Tỷ lệ hiểu năng sinh sản ngày càng cao. Để giúp cho tinh trùng di chuyển đến trứng, ngoài tốc độ di
chuyển, tính chất di chuyển của tinh trùng cũng rất quan trọng. Hiện còn rất ít nghiên cứu đề cập đến tính
chất di chuyển của tinh trùng. Với thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm phân tích tính chất di
chuyển của tinh trùng của những người nam giới trong các cặp thiểu năng sinh sản và so sánh tính chất di
chuyển của tinh trùng của những người nam thiểu năng sinh sản và những người nam sinh sản bình thường.
Phân tích tốc độ di chuyển của tinh trùng của 129 người nam giới tuổi 25 - 48 chúng tôi thu được kết quả
sau: Tốc độ di chuyển của tinh trùng: những nam giới sinh sản bình thường có tốc độ di chuyển của tinh trùng
là: VCL = 89,71 + 19,8731, VAP = 58,35 + 12,9185, VSL = 45,44 + 9,7920. VCL, VAP, VSL ở nhóm thiểu
năng sinh sản nguyên phát và nhóm thiểu năng sinh sản thứ phát thấp hơn rõ rệt so với nhóm chứng. Tính
chất di chuyển của tinh trùng: LIN và STR của nhóm thiểu năng sinh sản cao hơn so với nhóm chứng. WOB
của nhóm thiểu năng sinh sản và nhóm chứng không có sự khác biệt.
8 trang |
Chia sẻ: Mịch Hương | Ngày: 29/03/2025 | Lượt xem: 26 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tính chất di chuyển của tinh trùng ở nam giới trong các cặp thiểu năng sinh sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
20 TCNCYH 82 (2) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÍNH CHẤT DI CHUYỂN CỦA TINH TRÙNG Ở NAM GIỚI
TRONG CÁC CẶP THIỂU NĂNG SINH SẢN
Lã Đình Trung, Trần Đức Phấn
Trường Đại học Y Hà Nội
Tỷ lệ hiểu năng sinh sản ngày càng cao. Để giúp cho tinh trùng di chuyển đến trứng, ngoài tốc độ di
chuyển, tính chất di chuyển của tinh trùng cũng rất quan trọng. Hiện còn rất ít nghiên cứu đề cập đến tính
chất di chuyển của tinh trùng. Với thực tế trên, chúng tôi tiến hành đề tài này nhằm phân tích tính chất di
chuyển của tinh trùng của những người nam giới trong các cặp thiểu năng sinh sản và so sánh tính chất di
chuyển của tinh trùng của những người nam thiểu năng sinh sản và những người nam sinh sản bình thường.
Phân tích tốc độ di chuyển của tinh trùng của 129 người nam giới tuổi 25 - 48 chúng tôi thu được kết quả
sau: Tốc độ di chuyển của tinh trùng: những nam giới sinh sản bình thường có tốc độ di chuyển của tinh trùng
là: VCL = 89,71 + 19,8731, VAP = 58,35 + 12,9185, VSL = 45,44 + 9,7920. VCL, VAP, VSL ở nhóm thiểu
năng sinh sản nguyên phát và nhóm thiểu năng sinh sản thứ phát thấp hơn rõ rệt so với nhóm chứng. Tính
chất di chuyển của tinh trùng: LIN và STR của nhóm thiểu năng sinh sản cao hơn so với nhóm chứng. WOB
của nhóm thiểu năng sinh sản và nhóm chứng không có sự khác biệt.
Từ khóa: thiểu năng sinh sản, tinh trùng, độ di động của tinh trùng, LIN, STR, WOB
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Thiểu năng sinh sản gặp với tỷ lệ ngày
càng cao [4]. Đối với thiểu năng sinh sản nam
giới, nguyên nhân phổ biến nhất là sự bất
thường về tinh dịch đồ, trong đó bất thường
về độ di động của tinh trùng chiếm tỷ lệ cao
nhất [2, 6].
Tốc độ di chuyển của tinh trùng có tính
chất quyết định cho khả năng thụ thai, vì trứng
không di động, còn tinh trùng thì phải di
chuyển một quãng đường rất xa mới đến
được với trứng.
Câu hỏi đặt ra là: tốc độ di chuyển của tinh
trùng là bao nhiêu? Tính chất di chuyển như
thế nào thì có lợi cho quá trình thụ tinh? Có sự
khác biệt về tốc độ di chuyển, tính chất di
chuyển của tinh trùng giữa những nam giới
khoẻ mạnh và những nam giới thiểu năng sinh
sản không?
Để trả lời những câu hỏi trên, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu “Tính chất di chuyển của
tinh trùng ở các nam giới trong các cặp thiểu
năng sinh sản” nhằm các mục tiêu:
1. Phân tích tính chất di chuyển của tinh
trùng của những người nam giới trong các
cặp thiểu năng sinh sản.
2. So sánh tính chất di chuyển của tinh
trùng của những người nam thiểu năng sinh
sản và những người nam sinh sản bình thường.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu là 129 người nam
giới tuổi từ 25 - 48, kiêng xuất tinh 3 - 5 ngày,
có mật độ tinh trùng > 20 triệu tinh trùng/ml,
đến xét nghiệm tại labo của bộ môn Y sinh
học - Di truyền trường Đại học Y Hà Nội từ
tháng 12/ 2010 đến tháng 6 / 2011. Nghiên
cứu có hai nhóm:
Địa chỉ liên hệ: Lã Đình Trung - Bộ môn Sinh học Di
truyền - Trường Đại học Y Hà Nội
Email: ladinhtrungvn@gmail.com
Ngày nhận: 04/1/2013
Ngày được chấp thuận: 26/4/2013
TCNCYH 82 (2) - 2013 21
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
- Nhóm nam giới trong các cặp thiểu năng
sinh sản: gồm 27 người chưa từng có thai
(thiểu năng sinh sản nguyên phát), 56 người
trước đây đã có con nhưng nay muốn có con
tiếp mà hơn 12 tháng không thể có thai (thiểu
năng sinh sản thứ phát), tổng 83 người.
- Nhóm chứng: 46 nam giới trong các cặp
sinh sản bình thường, đã có con, họ đi kiểm
tra để chuẩn bị cho lần sinh tiếp theo (nhóm
này không gồm những người muốn có con mà
trong 12 tháng sinh hoạt tình dục bình thường
không có thai được).
2. Phương pháp
Nghiên cứu dịch tễ học mô tả cắt ngang.
Các chỉ số nghiên cứu:
- Tốc độ di chuyển của tinh trùng (đo tốc
độ trung bình của 100 tinh trùng di động
nhanh và di động chậm).
+ VCL (Curvilnear velocity) (μ/s): Tốc độ
đường cong: là tốc độ trung bình được tính từ
tổng các đường thẳng nối liên tục vị trí của
đầu tinh trùng trong quá trình chuyển động.
+ VAP (Average path velocity) (μ/s): là tốc
độ theo đường trung vị: tốc độ trung bình của
đầu tinh trùng dọc theo con đường trung vị
của nó.
+ VSL (Straight line velocity) (μ/s): Tốc độ
tuyến tính: là tốc độ trung bình được tính theo
đường thẳng là khoảng cách giữa điểm bắt
đầu và điểm kết thúc của quá trình chuyển
động của tinh trùng.
- Tính chất di chuyển của tinh trùng:
+ Tính tuyến tính (Linearity): Tính tuyến
tính của đường cong.
LIN = VSL/VCL x 100
+ Tính tiến thẳng (Straightess): Tính tuyến
tính của con đường trung vị.
STR = VSL/VAP x 100
+ Tính dao động (Wobble): Thước đo độ
dao động của con đường thực tế về con
đường trung vị.
WOB = VAP/VCL x 100
Hình 1. Tốc độ di chuyển của tinh trùng
3. Xử lý số liệu
Các số liệu thu được được xử lý theo
chương trình Epi info 6.4.
4. Đạo đức nghiên cứu
Mọi thông tin về bệnh nhân đều được giữ
bí mật và chỉ được phân tích tổng hợp phục
vụ cho việc tư vấn sinh sản cho bệnh nhân và
cho nghiên cứu này, không sử dụng vào bất
kỳ mục đích nào khác. Không công bố thông
tin cá nhân.
22 TCNCYH 82 (2) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
III. KẾT QUẢ
1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
1.1. Đặc điểm tuổi của các đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình của các bệnh nhân nghiên cứu là 32,89 + 5,88 tuổi. Tuổi của các bệnh nhân
được phân bố 8 tuổi/nhóm theo lý luận thiên quý y học cổ truyền [3].
Bảng 1. Phân bố về độ tuổi của các đối tượng nghiên cứu
Nhóm tuổi
Chứng TNSS
p
n1 % n2 %
25 - 32 17 23,3 56 67,5
p < 0,05
33 - 40 21 45,7 20 24,1
41 - 48 8 17,4 7 8,4
Tổng 46 100 83 100
Nhóm nghiên cứu
* TNSS: thiểu năng sinh sản.
Kết quả thu được ở bảng 3.1 cho thấy:
Nghiên cứu được tiến hành trên những nam giới có độ tuổi từ 25 - 48. Ở cả nhóm chứng và
nhóm thiểu năng sinh sản, đa số bệnh nhân nghiên cứu ở độ tuổi từ 25 - 40 là độ tuổi sinh đẻ,
nhóm chứng có 79,0% và nhóm thiểu năng sinh sản có 91,6%.
Ở nhóm chứng nhiều nhất là độ tuổi 33 - 40, chiếm 45,7%, độ tuổi 25 - 32 có 23,3% và ít
nhất là độ tuổi 41 - 48, có 17,4%. Ở nhóm thiểu năng sinh sản, nhiều nhất là những bệnh nhân
trẻ ở độ tuổi 25 - 32, chiếm 67,5%, độ tuổi 33 - 40 chiếm 24,1% và độ tuổi ít nhất là 41 - 48
chiếm 8,4%.
Sự khác biệt về độ tuổi giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).
1.2. Phân bố về nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu
Bảng 2. Phân bố về nghề nghiệp của các đối tượng nghiên cứu
Nhóm tuổi
Nhóm nghiên cứu Chứng TNSS
p
n1 % n2 %
Lao động chân tay 21 45,7 42 50,6
p > 0,05 Lao động trí óc 25 54,3 41 49,4
Tổng 46 100 83 100
* TNSS: thiểu năng sinh sản.
Nhóm chứng có 45,7% lao động chân tay, 54,3% lao động trí óc. Nhóm thiểu năng sinh sản có
50,6% lao động chân tay, 49,4% lao động trí óc. Sự khác biệt về nghề nghiệp giữa nhóm chứng
và nhóm thiểu năng sinh sản không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05).
TCNCYH 82 (2) - 2013 23
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
1.3. Phân loại bệnh nhân trong nhóm thiểu năng sinh sản
6 7 .5
3 2 .5
0 2 0 4 0 6 0 8 0
T N S S n g u y ªn p h ¸ t
(n = 5 6 )
T N S S th ø p h ¸ t
(n = 2 7 )
p < 0,05
Biểu đồ 1. Tỷ lệ bệnh nhân trong các nhóm thiểu năng sinh sản
Tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm thiểu năng sinh sản nguyên phát cao hơn tỷ lệ bệnh nhân trong
nhóm thiểu năng sinh sản thứ phát (p < 0,05).
2. Tốc độ di chuyển của tinh trùng
2.1. Tốc độ tuyến tính
Bảng 3. Tốc độ tuyến tính (VSL), tốc độ theo con đường trung vị (VAP),
tốc độ đường cong (VCL)
Nhóm
VSL
( + SD)
VAP
( + SD)
VCL
( + SD) p
Chứng (1)
n = 46 45,44 + 9,79 58,35 + 12,92 89,71 + 19,87 p1-2 < 0,01
p1-3 < 0,01
p2-3 > 0,05
p1-2-3 < 0,001
Thiểu năng sinh sản
nguyên phát (2) n = 56 39,34 + 9,46 48,68 + 12,33 73,82 + 18,27
Thiểu năng sinh sản
thứ phát (3) n = 27 38,70 + 9,26 46,22 + 11,58 68,35 + 15,59
Chỉ số nghiên
cứu X X X
Tốc độ tuyến tính, tốc độ theo con đường trung vị và tốc độ đường cong ở nhóm chứng cao
hơn rõ rệt so với nhóm thiểu năng sinh sản nguyên phát và nhóm thiểu năng sinh sản thứ phát
(p < 0,01). Tốc độ tuyến tính ở 2 nhóm thiểu năng sinh sản khác biệt không có ý nghĩa thống kê
(p > 0,05).
2.2. Mối liên quan giữa tốc độ tinh trùng với các nhóm tuổi
Kết quả biểu đồ 2 cho thấy: trong nghiên cứu, người nam giới ở độ tuổi 33 - 40 có tốc độ tinh
trùng cao nhất. Sau đó đến tốc độ tinh trùng của nam giới ở độ tuổi 25 - 32, và thấp nhất là tốc độ
tinh trùng ở độ tuổi 41 - 48. Tuy nhiên sự khác biệt về tốc độ tinh trùng giữa các nhóm tuổi không
có ý nghĩa thống kê với p > 0,05.
24 TCNCYH 82 (2) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Biểu đồ 2. Mối liên quan giữa tốc độ tinh trùng với các nhóm tuổi
3.3. Tính chất di chuyển của tinh trùng
Bảng 4. So sánh tính chất di chuyển của tinh trùng
0
25
50
75
100
VSL VAP VCL
25 - 32 (n = 73) 33 - 40 (n = 41) 41 - 48 (n = 15)
Tính chất
Chứng
n = 46
Thiểu năng sinh sản
n = 83 p
LIN ( + SD) 51,14 + 7,0596 54,96 + 8,3998 p1-2 < 0,05
STR ( + SD) 78,32 + 6,3973 82,27 + 6,4599 p1-2 < 0,05
WOB ( + SD) 65,16 + 5,7077 66,58 + 6,8681 p1-2 > 0,05
Nhóm NC
X
X
X
Tính tuyến tính và tính tiến thẳng của nhóm chứng thấp hơn so với nhóm thiểu năng sinh sản
(p < 0,05).
Tính dao động của nhóm chứng và nhóm thiểu năng sinh sản không có sự khác biệt (p > 0,05).
IV. BÀN LUẬN
Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu
Tuổi trung bình của các đối tượng nghiên
cứu là 32,89 + 5,88 tuổi, trong đó nhóm thiểu
năng sinh sản tuổi trung bình là 31,76 + 5,79.
Độ tuổi này có phần trẻ hơn so với các nghiên
cứu của các tác giả khác. Có khả năng nhu
cầu xã hội ngày càng phát triển sức khỏe sinh
sản ngày càng được quan tâm, vì thế nhu cầu
khám và điều trị sớm hơn so với trước đây.
Kết quả từ bảng 1 cho thấy đa số bệnh
nhân đến khám là những bệnh nhân ở độ tuổi
25 - 40 tuổi. Trong nhóm thiểu năng sinh sản,
đa số bệnh nhân ở độ tuổi 25 - 32 tuổi, điều
này chứng tỏ nhu cầu khám và điều trị thiểu
năng sinh sản ở những người trẻ rất cao.
Thực tế những người nam trẻ tuổi có nhu cầu
khám chữa bệnh cao chứng tỏ nhận thức xã
hội về thiểu năng sinh sản ngày càng tăng.
Độ tuổi nhiều nhất ở nhóm chứng là
33 - 40 tuổi. Điều này có lẽ do hiện nay đa số
thanh niên kết hôn ở độ tuổi khoảng 30 [5],
sau đó mới có con. Độ tuổi ít bệnh nhân nhất
là 41 - 48 tuổi. Bệnh nhân có xu hướng khám
chữa bệnh từ sớm, độ tuổi 41 - 48 nhu cầu
sinh con cũng giảm đi so với các độ tuổi trước.
TCNCYH 82 (2) - 2013 25
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Nghề nghiệp của các đối tượng nghiên
cứu phân bố đều ở cả hai nhóm lao động
chân tay và lao động trí óc. Nguyên nhân gây
thiểu năng sinh sản rất đa dạng, có thể do tác
nhân vật lý, hóa học, bệnh lý nhiễm trùng cấp
và mạn tính, bệnh lây truyền qua đường tình
dục, dùng thuốc, phẫu thuật hoặc chấn
thương sinh dục, thậm chí thói quen uống
rượu, cà phê thuốc lá Vì vậy không có sự
khác biệt về nghề nghiệp của các đối tượng
nghiên cứu.
Tỷ lệ bệnh nhân trong nhóm thiểu năng
sinh sản nguyên phát (67,5%) cao hơn tỷ lệ
bệnh nhân trong nhóm thiểu năng sinh sản
thứ phát (32,5%). Khi tiến hành nghiên cứu
dịch tễ ở 10 trong số 28 quốc gia châu Phi, tác
giả Larsen (2000) nhận thấy tỷ lệ thiểu năng
sinh sản nguyên phát chiếm khoảng trên 3%
trong các cặp vợ chồng độ tuổi sinh đẻ,
nghiên cứu của Trần Đức Phấn và cộng sự
(2009) cho thấy tỷ lệ thiểu năng sinh sản
nguyên phát 1,29% thấp hơn thiểu năng sinh
sản thứ phát 22,51% [5]. Tuy nhiên khi thống
kê các cặp thiểu năng sinh sản đến khám và
điều trị ở các cơ sở khám chữa bệnh thì tỷ lệ
thiểu năng sinh sản nguyên phát cao hơn
thiểu năng sinh sản thứ phát [5]. Kết quả của
tôi cũng giống như những tác giả tiến hành
nghiên cứu tại các cơ sở khám, điều trị thiểu
năng sinh sản. Điều này cho thấy một thực tế,
mặc dù trong cộng đồng tỷ lệ thiểu năng sinh
sản thứ phát cao hơn, nhưng họ thường là
những cặp vợ chồng đã có con, do đó nhu
cầu khám chữa bệnh ít hơn, không cấp bách
như những cặp thiểu năng sinh sản nguyên
phát.
Tốc độ di chuyển của tinh trùng
Nghiên cứu được tiến hành với sự hỗ trợ
của máy CASA. Máy CASA cung cấp 3 chỉ số
tốc độ, đó là tốc độ tuyến tính, tốc độ đường
cong, tốc độ con đường trung vị. Trong đó chỉ
số tốc độ tuyến tính là thấp nhất, tốc độ
đường cong là tốc độ của tinh trùng chuyển
động theo quỹ đạo thực của nó, và là tốc độ
cao nhất. Đánh giá tốc độ di chuyển của tinh
trùng cho ta biết độ khỏe của tinh trùng.
Đo tốc độ tinh trùng cho ta biết độ khỏe
của tinh trùng. Kết quả từ bảng 3 cho thấy tốc
độ di chuyển của nhóm chứng cao hơn so với
nhóm thiểu năng sinh sản. Cả nhóm chứng và
nhóm thiểu năng sinh sản đều có các tinh
trùng di động nhanh, nhưng xét về độ khỏe thì
tinh trùng của nhóm chứng khỏe hơn tinh
trùng nhóm thiểu năng sinh sản, không có sự
khác biệt về độ khỏe giữa tinh trùng trong các
nhóm thiểu năng sinh sản.
Mối liên quan giữa tốc độ tinh trùng với
các nhóm tuổi
Kết quả biểu đồ 2 cho thấy, tinh trùng khỏe
nhất khi người nam giới ở độ tuổi 33 - 40, sau
đó là nhóm tuổi 25 - 32, và yếu nhất ở nhóm
tuổi 41 - 48. Theo tác giả Macleod, có xu
hướng giảm khả năng di động của tinh trùng ở
nam giới trên 40 tuổi [5]. Một nghiên cứu khác
của tác giả người Đức Krause (2000) đưa ra
kết luận trái ngược hoàn toàn rằng di động
của tinh trùng không thay đổi theo tuổi [5].
Tính chất di chuyển của tinh trùng
Dựa vào 3 chỉ số vận tốc thu được, tiến
hành tính toán theo các công thức người ta có
thể định lượng được tính chất di chuyển của
tinh trùng. Tính chất di chuyển của tinh trùng
cho biết khả năng tìm trứng của tinh trùng, vì
vậy đây cũng là chỉ số quan trọng để dự đoán
khả năng sinh sản của người nam giới.
Kết quả từ bảng 4 cho thấy tính tuyến tính
và tính tiến thẳng của nhóm chứng thấp hơn so
với nhóm thiểu năng sinh sản (p < 0,05). Tính
dao động của nhóm chứng và nhóm thiểu năng
sinh sản không có sự khác biệt (p > 0,05).
26 TCNCYH 82 (2) - 2013
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tính tuyến tính (LIN) được định nghĩa là
các tuyến tính của đường cong, là tỷ số giữa
VSL/VCLx100. Tính tuyến tính càng nhỏ chứng
tỏ sự khác biệt giữa VSL và VCL càng lớn. Nếu
hai bệnh nhân có chỉ số VSL như nhau, bệnh
nhân có VCL lớn hơn thì tính tuyến tính sẽ nhỏ
hơn và ngược lại. VCL lớn hơn dự báo quãng
đường đi thực của tinh trùng phức tạp hơn. Từ
kết quả nghiên cứu nhận thấy LIN của nhóm
chứng thấp hơn nhóm thiểu năng sinh sản,
gián tiếp thấy được rằng con đường đi thực
của tinh trùng nhóm chứng phức tạp hơn
nhóm thiểu năng sinh sản.
Tính tiến thẳng (STR) được định nghĩa là
các tuyến tính của con đường trung vị, là tỷ số
giữa VSL/VAPx100. Tính tiến thẳng càng nhỏ
chứng tỏ sự khác biệt giữa VAP và VSL càng
lớn, tinh trùng đổi hướng phức tạp hơn trong
quá trình di chuyển. Từ kết quả nghiên cứu
nhận thấy STR của nhóm chứng nhỏ hơn
nhóm thiểu năng sinh sản, gián tiếp đánh giá
được rằng tinh trùng nhóm chứng có khả
năng đổi hướng tốt hơn trong quá trình di
chuyển so với nhóm thiểu năng sinh sản.
Tính dao động (WOB) được định nghĩa là
thước đo độ dao động của con đường thực tế
về con đường trung vị, là tỷ số VAP/VCLx100.
Nghiên cứu nhận thấy không có sự khác biệt
giữa WOB của nhóm chứng và nhóm thiểu
năng sinh sản.
Có 4 loại hình thái di chuyển của tinh trùng
là di chuyển theo đường zigzag (tinh trùng dễ
thay đổi hướng di chuyển nhất, dễ tìm trứng
nhất), di chuyển theo hình sin (tinh trùng khó
thay đổi hướng hơn loại di chuyển zigzag, khó
tìm trứng hơn loại zigzag), di chuyển dạng
thẳng (tinh trùng loại này khó thay đổi hướng
hơn loại di chuyển hình sin, khó tìm trứng hơn
loại di chuyển hình sin), và cuối cùng là di
chuyển dạng amip (tinh trùng di chuyển chậm,
khó đổi hướng, khó tìm trứng nhất) [6]. Kết
quả nghiên cứu về tính chất di chuyển rất phù
hợp với những nhận định về hình thái di
chuyển trên đây.
So sánh với nhóm thiểu năng sinh sản,
nhóm chứng có LIN thấp hơn, STR thấp hơn,
do vậy có khả năng nhiều tinh trùng di
chuyển dạng zigzag, dạng hình sin hơn
nhóm thiểu năng sinh sản. Nhóm thiểu năng
sinh sản có LIN cao hơn, STR cao hơn, do
vậy tinh trùng di chuyển dạng thẳng, di
chuyển dạng amip chiếm tỷ lệ nhiều hơn
nhóm thiểu năng sinh sản.
V. KẾT LUẬN
Tốc độ di chuyển của tinh trùng
Những nam giới sinh sản bình thường có
tốc độ di chuyển của tinh trùng là:
VCL = 89,71 + 19,8731, VAP = 58,35 +
12,9185, VSL = 45,44 + 9,7920.
VCL, VAP, VSL ở nhóm thiểu năng sinh
sản nguyên phát và nhóm thiểu năng sinh sản
thứ phát thấp hơn ở nhóm chứng.
Tính chất di chuyển của tinh trùng
LIN và STR của nhóm thiểu năng sinh sản
cao hơn so với nhóm chứng.
WOB của nhóm thiểu năng sinh sản và
nhóm chứng không có sự khác biệt.
Lời cảm ơn
Để hoàn thành nghiên cứu này, chúng tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn đến các thày cô ở labo
xét nghiệm của bộ môn Y sinh học - Di truyền
đã tạo điều kiện thuận lợi cho nhóm nghiên
cứu tiến hành nghiên cứu đạt hiệu quả.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Quán Anh (2009). Tinh trùng,
Bệnh học giới tính nam. Nhà xuất bản Y học,
72 - 122.
2. Nguyễn Xuân Bái (2010). Nghiên cứu
mối liên quan giữa hình thái tinh trùng với một
TCNCYH 82 (2) - 2013 27
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
số thông số của tinh dịch đồ và FSH, LH,
Testosteron huyết thanh ở người có tinh dịch
đồ bất thường, Luận án tiến sỹ y học, Trường
Đại học Y Hà Nội.
3. Lê Huy Hảo, Đặng Tuấn Hưng (2003).
“Vô sinh”, Đông y trong điều trị bệnh nam giới,
Nhà xuất bản Thanh Hóa, 60 - 65.
4. Nguyễn Khắc Liêu (2003). Đại cương
về vô sinh. Chẩn đoán và điều trị vô sinh. Bộ
Y tế - Viện bảo vệ bà mẹ và trẻ sơ sinh, Nhà
xuất bản Y học, 7 - 8.
5. Trần Đức Phấn, Phan Thị Hoan, Lã
Đình Trung (2009). Tình hình thiểu năng sinh
sản ở 18 phường xã của Thái Bình, Y học
thực hành, 6 (664), 45 - 48.
6. Patrick J. Rowe, Frank H. Comhaire,
Thy P. Hargreave et al (1993). Male partner,
WHO manual for the standardized investiga-
tion and diagnosis of the infertile couple,
1 - 34.
7. WHO (1999). WHO laboratory manual
for the examination of human semen and
sperm-cervical mucus interaction, Cambridge
University Press.
8. WHO (2010). Part 1 Semen analysis,
WHO Laboraty manual for the Examination
and Processing of Human Semen, Fifth
Edition, 7 - 157.
Summary
A COMPARISON STUDY OF SPERM MOVEMENT IN
FERTILE AND INFERTILE MALES
According to several lines of studies, infertility rates among professional women as they put off
marriage for schooling and career advancement. To achieve effective fertilization, sperms have to
reach the expecting egg in a time manner. Sperm mobility and movement pattern were proposed
to be important factors in determining whether a sperm can reach the egg for fertilization. How-
ever, very few studies were focused on the pattern of sperm movement. Investigating whether
sperm movement pattern is an important factor in determining fertilization, we compared the
movement characteristics of sperms from males in infertile couples vs. males from fertile couples.
We collected 92 semen samples males with an age range from 25 - 48. We then compared the
movement characteristics of the sperms from both group. Results: We found that MEAN sperm
SPEED from fertile men were faster (VCL = 89.71 + 19.87, VAP = 58.35 + 12.92, VSL = 45.44 +
9.79 than sperms from primary and secondary infertile men. Similarly, the movement characteris-
tics (LIN and STR) of sperms from interfile males were lower than the control group, while there
were no differences in the side-to-side head movement of the sperm between sperms from
infertile and fertile males.
Keywords: Infertility, sperm, sperm motility, LIN, STR, WOB
Các file đính kèm theo tài liệu này:
tinh_chat_di_chuyen_cua_tinh_trung_o_nam_gioi_trong_cac_cap.pdf