Tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên

Một khi cơ sở tín ngưỡng còn tồn tại thì những hoạt động tín ngưỡng không thể mất đi theo thời gian. Đối với người Sán Dìu ở Đồng Hỷ, tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp từ xưa cho đến nay vẫn là chỗ dựa giúp con người vượt qua những khó khăn, bế tắc trong cuộc sống lao động sản xuất; là hoạt động tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người Sán Dìu ở địa phương. Đồng Hỷ là huyện nằm ở khu vực trung du miền núi phía Bắc, đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên. đã chi phối đến hình thức chăn nuôi đa phần theo lối quảng canh; mặt khác vai trò của chăn nuôi còn hạn chế, sản phẩm chủ yếu nhằm phục vụ cho các nhu cầu trong phạm vi gia đình. Chính vì vậy, hệ thống tín ngưỡng nông nghiệp tập trung vào tín ngưỡng trồng trọt là chủ yếu.

pdf5 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 25/03/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mai Thị Hồng Vĩnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 75 - 79 75 TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP CỦA NGƯỜI SÁN DÌU Ở HUYỆN ĐỒNG HỶ, TỈNH THÁI NGUYÊN Mai Thị Hồng Vĩnh* Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Tín ngưỡng là một hình thức văn hóa đặc trưng của con người; ra đời cùng với quá trình tồn tại và phát triển của nhân loại. Đối với người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, một địa phương nằm ở khu vực Trung du miền núi phía Bắc, hoạt động kinh tế chủ yếu là nông nghiệp với điều kiện sản xuất còn nhiều hạn chế, điều kiện tự nhiên khó khăn. Do đó, tôn giáo tín ngưỡng, đặc biệt tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tộc người. Các hoạt động tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp là một nhân tố quan trọng cấu thành nên đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Sán Dìu. Từ khóa: tôn giáo tín ngưỡng, văn hóa tinh thần, tín ngưỡng nông nghiệp, Đồng Hỷ. VÀI NÉT VỀ NGƯỜI SÁN DÌU * Người Sán Dìu sang Việt Nam từ khoảng cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vào thế kỷ XVII thành từng đợt, từng nhóm. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục đã nhắc đến cư dân này dưới tên gọi là Sơn Man, phổ biến với tên gọi là Trại Đất, Mán Quần Cộc. Họ cư trú ở vùng chân núi và vùng đồi suốt một dải ở miền trung du Bắc Bộ, rải rác từ Hà Cối, Tiên Yên, Móng Cái, Đầm Hà, Đồng Triều (Quảng Ninh), từ đó một nhóm tách ra ở Chí Linh (Hải Dương), đại bộ phận nay ở Lục Ngạn, Lục Nam, Lạng Giang (Bắc Giang), qua Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Yên lên đến Tuyên Quang. Họ sống xen kẽ với các cư dân trong vùng kề cạnh người Kinh, nên ở họ có hiện tượng đa ngữ, đa văn hóa. Ở tỉnh Thái Nguyên, người Sán Dìu cư trú tập trung đông nhất là huyện Đồng Hỷ người Sán Dìu ở Đồng Hỷ có 16.322 người chiếm hơn 15% dân số toàn huyện (106.769 người). Người Sán Dìu ở Việt Nam nói chung và huyện Đồng Hỷ nói riêng, là những cư dân làm nghề nông trồng lúa nước ở vùng nhiệt đới gió mùa. Ngay từ thời xa xưa, con người ở đây cũng như nhiều tộc người khác chịu ảnh hưởng của quan niệm vũ trụ luận nguyên sơ âm – dương tương khắc tương sinh, sự giao hòa đầy bí ẩn giữa âm dương là nguồn gốc * Tel: 0982050611; Hongvinh.dhkhtn@gmail.com sản sinh ra con người và vạn vật của vũ trụ. Hơn thế nữa, trong điều kiện xã hội cổ truyền còn lạc hậu, với sự trắc trở và khắc nghiệt của lụt bão, hạn hán, thiên tai, con người đành bất lực và hướng sự trợ giúp vào thần linh, ma quỷ, như câu ca dao của người Việt: “Trông trời, trông đất, trông mây; Trông mưa, trông gió, trông ngày, trông đêm”, chính là phản ánh sự bất lực của con người. Và từ đó, hàng loạt nghi lễ, ma thuật về nông nghiệp ra đời. Đúng như quan niệm của S.A.Tôcarep khi ông bàn tới nguồn gốc của lễ nghi nông nghiệp: “Nguồn gốc này chính là sự bất lực của con người trồng trọt. Cây trồng không phải bao giờ cũng được mùa,mùa màng bị phụ thuộc vào những điều kiện mà con người viện đến sự phù trợ, giúp đỡ việc trồng cấy, từ đó các nghi lễ ma thuật ra đời” [4, tr.84]. Ở người Sán Dìu cũng như nhiều tộc người thiểu số khác ở vùng núi, lễ nghi nông nghiệp diễn ra ở hầu khắp các công đoạn. Trong phạm vi bài viết này, dựa trên nguồn tư liệu thành văn đặc biệt là kết quả của chuyến điền dã thực tế tại địa phương chúng tôi tập trung khôi phục lại các hoạt động tín ngưỡng trong sản xuất nông nghiệp bao gồm: tín ngưỡng liên quan đến trồng trọt và chăn nuôi cũng như một số kiêng kỵ có liên quan nhằm góp phần tìm hiểu về đời sống tín ngưỡng của người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên. 80Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mai Thị Hồng Vĩnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 75 - 79 76 MỘT SỐ TÍN NGƯỠNG LIÊN QUAN ĐẾN NÔNG NGHIỆP Tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp của người Sán Dìu đã có từ lâu đời. Mặc dù ngày nay nó không còn y nguyên như thủa ban sơ, nhưng phải thừa nhận rằng, chừng nào cơ sở nhận thức và cơ sở kinh tế - xã hội của tín ngưỡng còn tồn tại thì nó còn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của đồng bào. Các tín ngưỡng nông nghiệp thường được tiến hành dựa theo chu kỳ mùa vụ của làng xóm bình an. Những tín ngưỡng này được sử dụng như một “vũ khí” để chống chọi với những khó khăn trong sản xuất đặc biệt là điều kiện tự nhiên. Ở người Sán Dìu, tín ngưỡng này tập trung ở một số hình thức chính sau: Lễ ra đồng: Nghi lễ này thường được tổ chức vào khoảng thời gian từ những ngày đầu của tháng giêng hàng năm tùy từng nơi có sự khác nhau, chẳng hạn trong cùng một xã Linh Sơn nhưng xóm Thông Nhãn tổ chức vào mồng 5 tết; xóm Thanh Chử tổ chức vào mồng 8 tết... Sau những ngày đón tết vui vẻ, để bắt đầu mọi công việc, đặc biệt là công việc đồng áng trong năm mới, người Sán Dìu tiến hành tổ chức lễ cúng các vị Thành hoàng tại đình làng với mục đích làm vừa lòng mong tiếp tục được các lực lượng siêu nhiên phù hộ. Các hộ dân trong làng hàng năm thay phiên nhau đứng ra lo liệu lễ vật. Sau khi mâm lễ được đặt lên, ông chủ nhang thực hiện các nghi thức cúng thần như: đọc sách cúng để tạ các Sơn thần, Thổ địa cai quản dân làng, mời các thần về hưởng lễ và báo cáo ngày tết đã hết nay dân làng làm lễ cúng cầu mong các vị thần tiếp tục phù hộ cho dân làng khỏe mạnh, mùa màng bội thu. Kết thúc buổi lễ đại diện các hộ gia đình trong thôn cùng ăn bữa cơm cộng cảm đầu xuân năm mới và từ nay dân làng được phép ra đồng tiến hành sản xuất. Theo quy định của người Sán Dìu không ai được phép xuống đồng trước khi làm lễ tại đình bởi họ cho rằng làm như vậy là động thổ, ảnh hưởng đến các vị thần thánh dẫn đến các hiện tượng mất mùa, sâu bệnh, dân làng gặp những điều tai ương.vv.. Sau khi các nghi lễ hoàn thành, mọi người trong làng thường mang theo lễ vật ra đình thắp hương để xin lộc đầu xuân năm mới. Lễ ra đồng thực chất là nghi lễ mở cửa đình đầu năm mới nhằm cầu mong các vị thần thánh phù hộ cho một năm an lành, tránh được những tai họa, dân làng khỏe mạnh... đặc biệt mong ước lớn lao nhất của họ là mùa màng không bị thiên tai, sâu bệnh. Lễ hạ điền: được tổ chức vào thời điểm bắt đầu vụ mùa (mồng 8 tháng 4 âm lịch). Tuy nhiên, thời gian cụ thể phụ thuộc vào quy định từng làng nhưng phải là ngày tốt bởi nó ảnh hưởng đến kết quả của vụ mùa năm đó. Gần đến ngày lễ dân làng có trách nhiệm góp tiền hoặc lương thực, thực phẩm làm mâm lễ cúng thần. Lễ vật gồm có: Thịt, xôi, hoa quả, hương, rượu... tất cả được mang xuống đồng ruộng, thầy cúng thực hiện các nghi thức cúng tế thần linh với nội dung: Dân làng ở các thôn.(tên thôn) có lòng thành dâng lễ vật lên các thần linh, báo cáo công việc vụ mùa bắt đầu, kính mời các thần về hưởng lễ và phù hộ cho vụ mùa màng không sâu bệnh, được mùa. Sau khi thầy hoàn thành việc cúng thần người đứng đầu làng tiến hành cày vài đường để lấy ngày. Sau lễ hạ điền dân làng bắt đầu tiến hành cày cấy trên các mảnh ruộng của mình. Lễ Thượng điền: thường tiến hành sau khi hoàn thành công việc gieo cấy (tháng 7 âm lịch). Mâm cỗ cũng được bày đặt như lễ Hạ điền, song phải có thêm một con ngựa giấy và giấy ngũ sắc làm thành chiếc cờ để Thần Nông cưỡi ngựa đi cắm ở khắp các cánh đồng, bảo vệ mùa màng. Ông chủ nhang tiến hành khấn thần với nội dung kể về công ơn của các vị thần linh: thần sinh ra hạt gạo, hạt thóc, sinh ra cánh đồng và cầu mong các thần thánh trừ diệt sâu bệnh, phù hộ cho mùa màng tốt tươi. Kết thúc buổi lễ, đại diện tất cả các gia đình trong làng cùng hưởng lộc của thần. Đối với những gia đình khá giả, trong dịp này họ cũng tự làm mâm cơm, các loại bánh tẻ, bẻng cúng tổ tiên, thần thánh nhằm tạ ơn các vị thần linh, tổ tiên phù trợ cho họ hoàn thành công việc gieo cấy và cầu mong ruộng đồng xanh tốt, mùa vụ bội thu. 81Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mai Thị Hồng Vĩnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 75 - 79 77 Lễ cúng cơm mới: Thời gian thực hiện thường vào tháng 8 âm lịch. Mỗi năm các hộ thay phiên nhau đảm nhiệm việc lo liệu tổ chức mâm cỗ cho buổi lễ, các gia đình trong làng đều có trách nhiệm đóng góp lợn, gạo, tiền. Lễ mừng cơm mới cũng được tổ chức ở đình làng. Gạo nấu cỗ phải là lúa mới gặt ở ngoài đồng đem về nấu thật đầy nồi. Ông chủ nhang đại diện cho dân làng thắp hương cúng thần báo cáo qua một năm lao động sản xuất dân làng đã đạt được vụ mùa thắng lợi, có được kết quả đó là nhờ các vị Thành hoàng và thần Nông giúp đỡ đồng thời cầu mong thần thánh tiếp tục phù hộ cho các vụ mùa sau. Trong lễ cúng cơm mới, người ta còn bày mâm cỗ ở ngoài sân đình để cúng thần Nông. Lễ vật cúng Thần Nông ngoài các lễ vật cúng Thành hoàng, họ còn dùng lá đa cuốn thành hình phễu bỏ gạo, xôi và đổ rượu lên. Các hình phễu được đem cắm xung quanh nơi thờ thần Nông với ngụ ý nhờ thần diệt trừ sâu bọ cho mùa màng. Mâm cúng Thần Nông, người ta cũng không quên cắm một bó cờ ngũ sắc. Chủ nhang thắp hương mời thần về dự lễ, mỗi gia đình cử một người đàn ông khỏe mạnh cầm chiếc cờ ngũ sắc ở mâm lễ chạy nhanh đến đám ruộng nhà mình cắm vào đó với sự reo hò cổ vũ của những người tham dự buổi lễ. Đồng bào tin rằng từ nay đám ruộng nhà mình đã có thần Nông che chở. Sau khi chủ lễ hoàn thành các thủ tục cúng tế thần linh, mâm cỗ được hạ xuống đại diện các gia đình trong làng cùng ăn mừng bữa cơm mới. Trước đây, theo lệ làng những nhà nào có con vật hoặc người sinh thì không được ra đình tham dự bữa cơm chung với làng và người ta cũng kiêng không thu lễ vật của họ trong năm đó bởi tộc người Sán Dìu quan niệm “sinh dữ tử lành” (Slang slộc slỉ hảo). Thông thường chỉ có nam giới tham gia, nữ giới chủ yếu là các cụ cao niên, được sắp xếp theo lứa tuổi, vai vế và địa vị. Các nghi thức cúng tế tại đình hoàn thành, bà con tổ chức hội với các trò chơi: đánh vật, đánh cầu, đi cà kheo... và hội ca hát (soọng cô) vui nhộn. Nếu gia đình nào chưa làm lễ cơm mới thì không được ăn bữa cơm mới ở nhà khác trong làng cũng như khác làng vì sợ thần phạt. Sau khi tổ chức ở đình làng, các gia đình mới được cúng cơm mới ngay tại nhà mình.Tùy vào điều kiện từng gia đình nhưng thường vào dịp này họ làm lễ rất to, mâm cỗ với các loại bánh, thịt lợn, gà và các loại rau xanh Khi ăn cơm mới họ kiêng không được chan canh vì sợ trời mưa làm trôi hết thóc. Qua các nghi lễ liên quan đến trồng trọt cho thấy, từ các công đoạn bắt đầu mùa vụ (làm đất, cày bừa) cho đến việc gieo cấy, chăm sóc và khâu thu hoạch đạt thành phẩm trong quan niệm của người Sán Dìu tất cả đều có sự can thiệp, phù giúp của thần thánh, tổ tiên. Tín ngưỡng trong chăn nuôi: Trong dịp lễ tết Nguyên đán, người Sán Dìu có tục dán giấy màu đỏ trong khuôn viên ngôi nhà của mình, bao gồm cả dụng cụ sản xuất nông nghiệp và các chuồng trâu, bò, lợn, gà Việc làm này nhằm mục đích cầu mong cho các con vật, dụng cụ đều không bị sự quấy nhiễu của ma quỷ, vật nuôi khỏe mạnh, chóng lớn; công cụ có thể sản xuất thuận lợi. Theo lời kể của các già làng: xưa kia trái đất của chúng ta chịu sự quản lý của ma tà, chúng luôn quấy nhiễu con người, Phật Tổ đã ra tay cứu vớt, đánh đuổi chúng đi. Mặc dù, chúng chấp nhận rời khỏi địa bàn sinh sống của con người nhưng chúng yêu cầu cứ 30 tết phải được về thăm một lần. Do vậy, để xác định quyền sở hữu của cải và súc vật tránh sự quấy nhiễu cướp bóc của ma quỷ, người ta có tục dán giấy màu đỏ [6], [12]. Ngày 30 tết gia đình làm cơm cúng tổ tiên, các thần linh, khi chồng thực hiện các nghi thức cúng ở trong nhà, bên ngoài người vợ dùng một thanh cây gõ nhẹ vào chuồng gia súc và gọi tên các con vật. Chẳng hạn gõ vào chuồng lợn và gọi tên: Chuy! Chuy! Chuy! (lợn! lợn! lợn!), Ngoi ! Ngoi ! Ngoi ! (trâu! trâu! trâu!) ba tiếng. Đồng bào cho rằng làm như vậy để các vị tổ tiên, thần linh về ăn tết phù hộ cho gia súc khỏe mạnh, chóng lớn. Người Sán Dìu quan niệm: “Đất có thổ công, sông có hà bá”, ở đâu cũng có các vị thần linh cai quản. Chính vì vậy, cứ vào mồng 1 tết Nguyên đán hàng năm, họ ra bờ suối xin Hà Bá một vài viên sỏi, đá đem về bỏ vào chuồng của các vật nuôi trong gia đình với mong muốn thần linh phù hộ cho các con vật luôn khỏe mạnh, tránh được dịch bệnh. 82Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mai Thị Hồng Vĩnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 75 - 79 78 Người xưa thường có câu: “con trâu là đầu cơ nghiệp” để khẳng định vai trò vị trí của con trâu trong sản xuất nông nghiệp. Với người Sán Dìu, con trâu là “lực lượng lao động” quan trọng làm nên thóc gạo nuôi sống con người, con trâu cũng được vật linh hóa. Trước Cách mạng tháng Tám (1945), người Sán Dìu kiêng ăn thịt trâu, bởi họ cho rằng: “trâu ăn cỏ giả, mình ăn cỏ thật” cỏ giả là cỏ tự nhiên, cỏ thật chính là thóc gạo do sức kéo cày của trâu mà có, ăn thịt trâu có nghĩa là “phản lại nó, là có tội”, ở một số nơi trâu chết người ta mang đi chôn. Và khi gia đình có con trâu cái đẻ họ làm cơm báo cáo, cầu mong sự bảo vệ của tổ tiên [12]. Kiêng kỵ trong các ngày lễ tiết liên quan đến tín ngưỡng nông nghiệp: Tết Thanh minh (Sênh minh triệt) hàng năm mang ý nghĩa là ngày tảo mộ, dịp để con cháu báo hiếu với công lao của những người đã khuất. Ngày hôm đó, người Sán Dìu kiêng không được làm gì động đến long mạch, thần thánh quở phạt gây ra hạn hán ảnh hưởng đến mùa màng. Làng quy định ngay từ tối hôm trước nhà nào cũng phải gánh đủ lượng nước dùng cho cả ngày tết thanh minh, người đứng đầu làng trực tiếp giám sát ngay tại giếng làng, nếu gia đình nào vi phạm sẽ bị xử phạt theo luật tục của làng. Theo quan niệm của tộc người Sán Dìu Tết mồng 8 tháng 4 là ngày sinh nhật của Trâu. Hôm đó, trâu phải được nghỉ ngơi, người ta làm bánh cho các thành viên trong gia đình thưởng thức và thiết đãi con trâu. Tết Đoan ngọ (Ngủ nhọt triệt) mồng 5 tháng 5 là thời điểm chuyển từ mùa xuân sang mùa hạ dịch bệnh dễ bùng phát, vì thế họ tổ chức lễ giết sâu bọ. Trước đây, nếu ruộng gia đình nào có nhiều sâu bọ phá hoại họ chuẩn bị lễ vật mời thầy ra hành lễ tại đồng ruộng. Ông thầy niệm thần chú, cầu khấn Ngọc hoàng sai khiến các loại chim, cò đến bắt các loại sâu bệnh, thầy yểm bùa ngay trên các đám ruộng để sâu bệnh không thể tái phát [6], [7]. Ngày nay, vào dịp tết Đoan ngọ họ chỉ tổ chức cúng tổ tiên tại mỗi gia đình. Sáng sớm, bà chủ nhà dậy nấu cháo chè cúng tổ tiên và các thành viên trong gia đình ăn hoa quả mỗi thứ một ít để giết sâu bọ. Buổi trưa họ làm mâm cúng tổ tiên, nhằm cầu mong sự phù hộ cho một vụ mùa không bị sâu bệnh, tốt tươi. Tết Vu lan (Shiết nhọt sịp slị triệt) được tổ chức vào ngày 14 tháng 7 hàng năm, là ngày xá tội vong nhân. Song theo quan niệm của người Sán Dìu đây còn là ngày lúa giao hợp, vì thế vào buổi sáng hôm đấy không ai được phép ra đồng sợ lúa thẹn thóc bị lép, gây mất mùa. Như vậy, ngoài ý nghĩa của ngày lễ tiết, trong quan niệm của người Sán Dìu còn gắn với các kiêng kỵ liên quan đến sản xuất nông nghiệp. Điều đó càng khẳng định kinh tế nông nghiệp chiếm vai trò quan trọng, ảnh hưởng đến hoạt động tín ngưỡng nói chung của cộng đồng tộc người. KẾT LUẬN Một khi cơ sở tín ngưỡng còn tồn tại thì những hoạt động tín ngưỡng không thể mất đi theo thời gian. Đối với người Sán Dìu ở Đồng Hỷ, tín ngưỡng liên quan đến sản xuất nông nghiệp từ xưa cho đến nay vẫn là chỗ dựa giúp con người vượt qua những khó khăn, bế tắc trong cuộc sống lao động sản xuất; là hoạt động tinh thần không thể thiếu trong đời sống của người Sán Dìu ở địa phương. Đồng Hỷ là huyện nằm ở khu vực trung du miền núi phía Bắc, đặc điểm địa hình, điều kiện tự nhiên... đã chi phối đến hình thức chăn nuôi đa phần theo lối quảng canh; mặt khác vai trò của chăn nuôi còn hạn chế, sản phẩm chủ yếu nhằm phục vụ cho các nhu cầu trong phạm vi gia đình. Chính vì vậy, hệ thống tín ngưỡng nông nghiệp tập trung vào tín ngưỡng trồng trọt là chủ yếu. Việt Nam vốn là nước nông nghiệp, tín ngưỡng nông nghiệp vốn tồn tại ở hầu hết các dân tộc. Tuy nhiên, mỗi một tộc người lại có những biểu hiện khác nhau mang đặc trưng riêng mặc dù các dân tộc sinh sống trong cùng một khu vực nhất định. Hoạt động tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Đồng Hỷ bên cạnh những đặc điểm chung còn thể hiện những nét khác biệt so với các dân tộc khác như: Tày, Nùng, Dao... cư trú trên cùng địa 83Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Mai Thị Hồng Vĩnh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 105(05): 75 - 79 79 bàn (huyện Đồng Hỷ). Chẳng hạn như: vào dịp đầu xuân năm mới các dân tộc Tày, Nùng tổ chức lễ hội Lồng Tồng mang ý nghĩa xuống đồng cầu mong cho mùa màng bội thu. Vào dịp này, người Sán Dìu cũng tổ chức lễ ra đồng, song về địa điểm, cách thức tổ chức và ý nghĩa của buổi lễ có điểm khác biệt. Nơi tiến hành thường gắn với ngôi đình, bên cạnh ước mong mùa màng bội thu còn mang ý nghĩa mở cửa đình đầu xuân năm mới, cách thức tổ chức có phần đơn giản hơn nhiều. Một số kiêng kỵ mang tính chất nông nghiệp trong các dịp lễ tiết hàng năm đều thể hiện những khác biệt so với các dân tộc anh em khác trong vùng. Một đặc điểm nổi bật là hầu hết các nghi lễ liên quan đến nông nghiệp đều gắn với đình làng, Thành hoàng của làng đó, đặc biệt là vị thần Dương Tự Minh. Điều đó chứng tỏ Thành hoàng làng chiếm một vị trí to lớn đối với các hoạt động tín ngưỡng nông nghiệp của người Sán Dìu ở địa phương. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Ma Khánh Bằng (1983), Người Sán Dìu ở Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. [2]. Vũ Ngọc Khánh (2001), Tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa Dân tộc. [3]. Nguyễn Thị Quế Loan (2008), Tập quán ăn uống của người Sán Dìu ở Thái Nguyên, Luận án tiến sĩ, Viện khoa học xã hội Vidệt Nam. [4]. S.A.Tocarep (1994), Các hình thái tôn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5]. Đàm Thị Uyên (2007), Phong tục và tín ngưỡng, tôn giáo của dân tộc Tày ở Cao Bằng, Đề tài khoa học cấp bộ, Trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên. Tư liệu điền dã: [6]. Hoàng Văn Bình, 74 tuổi, xóm Cao Phong, xã Hợp Tiến, thầy cúng. [7]. Lý Văn Hòa, 71 tuổi, xóm Cầu Đất, xã Nam Hòa, loàm ruộng. [8]. Lý Văn Chuyền, 57 tuổi, xóm Ao Lang, xã Linh Sơn, thầy cúng. [9]. Đặng Văn Tiến, 80 tuổi, xóm Ao Lang, xã Linh Sơn, thầy cúng. [10]. Lý Thị Ngọc, 70 tuổi, xóm Bà Đanh , xã Minh Lập, làm ruộng. [11]. Lý Văn Bảo, 53 tuổi, xóm Cầu Đất, xã Nam Hòa, trưởng xóm. [12]. Mạc Văn Sâm, 80 tuổi, xóm Thông Nhãn, xã Linh Sơn, thầy cúng. [13]. Mạc văn Thành, 65 tuổi, xóm Thông Nhãn, xã Linh Sơn, hưu trí. SUMMARY THE BELIEF RELATING TO AGRICULTURE PRODUCTION OF THE SAN DIU IN DONG HY DISTRICT, THAI NGUYEN PROVINCE Mai Thi Hong Vinh* College of Sciences – TNU Belief is human typical culture performance, which came into being together with the existence and development of human being. For the San Diu in Dong Hy, a moutainous area in the North, economic activity is largely agriculture production with limited production and disadvantaged nature condition.Therefore, religious belief, especially those relating to agriculture production occupies a larger part in the tribal life. Their belief is characterized by communality and focues greatly on farming. Religious activities relating toagriculture is a component of the San Diu's mental life. Key words: religious beliefs, spiritual culture, agriculture Beliefs, Dong Hy. Ngày nhận bài: 16/4/2013; Ngày phản biện: 24/4/2013; Ngày duyệt đăng: 06/6/2013 * Tel: 0982050611; Hongvinh.dhkhtn@gmail.com 84Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftin_nguong_lien_quan_den_nong_nghiep_cua_nguoi_san_diu_o_huy.pdf