quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất...), pháp luật hành chính và pháp luật hình sự... Bên cạnh việc hoà giải theo đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hoà giải viên cần phải kết hợp với các quy phạm đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân. Pháp luật được thể hiện ở hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành. Phong tục, tập quán thường được thể hiện hoặc bằng ngôn ngữ như luật tục của đồng bào các dân tộc thiểu số, các hương ước, quy ước làng, bản, thôn, ấp, cụm dân cư, tổ dân phố, hoặc bằng các thói quen ứng xử dưới dạng các hành động cụ thể. Phong tục, tập quán được áp dụng phải là phong tục tập quán tốt đẹp, không trái với pháp luật và quy tắc xây dựng nếp sống mới. Nếu phong tục, tập quán đã được quy định trong các hương ước, quy ước làng thì phải được Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện phê duyệt thực hiện. Đối với các hủ tục, tập quán lỗi thời thì tuyệt đối không được vận dụng để hoà giải. - Hoà giải phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên, không bắt buộc, áp đặt các bên tranh chấp phải tiến hành hoà giải Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoà giải ở cơ sở. Vì bản chất của hoà giải ở cơ sở là việc hướng dẫn, giúp đỡ, thuyết phục các bên tranh chấp đạt được thoả thuận trên cơ sở tự nguyện. Nguyên tắc này nhằm bảo đảm quyền tự định đoạt của các bên có tranh chấp trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ. 12 Người làm công tác hoà giải phải hiểu được tâm lý của những người đang có mâu thuẫn, tranh chấp, giữa họ ai cũng có những lý lẽ cho rằng mình đúng và không chấp nhận lý lẽ của bên kia. Do đó, khi hoà giải, tổ viên tổ hoà giải phải giúp họ bình tĩnh, tỉnh táo để nhìn nhận ra sự thật, thấy rõ cái đúng, cái sai của cả hai bên. Chỉ khi nào họ hiểu đúng đắn và thông cảm với nhau thì họ mới tự nguyện cùng nhau giải quyết mọi mâu thuẫn. Tuy nhiên có những trường hợp, nếu tiến hành hoà giải các bên có thể chưa chấp nhận ngay thì tổ viên tổ hoà giải phải dùng phương pháp thuyết phục để hai bên đi đến thoả thuận mà không được tìm cách áp đặt. Một trong những phương pháp để hai bên đi đến thoả thuận trong trường hợp họ không chấp nhận thì tổ viên tổ hoà giải phải nhờ đến sự trợ giúp của người đại diện chính quyền như công an hay đại diện của tổ chức xã hội để tạo nên một tâm lý nhất định đối với một hoặc các bên tranh chấp, để họ đồng ý chấp nhận việc hoà giải. Đương nhiên sự tác động tâm lý này không được mang tính ép buộc mà chỉ là sự hỗ trợ cho hoà giải viên thực hiện thành công việc hoà giải. - Hoà giải phải khách quan, công minh, có lý, có tình, giữ bí mật thông tin đời tư của các bên tranh chấp, tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng Thông thường khi mâu thuẫn xảy ra, mỗi bên tranh chấp đều đưa ra lý lẽ để tự bảo vệ mình cho mình là đúng, không nhìn nhận được cái sai của mình đã gây ra cho người khác. Do đó người hoà giải phải thực sự khách quan, vô tư, công minh, đề cao lẽ phải, tìm cách thuyết phục để mỗi bên hiểu rõ sai trái, không xuề xòa “dĩ hoà vi quý” cho xong việc. Hơn nữa sự công minh, khách quan, vô tư của người hoà giải sẽ là yếu tố để hai bên đặt lòng tin và cùng nhau giải quyết vụ việc. Nguyên tắc có lý có tình là một trong những nguyên tắc đặc trưng nhất đối với hoạt động hoà giải ở cơ sở so với loại hình hoà giải khác. Trong hoà giải ở cơ sở cần tuân theo các quy phạm đạo đức, đề cao yếu tố tình cảm, khuyên nhủ các bên ứng xử theo các chuẩn mực đạo đức. Tuy nhiên không chỉ áp dụng theo các quy phạm đạo đức nói chung, trong từng trường hợp cụ thể hoà giải viên cần phải hiểu và nắm vững các quy định của pháp luật để giải quyết sự việc và hướng dẫn các bên thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của công dân theo quy định của pháp luật. Việc tuân thủ nguyên tắc này chính là sự bảo đảm đạt được mục đích của công tác hoà giải là giữ gìn đoàn kết trong nội bộ nhân dân, củng cố, phát huy những tình cảm và đạo lý truyền thống tốt đẹp trong gia đình, cộng đồng dân cư, 13 phòng ngừa, hạn chế vi phạm pháp luật, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội trong cộng đồng dân cư. Trong quá trình thực hiện hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải phải giữ bí mật thông tin về đời tư của các bên tranh chấp. Khi đã được các bên tranh chấp tin tưởng và thổ lộ thông tin thầm kín về đời tư của mình cho hoà giải viên, thì hoà giải viên không được phép tiết lộ thông tin đó cho người khác. Song cũng cần phân biệt giữa bí mật thông tin đời tư cá nhân và thông tin bí mật của các bên tranh chấp về hành vi bất hợp pháp mà họ đã thực hiện. Bên cạnh đó, hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. Nguyên tắc này mang tính pháp lý cao và thường được áp dụng cho mọi loại hình hoà giải các tranh chấp kể cả việc hoà giải được thực hiện bởi Toà án và tổ chức trọng tài. Đối với hoà giải ở cơ sở, các tranh chấp, xích mích trong đời sống sinh hoạt hàng ngày liên quan đến sử dụng lối đi qua nhà, sử dụng điện, nước sinh hoạt, vệ sinh môi trường thường liên quan đến nhiều người khác ngoài các bên tranh chấp, do đó Tổ hoà giải không thể vì mục đích đạt được hoà giải thành mà làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Việc hoà giải phải tuân thủ nguyên tắc không xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng. - Hoà giải phải kịp thời, chủ động, kiên trì nhằm ngăn chặn vi phạm pháp luật, hạn chế những hậu quả xấu khác có thể xảy ra và đạt được kết quả hoà giải Trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày có thể xảy ra những va chạm, xích mích, tranh chấp nhỏ giữa các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm giềng, bạn bè với nhau mà nếu không được giải quyết kịp thời, có lý, có tình thì có thể từ những va chạm, xích mích, mâu thuẫn nhỏ sẽ dễ trở thành những mâu thuẫn lớn. Từ những tranh chấp, mâu thuẫn trong quan hệ dân sự, kinh tế, hôn nhân gia đình có thể chuyển thành vụ án hình sự, gây mất đoàn kết, ảnh hưởng đến trật tự chung. Vì vậy, các hoà giải viên cần chủ động, kịp thời ngăn chặn hậu quả xấu, phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm hình sự có thể xảy ra để giữ gìn được tình làng, nghĩa xóm, tình đoàn kết tương thân, tương ái trong cộng đồng, tập thể. Để tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho việc thực hiện nguyên tắc kịp thời, chủ động trong hoạt động hoà giải ở cơ sở, Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở thì tổ viên tổ hoà giải có thể chủ động hoà giải hoặc tổ chức việc hoà giải theo sáng kiến của mình (khoản 1 Điều 10). Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định: “Việc hoà giải có thể được tiến hành theo sáng kiến của tổ viên Tổ hoà giải ngay tại thời điểm xảy ra tranh chấp, nếu tổ viên Tổ hoà giải là người chứng kiến và xét thấy cần thiết phải hoà giải ngay” (khoản 1 Điều 13). 14 Khác với các loại hình hoà giải khác, pháp luật không quy định thời hạn tiến hành việc hoà giải một tranh chấp do tổ hoà giải thực hiện. Điều 16 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP quy định: “Việc hoà giải được kết thúc khi các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thỏa thuận đó”. Quy định này thể hiện một trong các đặc điểm của thực tiễn hoạt động công tác hoà giải ở cơ sở là có nhiều việc tranh chấp trong cộng đồng dân cư đòi hỏi tổ viên tổ hoà giải phải kiên trì việc hoà giải. Người hoà giải đến gặp gỡ từng bên để lắng nghe, thuyết phục rồi sau đó tổ chức cho các bên trực tiếp gặp nhau ở một nơi thuận tiện, giúp họ thông cảm với nhau. Cuộc gặp gỡ phải tránh biến thành cuộc đối chất giữa hai bên trong bầu không khí căng thẳng. Sau khi tìm hiểu đầy đủ sự việc, lắng nghe ý kiến của các bên, người hoà giải phải bằng tất cả sự cảm thông, khéo léo phân tích, thuyết phục cho các bên đạt tới thoả thuận phù hợp với pháp luật, đạo đức, tập quán tốt đẹp của nhân dân và cùng nhau thực hiện những thoả thuận đó. 2.2 Phạm vi hoà giải - Những vụ việc được hoà giải Theo quy định tại khoản 1 điều 4 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP thì hoà giải được tiến hành đối với việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư, gồm: + Mâu thuẫn, xích mích giữa các thành viên trong gia đình do khác nhau về quan niệm sống, lối sống, tính tình không hợp hoặc mâu thuẫn, xích mích giữa các cá nhân trong quan hệ xóm giềng như sử dụng lối đi qua nhà, sử dụng điện, nước sinh hoạt, công trình phụ, giờ giấc sinh hoạt, gây mất vệ sinh chung.... + Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ dân sự như tranh chấp phát sinh từ các quan hệ về tài sản, quan hệ hợp đồng dân sự, nghĩa vụ dân sự, thừa kế quyền sử dụng đất. Tổ hoà giải chỉ hoà giải các tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ dân sự là tranh chấp nhỏ. Căn cứ để coi tranh chấp này là tranh chấp nhỏ không nhất thiết dựa vào giá trị tranh chấp. Có những trường hợp tuy giá trị tranh chấp tương đối lớn, nhưng vẫn có thể hoà giải được vì tình tiết sự việc đơn giản, rõ ràng, không đòi hỏi người giải quyết tranh chấp phải có kiến thức chuyên môn và trình độ pháp lý cao; mức độ mâu thuẫn không quá gay gắt, có thể thuyết phục được các bên tranh chấp thoả thuận mà không trái với các nguyên tắc do pháp luật quy định. 15 + Tranh chấp về quyền, lợi ích phát sinh từ quan hệ hôn nhân gia đình như: thực hiện quyền và nghĩa vụ vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con; nhận nuôi con nuôi; ly hôn; yêu cầu cấp dưỡng. Khi hoà giải những vụ việc này, tổ viên tổ hoà giải không được xem xét giải quyết những vụ việc mà pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của cơ quan nhà nước như: chấm dứt nuôi con nuôi; truy nhận cha, mẹ cho con ngoài giá thú; phân xử việc ly hôn (cho ly hôn); ép buộc thực hiện các việc mà Luật hôn nhân và gia đình cấm. + Tranh chấp phát sinh từ vi phạm pháp luật mà theo quy định những vi phạm đó chưa đến mức bị xử lý bằng biện pháp hành chính như trộm cắp vặt, đánh chửi nhau gây mất trật tự công cộng, đánh nhau gây thương tích nhẹ, va quệt xe cộ gây thương tích nhẹ. Như vậy, việc hoà giải được tiến hành đối với các tranh chấp phát sinh từ những vi phạm pháp luật mà theo quy định của pháp luật, những vi phạm đó chưa đến mức xử lý bằng biện pháp hành chính hoặc biện pháp hình sự. Đó là những vi phạm pháp luật nhỏ, nghĩa là vi phạm pháp luật thuộc loại này có thể có các yếu tố cấu thành tội song chưa tới mức nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi gây ra là chưa đáng kể, ví dụ: hành vi ăn trộm con gà, buồng chuối hay hành vi đánh nhau gây thương tích nhẹ - Những vụ việc không được hoà giải Theo quy định tại khoản 2 Điều 4 của Nghị định 160/1999/Nđ-Cp thì tổ hoà giải không được tiến hành hoà giải các vụ việc sau: Thứ nhất, các tội phạm hình sự Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa Việt Nam Các tội phạm hình sự cụ thể được quy định tại phần các tội phạm (từ Chương XI đến Chương XXIV) của Bộ luật hình sự năm 1999. Riêng đối với các hành vi vi phạm pháp luật hình sự mà người bị hại không yêu cầu khởi tố hoặc rút yêu cầu khởi tố vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, Viện kiểm sát hoặc Toà án không tiếp tục tiến hành việc tố tụng và không bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính theo quy định 16 của pháp luật đối với các hành vi cố ý như: cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác thì có thể hoà giải. Thứ hai, hành vi vi phạm pháp luật bị xử lý vi phạm hành chính gồm: - Hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy tắc quản lý nhà nước mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị xử lý vi phạm hành chính; - Hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của pháp luật phải bị áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hành chính như: giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục; đưa vào cơ sở chữa bệnh; quản chế hành chính. Thứ ba, Các vi phạm pháp luật và tranh chấp mà theo quy định của pháp luật không được hoà giải quy định tại điểm c khoản 2 Điều 3 của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở bao gồm: - Kết hôn trái pháp luật: kết hôn trái pháp luật là những trường hợp như: tảo hôn (nam dưới 20 tuổi, nữ dưới 18 tuổi); việc kết hôn bị ép buộc, cưỡng ép, vi phạm nguyên tắc tự nguyện; việc kết hôn thuộc một trong những trường hợp Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn như: đang có vợ hoặc có chồng; người mất năng lực hành vi dân sự; giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi... - Gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước: người nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản nhà nước, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây thiệt hại cho tài sản của Nhà nước có giá trị từ 50 triệu đồng trở lên thì xử lý bằng biện pháp hình sự, không tiến hành hoà giải. - Tranh chấp phát sinh từ giao dịch trái pháp luật là giao dịch vi phạm một trong những điều kiện sau: + Người tham gia giao dịch không có năng lực hành vi dân sự để thực hiện giao dịch đó. Năng lực hành vi dân sự (là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình để xác lập, thực hiện các quyền và nghĩa vụ dân sự). Theo pháp luật dân sự, người chưa đủ 6 tuổi thì không có năng lực hành vi dân sự, người thành niên (đủ 18 tuổi trở lên) nhưng mất năng lực hành vi dân sự như người mắc bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình; + Mục đích và nội dung của giao dịch trái pháp luật, trái đạo đức xã hội; + Người tham gia giao dịch không hoàn toàn tự nguyện, bị lừa dối hoặc cưỡng ép; 17 + Hình thức giao dịch không phù hợp với quy định của pháp luật . Do đó, các tranh chấp phát sinh từ giao dịch dân sự trái pháp luật là những giao dịch mà mục đích và nội dung là trái pháp luật, trái đạo đức xã hội như giao dịch mua bán thuốc phiện, ma tuý, mại dâm; hình thức giao dịch dân sự không phù hợp pháp luật như việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất chỉ thực hiện bằng lời nói, bằng miệng, trong khi pháp luật quy định phải làm bằng văn bản. - Tranh chấp về lao động Đó là những tranh chấp về quyền và lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác, về thực hiện hợp đồng lao động, thoả ước lao động tập thể và trong quá trình học nghề. Tranh chấp lao động bao gồm tranh chấp lao động cá nhân giữa người lao động với người sử dụng lao động và tranh chấp tập thể giữa người lao động với người sử dụng lao động. Các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân gồm: Hội đồng hoà giải lao động cơ sở hoặc hoà giải viên lao động của cơ quan lao động cấp huyện và Toà án nhân dân. Cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động tập thể gồm Hội đồng hoà giải lao động cơ sở, hoà giải viên lao động của cơ quan lao động cấp tỉnh và Toà án nhân dân. Tranh chấp lao động không thuộc thẩm quyền giải quyết của tổ hoà giải cơ sở ở thôn, xóm, làng, bản, ấp, tổ dân phố, cụm dân cư. 3. Quản lý nhà nước về công tác hoà giải 3.1 Quản lý nhà nước về hoà giải ở cơ sở Hoà giải ở cơ sở là một hoạt động mang tính xã hội tự nguyện, tự quản đã trở thành đạo lý truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. hoà giải ở cơ sở không chỉ đơn thuần góp phần hạn chế các tranh chấp dân sự và phòng ngừa tội phạm, vận động nhân dân sống và làm việc theo pháp luật, củng cố tình làng, nghĩa xóm, tăng cường tình đoàn kết trong cộng đồng dân cư mà còn góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh, tế xã hội. Duy trì, phát triển, không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác hoà giải ở cơ sở cũng chính là góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước, quản lý xã hội của Nhà nước, đặc biệt là Nhà nước ta, nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Vì vậy, để phát huy tốt nhất hiệu quả đối với đời sống xã hội, hoà giải ở cơ sở cần phải được sự quan tâm chỉ đạo, hướng dẫn, tạo điều kiện từ phía Nhà nước. Quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở được hiểu là hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm tạo ra các điều kiện để công nhận, xác 18 lập, duy trì, ổn định và phát triển tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở, bảo đảm cho hoạt động hoà giải ở cơ sở đạt hiệu quả, vừa tuân theo các quy định pháp luật vừa giữ gìn và không ngừng vun đắp cho nghĩa tình, đạo lý giữa con người với nhau trong đời sống cộng đồng, xã hội theo truyền thống “tối lửa tắt đèn có nhau” của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cuộc sống đặt ra nhiều vấn đề buộc chúng ta phải bảo tồn, phát huy những giá trị truyền thống, nếp sống văn minh trong sinh hoạt cộng đồng được cha ông chắt lọc qua bao nhiêu thế hệ. Hòa giải “một điều nhịn, chín điều lành”, “chín bỏ làm mười”, “có lý, có tình” là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam. ý thức rõ điều này, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến công tác hoà giải, đã có những biện pháp phù hợp nhằm duy trì, củng cố và phát triển công tác hoà giải, tạo cơ sở pháp lý cho công tác này không ngừng phát triển và phát huy tác động tích cực đối với đời sống. 3.2 Nội dung quản lý các cơ quan quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở Theo quy định tại Điều 6 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở; Điều 5, Điều 6 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ban hành ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở thì nội dung quản lý nhà nước về công tác hoà giải bao gồm: - Ban hành văn bản pháp luật về tổ chức và hoạt động hoà giải; - Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động hoà giải; - Tổ chức bồi dưỡng đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hoà giải cho người làm công tác hoà giải; - Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải. Các cơ quan quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở bao gồm: Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về công tác hoà giải trong phạm vi cả nước; Bộ Tư pháp chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở cơ sở và chỉ đạo, hướng dẫn Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở địa phương. Cụ thể như sau: a. Bộ Tư pháp có trách nhiệm - Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động hoà giải trình Chính phủ ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền; - Hướng dẫn về tổ chức và hoạt động hoà giải trong phạm vi cả nước; 19 - Tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn các Sở Tư pháp tổ chức bồi dưỡng về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hoà giải cho người làm công tác hoà giải; - Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải trong phạm vi cả nước. b. Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở địa phương theo sự chỉ đạo và hướng dẫn của Bộ Tư pháp Căn cứ tình hình cụ thể và khả năng ngân sách của địa phương, Uỷ ban nhân dân các cấp tạo điều kiện, hỗ trợ về kinh phí cho việc kiện toàn tổ chức, bồi dưỡng nghiệp vụ, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động hoà giải ở địa phương. c. Trách nhiệm của cơ quan tư pháp địa phương về công tác hoà giải ở cơ sở Sở Tư pháp, Phòng Tư pháp, Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn giúp Uỷ ban nhân dân cùng cấp thực hiện quản lý nhà nước về công tác hoà giải ở địa phương. Sở Tư pháp có trách nhiệm: - Dự thảo văn bản quy phạm pháp luật về công tác hoà giải trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ban hành. Hướng dẫn việc thực hiện quy định của cấp trên về tổ chức và hoạt động hoà giải trong phạm vi địa phương; - Tổ chức bồi dưỡng và hướng dẫn Phòng Tư pháp tổ chức bồi dưỡng về đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nâng cao nghiệp vụ hoà giải cho người làm công tác hoà giải; - Sơ kết, tổng kết và báo cáo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và Bộ Tư pháp về công tác hoà giải ở địa phương; tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải ở địa phương. Phòng Tư pháp có trách nhiệm: - Theo sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên và của Uỷ ban nhân dân cấp huyện, hướng dẫn các Ban Tư pháp triển khai thực hiện các quy định về công tác hoà giải ở địa phương; đề xuất với Uỷ ban nhân dân cấp huyện biện pháp kiện toàn tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động hoà giải ở địa phương. - Tổ chức bồi dưỡng kiến thức pháp luật, nghiệp vụ hoà giải cho đội ngũ hoà giải viên ở địa phương theo hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên. Việc bồi dưỡng nghiệp vụ cần căn cứ vào trình độ cụ thể của đội ngũ hoà giải viên ở địa phương và yêu cầu giải quyết các vụ việc hoà giải thường xảy ra ở địa phương. Tránh việc bồi dưỡng chung chung hoặc đơn thuần chỉ thực hiện bồi dưỡng theo chỉ đạo của cấp trên. 20 - Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo công tác hoà giải với Uỷ ban nhân dân cấp huyện và cơ quan tư pháp cấp trên; tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương. Ban Tư pháp có trách nhiệm: Ban Tư pháp là cơ quan chuyên môn của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn được thành lập để giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện các công tác tư pháp ở cơ sở và công tác hoà giải ở địa phương có trách nhiệm cụ thể như sau: - Kiện toàn tổ chức, củng cố đội ngũ những người làm công tác hoà giải: + Rà soát, nắm chắc số lượng tổ hoà giải và số lượng, chất lượng hoà giải viên hiện có ở địa phương được thành lập trước ngày Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở có hiệu lực để trình Uỷ ban nhân dân cùng cấp ra quyết định công nhận (nếu nội dung này chưa được thực hiện); + Đối chiếu với yêu cầu nhiệm vụ cụ thể của địa phương để thực hiện các thủ tục thành lập tổ hoà giải mới; + Phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc xã (phường, thị trấn) hướng dẫn việc thực hiện các thủ tục, trình tự thành lập tổ hoà giải, bầu, miễn nhiệm Tổ trưởng, tổ viên Tổ hoà giải theo đúng quy định của pháp luật và hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên (trực tiếp là phòng Tư pháp); + Tham mưu cho Uỷ ban nhân dân cấp xã ra quyết định công nhận tổ hoà giải, tổ viên, tổ trưởng tổ hoà giải trên cơ sở kết quả bầu của nhân dân; + Theo dõi hoạt động hoà giải, nắm chắc những khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, hoạt động của các tổ hoà giải và hoà giải viên; đề xuất các biện pháp giải quyết với Uỷ ban nhân dân xã hoặc các cơ quan, ngành liên quan. - Thực hiện việc bồi dưỡng nghiệp vụ hoà giải, cung cấp tài liệu nghiệp vụ cho tổ hoà giải ở địa phương theo sự hướng dẫn của cơ quan tư pháp cấp trên: + Thường xuyên theo dõi, nắm bắt trình độ, năng lực của đội ngũ tổ viên Tổ hoà giải ở cơ sở; + Xây dựng trình Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phê duyệt các chương trình, kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải cho tổ viên Tổ hoà giải (Chương trình, kế hoạch phải phù hợp với trình độ của các tổ viên Tổ hoà giải, phù hợp với yêu cầu giải quyết các vụ việc hoà giải thường gặp ở địa phương); + Sau khi các chương trình, kế hoạch bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải được phê duyệt, Ban Tư pháp cùng với sự chỉ đạo của cơ quan tư pháp cấp trên, phối hợp với các luật gia, chuyên gia có kinh nghiệm tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch đó; 21 + Sưu tầm, tổng hợp tài liệu nghiệp vụ cần thiết về công tác hoà giải cung cấp cho các tổ hoà giải, nếu có điều kiện cấp đến tận tổ viên Tổ hoà giải. - Sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương và báo cáo công tác hoà giải với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn và cơ quan tư pháp cấp trên: + Theo dõi, tổng hợp, thống kê nắm chắc số liệu về các loại vụ việc tiếp nhận, các vụ việc đã hoà giải thành, đang hoà giải, hoà giải không thành, số vụ việc chuyển lên cơ quan có thẩm quyền khác giải quyết, để từ đó đánh giá những mặt mạnh, mặt yếu, tồn tại, khó khăn, nguyên nhân, hiệu quả của công tác này và rút ra kinh nghiệm hay, điển hình tốt; + Tổ chức sơ kết, tổng kết công tác hoà giải của Tổ hoà giải ở địa phương; + Báo cáo công tác hoà giải với Uỷ ban nhân dân xã (phường, thị trấn) và cơ quan tư pháp cấp trên. - Tổ chức thi đua, khen thưởng công tác hoà giải ở địa phương + Trên cơ sở mục tiêu, phương hướng hoạt động hoà giải ở địa phương, phát động phong trào thi đua trong hoạt động hoà giải; + Sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua; + Thực hiện khen thưởng hoặc đề xuất cấp trên khen thưởng những tập thể, cá nhân điển hình trong công tác hoà giải. 3.3 Về kinh phí và các điều kiện vật chất cho công tác hoà giải ở cơ sở Căn cứ vào tình hình cụ thể và khả năng ngân sách của địa phương, Ban Tư pháp lập dự trù kinh phí đề nghị Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn hỗ trợ cho công tác hoà giải (hỗ trợ cho việc kiện toàn tổ chức tổ hoà giải, tổ chức tập huấn, bồi dưỡng kiến thức pháp luật và nghiệp vụ hoà giải, họp giao ban, sơ kết, tổng kết, thi đua, khen thưởng, mua tài liệu pháp luật, tài liệu nghiệp vụ hoà giải, giấy, bút, sổ sách ghi chép). Có thể huy động các doanh nghiệp, tổ chức, đoàn thể và cá nhân có điều kiện hỗ trợ tiền, vật chất cho công tác hoà giải. 4. Hoạt động hoà giải 4.1 Các trường hợp tiến hành hoà giải - Hoạt động của Tổ hoà giải Việc hoà giải do các tổ viên Tổ hoà giải tiến hành hoặc tổ chức tiến hành trong các trường hợp sau: 22 + Tổ viên Tổ hoà giải chủ động tiến hành hoà giải hoặc mời người ngoài Tổ hoà giải thực hiện việc hoà giải theo sáng kiến của mình trong trường hợp trực tiếp chứng kiến hoặc biết về việc tranh chấp. Khi tổ viên Tổ hoà giải chứng kiến hoặc biết việc tranh chấp trong cộng đồng dân cư thì có thể tự mình chủ động gặp gỡ ngay các bên tranh chấp để thực hiện việc hoà giải. Việc chủ động có mặt của tổ viên Tổ hoà giải trong nhiều trường hợp là rất cần thiết, có thể giải quyết các việc vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ một cách kịp thời, tránh để chuyện bé xé ra to, việc đơn giản thành việc phức tạp. Tổ viên Tổ hoà giải có thể đứng ra tổ chức việc hoà giải theo sáng kiến của mình, có thể mời người ngoài Tổ hoà giải thực hiện việc hoà giải để cùng thuyết phục các bên tranh chấp. Trong trường hợp tổ viên Tổ hoà giải mời người ngoài Tổ hoà giải cùng tham gia việc hoà giải thì tổ viên Tổ hoà giải vẫn đóng vai trò người thực hiện việc hoà giải và người được mời có vai trò giúp đỡ tổ viên thực hiện việc hoà giải. Người được mời có thể là người có trình độ pháp luật, có kiến thức xã hội, có uy tín, đóng vai trò “tư vấn pháp luật” cho tổ viên Tổ hoà giải. trong trường hợp cần thiết, “người được mời” tham gia thuyết phục các bên, phân tích về góc độ pháp lý đối với tranh chấp cho các bên hiểu và cùng thống nhất đi tới kết quả hoà giải. + Thực hiện việc hoà giải theo sự phân công của tổ trưởng Tổ hoà giải, theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân Bên cạnh việc chủ động tiến hành hoặc tổ chức tiến hành hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải còn thực hiện việc hoà giải theo sự phân công của Tổ trưởng hay theo đề nghị của các cơ quan, tổ chức hoặc cá nhân. Trong trường hợp này, tổ viên Tổ hoà giải phải tìm hiểu rõ các bên tranh chấp, nguyên nhân tranh chấp, dự kiến cách thức hoà giải cũng như việc có cần mời người ngoài Tổ hoà giải tham gia giải quyết tranh chấp hay không để việc hoà giải đạt được hiệu quả. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cần thiết tổ viên Tổ hoà giải có thể từ chối việc hoà giải hoặc đề nghị mời tổ viên khác vì thấy mình có liên quan đến vụ việc hoà giải hoặc liên quan đến một trong hai bên tranh chấp nhằm đảm bảo việc hoà giải được khách quan, công bằng. + Thực hiện việc hoà giải theo yêu cầu của một bên hoặc các bên tranh chấp Khi các bên tranh chấp tìm đến để yêu cầu thực hiện hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải cần cân nhắc xem việc tranh chấp được yêu cầu hoà giải có thuộc phạm vi giải quyết bằng hoà giải ở cơ sở hay không. Vì trong thực tiễn, phần lớn các bên tranh chấp tìm đến Tổ hoà giải là vì Tổ hoà giải là nơi thuận tiện nhất, giải quyết kịp thời các tranh chấp, xích mích vừa phát sinh... nên tạo được uy tín trong cộng đồng dân 23 cư, song cũng không ít trường hợp, các bên tranh chấp tìm đến Tổ hoà giải không phải để được giải quyết bằng con đường hoà giải đối với các tranh chấp, xích mích mà nhằm mục đích trốn tránh việc xử lý thoả đáng của pháp luật đối với hành vi vi phạm pháp luật mà họ gây ra. Ví dụ người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, phạm tội cố ý gây thương tích cho người khác nhưng lại tìm đến việc hoà giải để trốn tránh hình phạt của pháp luật. - Thông qua hoạt động của các tổ chức thích hợp khác của nhân dân ở thôn, xóm, bản, ấp, tổ dân phố và các cụm dân cư khác phù hợp với pháp luật, đạo đức xã hội và phong tục, tập quán tốt đẹp của nhân dân: hoà giải của các thành viên trong gia đình, họ tộc, hoà giải của các tổ chức tự quản của nhân dân, các đoàn thể xã hội... 4.2 Thời gian, địa điểm tiến hành việc hoà giải Về thời gian, tuỳ sự lựa chọn của các bên đương sự và tổ viên Tổ hoà giải để tiến hành việc hoà giải. Việc hoà giải có thể được tiến hành theo sáng kiến của tổ viên Tổ hoà giải ngay tại thời điểm xảy ra tranh chấp, nếu tổ viên Tổ hoà giải là người chứng kiến và xét thấy cần thiết phải hoà giải ngay. Thực tế cho thấy thời gian tốt nhất là vào lúc đã xong công việc, không còn bận rộn vào việc khác như buổi tối, ngày nghỉ, giờ nghỉ là những lúc thư thái, tĩnh tâm dễ cảm thông với nhau. Việc chọn thời gian do kinh nghiệm và điều kiện cụ thể của tổ viên cũng như hoàn cảnh của các bên, nhưng càng gần thời gian phát sinh mâu thuẫn, tranh chấp càng tốt (có thể ngay sau khi có tranh chấp). Địa điểm hoà giải do tổ viên Tổ hoà giải lựa chọn sao cho thuận lợi nhất cho việc hoà giải, phù hợp với nguyện vọng của các bên. Việc chọn địa điểm tuỳ thuộc kinh nghiệm của tổ viên Tổ hoà giải và điều kiện cụ thể nơi có vi phạm, tranh chấp. 4.3 Người tiến hành việc hoà giải Việc hoà giải có thể do một hoặc một số tổ viên Tổ hoà giải tiến hành (kể cả tổ trưởng Tổ hoà giải). Đây là một quy định rất đặc thù đối với hoạt động hoà giải ở cơ sở. Trong hoạt động hoà giải tại Toà án phải tuân theo thủ tục tố tụng, pháp luật quy định cụ thể số thẩm phán trong hội đồng xét xử đối với từng cấp xét xử và từng loại vụ việc. Hoà giải của tổ chức trọng tài, số trọng tài viên tham gia giải quyết vụ việc là một hoặc ba là do các bên tranh chấp yêu cầu. Nhưng đối với hoà giải ở cơ sở, pháp luật không quy định cụ thể số lượng tổ viên Tổ hoà giải tham gia hoà giải trong các trường hợp. Do vậy, các tổ viên Tổ hoà giải có thể tự quyết định số tổ viên tham gia hoà giải đối với từng vụ, việc cụ thể. Đối với những việc tranh chấp tương đối phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên gay gắt, sự có mặt của một số tổ viên 24 Tổ hoà giải sẽ tác động nhiều hơn đến khía cạnh tâm lý của các bên tranh chấp hoặc mỗi tổ viên Tổ hoà giải sẽ đứng ra thuyết phục mỗi bên. Trong trường hợp cần thiết, tổ viên tổ hoà giải có thể mời người ngoài Tổ thực hiện việc hoà giải hoặc cùng tham gia hoà giải. Người được mời có thể là người có trình độ pháp lý, có kiến thức xã hội và có uy tín đối với các bên tranh chấp. Trong từng trường hợp cụ thể, người được mời có thể là bạn bè thân thích, hàng xóm, láng giềng, người thân thích, người cao tuổi, già làng, trưởng bản, người biết rõ nguyên nhân tranh chấp... Những người được mời sẽ đóng vai trò giúp đỡ tổ viên thực hiện việc hoà giải, cùng giải thích, thuyết phục các bên, giúp cho việc hoà giải đạt kết quả tốt. Tổ viên Tổ hoà giải không tiến hành việc hoà giải nếu họ là người có liên quan đến vụ việc cần được hoà giải hoặc vì những lý do cá nhân khác mà không thể bảo đảm hoà giải được khách quan hoặc không đem lại kết quả. Trong trường hợp này, Tổ trưởng Tổ hoà giải sẽ không phân công tổ viên đó thực hiện việc hoà giải. 4.4 Hoà giải các tranh chấp mà các đương sự ở các cụm dân cư khác nhau Trong trường hợp các bên tranh chấp ở các cụm dân cư có các tổ hoà giải khác nhau, thì các Tổ hoà giải phải có sự phối hợp để cùng giải quyết vụ việc. Việc phối hợp hoà giải phải do Tổ trưởng hoặc người được Tổ trưởng phân công hoà giải thực hiện. Các tổ viên là người thực hiện việc hoà giải cũng có thể chủ động phối hợp với nhau nhưng phải báo cáo ngay với Tổ trưởng về việc phối hợp thực hiện việc hoà giải. Thực tiễn công tác hoà giải thời gian qua cho thấy không ít những trường hợp các bên tranh chấp ở các cụm dân cư khác nhau (làng này với làng khác, thôn này với thôn khác, xã này với xã khác...) đã xảy ra thường khá phức tạp, gay gắt. Bởi vậy, những người thực hiện hoà giải ở các địa bàn khác nhau phải có sự phối hợp với nhau để giải quyết mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên. Trong trường hợp mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên gay gắt, có thể gây hậu quả ảnh hưởng đến trật tự, an ninh trên địa bàn dân cư thì các tổ hoà giải kiến nghị cơ quan có thẩm quyền có biện pháp giải quyết kịp thời. 5. Phương thức và các bước tiến hành hoà giải 5.1. Phương thức tiến hành hoà giải Việc hoà giải được tiến hành chủ yếu bằng lời nói: tổ viên Tổ hoà giải trực tiếp gặp gỡ các bên, dùng tình cảm, lý lẽ để thuyết phục các bên đạt được sự thoả thuận tự giải quyết các tranh chấp, vi phạm. 25 Trong trường hợp các bên tranh chấp yêu cầu tổ viên Tổ hoà giải lập biên bản hoà giải thì Tổ hoà giải lập biên bản. Tuy nhiên, biên bản hoà giải không phải là một chứng cứ pháp lý và cũng không làm phát sinh hậu quả pháp lý. Đó chỉ là sự thoả thuận giữa các bên mang ý nghĩa đạo lý, danh dự và tạo nên một sự ràng buộc về mặt đạo lý và tâm lý giữa các bên. Trong trường hợp đã có biên bản hoà giải thành nhưng sau đó các bên lại không muốn thực hiện thoả thuận đó thì không ai có quyền cưỡng chế các bên thi hành kết quả hoà giải thành đã được ghi nhận trong biên bản. Tổ hoà giải cũng chỉ có thể dựa vào biên bản hoà giải để thuyết phục các bên thực hiện kết quả hoà giải. Trong trường hợp được các bên đồng ý, việc hoà giải cũng có thể lập thành biên bản. Tổ viên Tổ hoà giải có thể dựa vào biên bản hoà giải để làm cơ sở cho việc thuyết phục các bên tranh chấp đạt tới thoả thuận và thực hiện thoả thuận. Đối với việc tranh chấp về hôn nhân và gia đình, nếu hoà giải không thành thì tổ viên Tổ hoà giải nên lập biên bản hoà giải không thành làm cơ sở pháp lý để Toà án thụ lý vụ việc. Tuy nhiên, từ quy định của Pháp lệnh, thì hoà giải do tổ hoà giải thực hiện không nhất thiết phải tuân theo một thủ tục chặt chẽ mà có thể tiến hành hoà giải ở mọi lúc, mọi nơi mà tổ viên Tổ hoà giải thấy thuận tiện cho việc hoà giải và việc hoà giải đạt kết quả, không cần trụ sở, biên bản, bàn giấytổ viên Tổ hoà giải chỉ dùng lời lẽ thuyết phục các bên, giúp họ đạt được thoả thuận. 5.2. Các bước tiến hành hoà giải Từ thực tiễn hoạt động hoà giải có thể khái quát các bước tiến hành hoà giải được thực hiện như sau: Bước 1: Trước khi hoà giải - Khi xảy ra vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp giữa các bên, người hoà giải cần có mặt kịp thời gặp gỡ các bên tranh chấp để can ngăn, dàn xếp, làm dịu tình hình căng thẳng giữa các bên khuyên nhủ hai bên có thái độ đúng mực, tôn trọng trật tự trị an. phải, trái, đúng, sai sẽ được giải quyết rõ ràng đồng thời nhắc nhở quần chúng xung quanh có trách nhiệm ổn định tình hình, không nên có thái độ châm chọc, kích động “lửa cháy đổ thêm dầu”, không nên kéo bè, lập cánh tổ chức thành cuộc ẩu đả lớn dẫn đến hành vi phạm tội Đối với những vụ việc như đánh nhau, gây mất trật tự, an ninh trên địa bàn dân cư, tổ viên Tổ hoà giải cần có biện pháp ngăn chặn kịp thời và hạn chế các thiệt hại về người, về vật chất có thể xảy ra; - Tìm hiểu nhanh nguyên nhân gây ra vụ việc, kịp thời thuyết phục, không để “việc bé xé ra to”, “việc đơn giản thành việc phức tạp”; 26 - Có thể hội ý nhanh trong tổ hoà giải để bàn biện pháp hoà giải, phân công các hoà giải viên nắm chắc vụ việc, tiếp xúc với các đương sự để tiến hành hoà giải kịp thời. Nếu gặp vụ việc tranh chấp phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên gay gắt, có thể gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự trong địa bàn dân cư thì Tổ hoà giải kịp thời báo cáo, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp giải quyết. Đây là bước quan trọng, nếu làm tốt bước này sẽ hạn chế, ngăn ngừa mâu thuẫn phát triển, tạo điều kiện cho việc hoà giải tiếp theo. Bước 2: Tiến hành hoà giải Đây là bước quan trọng có tính chất quyết định thành công hay thất bại của việc hoà giải. Để thực hiện bước này, tổ viên Tổ hoà giải cần làm những việc sau: - Trực tiếp trao đổi với từng bên, tìm hiểu thêm các nguyên nhân mâu thuẫn, tranh chấp phát sinh; - Lựa chọn thời gian thích hợp để các bên gặp gỡ, trao đổi phân tích vụ việc, làm rõ đúng sai, dựa vào quy định của pháp luật, truyền thống đạo đức, phong tục tập quán để phân tích cho các bên thấy rõ lỗi của mình; - Nắm chắc đặc điểm, tâm lý của từng bên cũng như tính chất vụ việc để áp dụng “nghệ thuật” hoà giải, tránh vội vàng, nôn nóng, “chụp mũ” hoặc làm tổn hại đến danh dự, tự ái cá nhân của các bên; - Khi hoà giải tại gia đình (hoặc nơi do các bên tranh chấp yêu cầu), chủ yếu dùng tình cảm, uy tín, lẽ phải để thuyết phục các bên, không nên hình thức, phức tạp hoá trong khâu tổ chức thực hiện; - Tuỳ từng trường hợp cụ thể, người tiến hành hoà giải chủ trì buổi gặp gỡ trao đổi, có thể mời thêm một số người làm chứng hoặc đại diện của một số tổ chức đoàn thể, người cao tuổi, người có uy tín, bạn bè thân thích... tham gia. Việc gặp gỡ trong buổi hoà giải phải tạo ra được thái độ thân mật, cởi mở và chân thành trên cơ sở “tình làng, nghĩa xóm”, không lấy biểu quyết hoặc dùng áp lực, áp đặt thoả thuận của các bên. Bước 3. Sau khi hoà giải Trong bước này, người tiến hành hoà giải có thể thực hiện các công việc sau: - Nếu vụ việc hoà giải thành, tổ viên Tổ hoà giải cần động viên, thăm hỏi các bên và nhắc nhở các bên thực hiện cam kết của mình, tạo điều kiện để họ thực hiện tốt cam kết. Có thể biểu dương, động viên kịp thời việc thực hiện các cam kết của các bên trong các cuộc họp dân cư; - Nếu vụ việc hoà giải không thành thì tổ hoà giải cần dàn xếp ổn định và hướng dẫn các bên đề nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. 27 Dù hoà giải thành hay không thành, người làm công tác hoà giải cũng cần ghi chép vào sổ công tác về hoà giải để phục vụ cho việc thống kê báo cáo và tổ chức hội ý rút kinh nghiệm trong tổ hoặc đề đạt xin ý kiến của Ban Tư pháp xã. Một số điểm cần lưu ý khi tiến hành hoà giải - Thường xuyên nắm tình hình để kịp thời phát hiện và có các biện pháp thích hợp để ngăn chặn các vi phạm pháp luật và tranh chấp nhỏ trong cộng đồng dân cư; - Cần tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các cá nhân, tổ chức có liên quan đến vụ việc hoà giải đặc biệt là những người có vai trò quan trọng và uy tín cao trong gia đình, họ tộc và trong cộng đồng dân cư. Đối với vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc cần chú ý và phát huy vai trò của Già làng, Trưởng buôn, Trưởng bản...; - Khi vận dụng các phong tục tập quán của từng địa phương vào việc hoà giải cần xem xét phong tục, tập quán đó có trái với chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước hay không. Chỉ được vận dụng các phong tục tập quán tốt đẹp, không trái với những quy định của pháp luật. 6. Kết thúc việc hoà giải Theo Điều 16 Nghị định số 160/1999/Nđ-Cp ban hành ngày 18/10/1999 thì việc hoà giải được kết thúc khi các bên đã đạt được thoả thuận và tự nguyện thực hiện thoả thuận đó. Trong trường hợp việc thực hiện thoả thuận đó có khó khăn, thì tổ viên Tổ hoà giải động viên, thuyết phục các bên thực hiện thoả thuận và có thể đề nghị Trưởng thôn, xóm, ấp, tổ dân phố hoặc kiến nghị với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn tạo điều kiện để các bên tự nguyện thực hiện thoả thuận. Nếu các bên không thể đạt được thoả thuận và việc tiếp tục hoà giải không đạt kết quả, thì tổ viên Tổ hoà giải hướng dẫn cho các bên làm thủ tục cần thiết để đề nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Đối với tranh chấp phức tạp, mâu thuẫn giữa các bên gay gắt, có thể gây hậu quả ảnh hưởng đến an ninh, trật tự trong địa bàn dân cư, thì tổ viên Tổ hoà giải kịp thời báo cáo cho Tổ trưởng Tổ hoà giải để kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp giải quyết. II. Vai trß cña tæ chøc MÆt trËn vµ c¸c thµnh viªn trong c«ng t¸c hoµ gi¶i Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và 28 người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đồng thời, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là bộ phận của hệ thống chính trị nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí, nguyện vọng, tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nơi hiệp thương, phối hợp và thống nhất hành động của các thành viên, góp phần giữ vững độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh (Điều 1 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam). Xuất phát từ vị trí, vai trò quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận... đối với công tác hoà giải ở cơ sở, Điều 5 Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở đã quy định: “Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với các cơ quan nhà nước hữu quan, động viên nhân dân trong việc xây dựng, củng cố Tổ hoà giải và các tổ chức hoà giải khác của nhân dân trong cộng đồng dân cư; giúp đỡ, tạo điều kiện cho hoạt động hoà giải ở cơ sở; tham gia hoà giải theo quy định của pháp luật.” Trong việc hoà giải tranh chấp đất đai, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cũng có vai trò rất quan trọng. Điều 135 Luật đất đai năm 2003 quy định: “Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai”. Nghị định số 50/2001/NĐ-CP ban hành ngày16/8/ 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tại khoản 3 Điều 6 đã quy định: “Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp chỉ đạo, hướng dẫn hoạt động của các tổ chức tự quản được thành lập theo quy định của pháp luật trong cộng đồng dân cư trên địa bàn”. Cụ thể hoá vấn đề này, vai trò của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc trước hết thể hiện qua việc tổ chức, xây dựng các Tổ hoà giải, lựa chọn, giới thiệu những người tiêu biểu, đủ tiêu chuẩn là tổ viên Tổ hoà giải để nhân dân bầu. Theo quy định tại Điều 7 của Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải ở cơ sở và Điều 8 Nghị định số 160/1999/NĐ-CP ngày 18/10/1999 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Pháp lệnh hoà giải: Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc xã, phường, thị trấn phối hợp với các tổ chức thành viên của Mặt trận lựa chọn, giới thiệu để nhân dân bầu tổ viên Tổ hoà giải. Đây là một thủ tục không thể thiếu để đảm bảo tính khách quan, chính xác và đúng đắn trong quyết định lựa chọn thành viên của Tổ hoà giải. Việc lựa chọn, 29 giới thiệu người của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt nam phải được tiến hành trên cơ sở sự đánh giá, nhận xét về năng lực, phẩm chất, thái độ, tinh thần tham gia trên thực tế của cá nhân đối với tập thể, cụ thể là việc tham gia các hoạt động, phong trào và hiệu quả công việc mà cá nhân đảm nhận tại địa phương; uy tín của cá nhân được lựa chọn; đảm bảo sự thống nhất ý kiến với các tổ chức thành viên Sau khi đã có kết quả lựa chọn, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiến hành giới thiệu, công bố danh sách các cá nhân tiêu biểu đã được chọn lựa để nhân dân bầu. Việc lựa chọn, giới thiệu người của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc có tác dụng quan trọng đến việc tổ chức và thành lập Tổ hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải tạo tiền đề để Tổ hoà giải, tổ viên Tổ hoà giải hoạt động có chất lượng và hiệu quả. với quy định này đã đánh giá cao vai trò là chất xúc tác của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với cách nhìn nhận công tâm và khách quan để giúp nhân dân lựa chọn, bình bầu vào Tổ hoà giải các hoà giải viên đảm đương được công việc, đảm bảo sự thành công cho công tác này. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên còn giúp đỡ, tạo điều kiện về nhân lực (con người), về tinh thần (động viên, khuyến khích, thuyết phục) đối với công tác hoà giải ở cơ sở, đồng thời tham gia hoà giải trực tiếp các vụ việc, các tranh chấp, xích mích trong nhân dân. Bên cạnh đó, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam còn phối hợp với các cơ quan hữu quan tham gia hướng dẫn hoạt động hoà giải về nghiệp vụ, về cơ cấu tổ chức và phối hợp tiến hành sơ kết, tổng kết công tác hoà giải ở cơ sở.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfto_chuc_thuc_hien_cong_tac_hoa_giai_tai_co_so_1793_2033508.pdf
Tài liệu liên quan