Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986)

Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986) I. THỐNG NHẤT NƯỚC NHÀ VỀ MẶT NHÀ NƯỚC 1. Yêu cầu lịch sử của đất nước sau 30 năm chiến tranh Sau đại thắng mùa Xuân 1975, một thời kỳ mới đã mở ra trên đất nước ta: thời kỳ hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội vừa là xu thế phát triển của đất nước ta vừa là nguyện vọng của nhân dân ta. Với việc giải phóng hoàn toàn miền Nam, chiến tranh kết thúc, hoà bình được lập lại, giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ ở nước ta đã hoàn thành, đất nước thống nhất, nhân dân ta trở thành người làm chủ toàn bộ đất nước, làm chủ toàn bộ đất đai, rừng biển và thiên nhiên. Như vậy, chúng ta đã có đủ điều kiện để xây dựng đất nước giàu mạnh, văn minh, công bằng, phù hợp xu thế phát triển của thời đại. Sau bao nhiêu năm chiến tranh, nhân dân ta không có nguyện vọng nào tha thiết hơn là được sống độc lập, tự do để xây dựng lại đất nước nhưDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: "Còn non, còn nước, còn người Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay" Cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội là xu thế chung của đất nước. Nhưngquá độ lên chủ nghĩa xã hội như thế nào cho phù hợp đặc điểm nước ta là nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ, chưa có đại công nghiệp, đó là yêu cầu lịch sử thứ nhất đặt ra cho Đảng ta và nhân dân ta sau 30 năm chiến tranh. Yêu cầu lịch sử thứ hai đặt ra cho Đảng và nhân dân ta là ở một nước đã trải qua ba mươi năm chiến tranh quyết liệt, liên tục, sau khi kết thúc chiến tranh các thế lực thù địch lại có âm mưu gây chiến mới, nhiệm vụ cấp bách trước mắt là phải vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa cảnh giác và chuẩn bị đối phó với những âm mưu gây chiến. Yêu cầu lịch sử thứ ba là muốn tạo thêm sức mạnh mới, phải củng cố sự thống nhất đất nước bằng cách hoàn thành những nhiệm vụ còn lại của sự nghiệp thống nhất. 2. Thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước Sau ngày 30-4-1975 tuy nhân dân ta làm chủ toàn bộ đất nước, đất nước đã thống nhất, nhưng về mặt Nhà nước thì còn hai chính phủ, ở hai miền có hai mặt trận và các đoàn thể quần chúng riêng. Tháng 8-1975, Hội nghị lần thứ 24 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá III đã quyết định: Hoàn thành thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội; miền Bắc phải tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; miền Nam phải đồng thời tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 24, tháng 10-1975, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà họp phiên đặc biệt bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Nam. Tháng 11-1975, Uỷ ban Trung ương Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam, Uỷ ban Trung ương Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hoà bình Việt Nam, Hội đồng cố vấn Chính phủ và đại biểu nhân sĩ, trí thức đã họp hội nghị liên tịch bàn việc thống nhất nước nhà và cử đoàn đại biểu hiệp thương với đoàn đại biểu miền Bắc. Hội nghị hiệp thương chính trị của hai đoàn đại biểu Nam, Bắc họp tại Sài Gòn từ ngày 15 đến ngày 21-11-1975 đã ra Thông cáo khẳng định nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam là một, nước nhà cần được sớm thống nhất về mặt Nhà nước. Hội nghị nhất trí: Cần tổ chức cuộc Tổng tuyển cử trên toàn lãnh thổ Việt Nam bầu ra Quốc hội chung cho cả nước vào nửa đầu năm 1976, theo nguyên tắc dân chủ, phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Ngày 3-1-1976, Bộ Chính trị Trung ương Đảng ra chỉ thị nêu rõ tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử và giao trách nhiệm cho các cấp uỷ lãnh đạo cuộc bầu cử. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà và Hội đồng cố vấn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam quyết định lấy ngày 25-4-1976 là ngày Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung của nước Việt Nam thống nhất và thành lập Hội đồng bầu cử toàn quốc. Ngày 25-4-1976, cử tri cả nước đã phấn khởi đi bỏ phiếu, đạt tỉ lệ 98,77% (miền Bắc 99,36%, miền Nam 98,39%). 492 đại biểu đã được bầu vào Quốc hội gồm đủ các thành phần công nhân, nông dân, trí thức, các lực lượng vũ trang, đại biểu các tầng lớp thanh niên, phụ nữ, đại biểu các dân tộc ít người và các tôn giáo. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội chung cả nước - đây là Quốc hội khoá VI, biểu thị ý chí của toàn dân ta xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa, là thắng lợi của lòng quyết tâm phấn đấu thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất. Đồng bào Nam, Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Từ ngày 24-6 đến ngày 3-7-1976, kỳ họp thứ nhất của Quốc hội nước Việt Nam thống nhất đã được tiến hành tại Thủ đô Hà Nội. Đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất của Đảng - đã trình bày trước Quốc hội tình hình và nhiệm vụ trước mắt của cách mạng Việt Nam và kiến nghị về đường lối đối nội và đối ngoại của Nhà nước. Ngày 2-7-1976, Quốc hội đã quyết định đặt tên nước ta là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quốc kỳ nền đỏ sao vàng, Thủ đô là Hà Nội, quốc ca là bài Tiến quân ca. Quốc hội khoá VI quyết định thành phố Sài Gòn được mang tên Hồ Chí Minh và quyết định thành lập Uỷ ban dự thảo Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội bầu đồng chí Tôn Đức Thắng làm Chủ tịch nước, các đồng chí Nguyễn Lương Bằng, Nguyễn Hữu Thọ làm Phó Chủ tịch, đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch Quốc hội và đồng chí Phạm Văn Đồng làm Thủ tướng Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Tháng 6-1976, theo chủ trương của Trung ương Đảng, các tổ chức quần chúng thanh niên, phụ nữ, công đoàn và Mặt trận Tổ quốc cũng họp hội nghị hợp nhất, thống nhất cơ quan lãnh đạo trong toàn quốc. II. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ IV CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1976) Quá trình chuẩn bị cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng được tiến hành từ sau khi ký Hiệp định Pari. Các dự thảo văn kiện trình Đại hội đã tiếp thu ý kiến của Đại hội các cấp bộ Đảng. Đại hội trù bị của Đại hội IV họp từ ngày 29-11 đến ngày 10-12-1976 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt cho hơn 1,5 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội chính thức họp từ ngày 14 đến 20-12-1976. Đến tham dự Đại hội có 29 đoàn đại biểu của các đảng và tổ chức quốc tế. Sau lời khai mạc của đồng chí Tôn Đức Thắng, đồng chí Trường Chinh chủ trì phiên họp, đồng chí Lê Duẩn - Bí thư thứ nhất trình bàyBáo cáo chính trị, đồng chí Phạm Văn Đồng trình bàyBáo cáo về phương hướng, nhiệm vụ và mục tiêu kế hoạch 5 năm lần thứ hai (1976-1980), đồng chí Lê Đức Thọ trình bàyBáo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng.

docx23 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2528 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hợp nhất 2-3 hợp tác xã thành một hợp tác xã có quy mô trên 1.000 ha. Mô hình hợp tác xã lớn và tập trung bộc lộ nhược điểm ngày càng rõ rệt: ruộng đất bị bỏ hoang, xã viên không thiết tha với ruộng đồng, các ngành nghề làm ăn thua lỗ, thu nhập của xã viên ngày càng thấp. Từ cuối những năm 1970 đã xuất hiện hiện tượng "khoán chui". Do vị trí địa lý và đặc điểm lịch sử, kinh tế - xã hội, nông thôn miền Nam (chủ yếu là Nam Bộ) có nhiều đặc điểm khác biệt với nông thôn miền Bắc do đó đòi hỏi phải có hình thức tổ chức và quản lý thích hợp. Cuối năm 1975, tình hình ruộng đất ở các tỉnh phía Nam diễn biến phức tạp. Đảng chủ trương điều chỉnh ruộng đất, coi đó là bước chuẩn bị để đưa nông dân phía Nam đi dần vào con đường làm ăn tập thể. Trong những năm 1976-1978, Đảng và Nhà nước đã tiến hành xây dựng thí điểm một số hợp tác xã nông nghiệp. Đến năm 1979,ở các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên, đã căn bản hoàn thành việc đưa nông dân vào làm ăn tập thể dưới hai hình thức: hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Ở Nam Bộ, đã lập được 12.246 tập đoàn sản xuất. Về sản xuất nông nghiệp, trên phạm vi cả nước từ năm 1976 đến năm 1980, đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp không ngừng tăng, nhưng năng suất lúa, sản lượng lương thực giảm đến mức thấp nhất. Nhà nước đã phải nhập khẩu lương thực ngày càng lớn. Về sản xuất công nghiệp, tốc độ tăng bình quân hàng năm thời kỳ 1976 - 1980 là 0,6%. Các mục tiêu Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV đề ra đều không đạt. Tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng bình quân 1,4% hàng năm, thu nhập quốc dân chỉ tăng 0,4% trong khi dân số tăng 2,24% một năm. Nền kinh tế nước ta thời kỳ 1976-1980 có chiều hướng đi xuống. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do hậu quả của 30 năm chiến tranh nhưng chủ yếu là do sai lầm, khuyết điểm duy ý chí trong quá trình lãnh đạo và quản lý kinh tế. Công tác xây dựng Đảng được đẩy mạnh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Bộ máy các cấp của Đảng được kiện toàn. Số cấp uỷ viên được đào tạo ngày một tăng. Số đồng chí có trình độ đại học, trung học tăng từ 1% đến 5%. Trong 2 năm 1977-1978 có 42.741 người được kết nạp vào Đảng, trong đó có 85,2% tuổi đời dưới 30. Việc đưa những đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng được tiến hành thường xuyên. Các hoạt động về đối ngoại của Đảng và Nhà nước được triển khai mạnh mẽ. Thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước đi thăm và cảm ơn các nước anh em trong hệ thống xã hội chủ nghĩa và bầu bạn đã tận tình ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Ngày 20-9-1977, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trở thành thành viên thứ 149 của Liên hợp quốc và thành viên của hơn 20 tổ chức quốc tế khác. Đến cuối năm 1980 đã có 106 nước lập quan hệ ngoại giao với nước ta. Đầu tháng 11-1978, các đồng chí Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng sang thăm Liên Xô và ký Hiệp ước hữu nghị và hợp tác giữa hai nước. III. BẢO VỆ CHỦ QUYỀN LÃNH THỔ CỦA TỔ QUỐC Ở BIÊN GIỚI TÂY NAM VÀ BIÊN GIỚI PHÍA BẮC Sau 30 năm chiến đấu liên tục để giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân Việt Nam là được sống trong hoà bình để xây dựng lại đất nước. Song nguyện vọng đó chưa thực hiện được ngay. Tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia đã thi hành chính sách cực kỳ phản động ở trong nước và chính sách thù địch chống Việt Nam. Ngay từ ngày 3-5-1975, chính quyền Pôn Pốt đã cho quân đổ bộ lên đảo Phú Quốc và sau đó chiếm đảo Thổ Chu của Việt Nam. Từ tháng 4-1977, họ tiến hành chiến tranh quy mô lớn chống Việt Nam, coi Việt Nam là kẻ thù số 1. Đứng trước hành động thù địch của tập đoàn Pôn Pốt ở Campuchia, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhiều lần đề nghị hai bên cùng đàm phán để giải quyết bằng con đường thương lượng, nhưng họ đã khước từ. Để bảo vệ Tổ quốc, từ đầu tháng 12-1977 đến đầu tháng 1-1978, quân, dân ta đã mở chiến dịch lớn đánh đuổi quân Pôn Pốt. Nhân dân Campuchia cũng nổi dậy ở nhiều nơi đánh đổ chính quyền phản động Pôn Pốt. Ngày 2-12-1978,Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia ra đời, công bố Cương lĩnh cách mạng đoàn kết toàn dân đánh đổ tập đoàn phản động Pôn Pốt - Yêng Xary. Cuối năm 1978, chính quyền Pôn Pốt huy động 19 sư đoàn (trong tổng số 23 sư đoàn) về miền Đông mở cuộc tiến công xâm lược Việt Nam. Ngày 23-12-1978, họ đã đưa 3 sư đoàn vượt biên giới Việt Nam tấn công vào vùng Bến Sỏi, Bến Cầu thuộc tỉnh Tây Ninh với mục tiêu nhanh chóng chiếm tỉnh Tây Ninh và tiến về Thành phố Hồ Chí Minh. Quân và dân ta kiên quyết đánh trả, đuổi quân xâm lược ra khỏi đất nước. Ngày 26-12-1978, Bộ chỉ huy quân đội cách mạng Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia quyết định phát động phong trào nổi dậy của quần chúng, đồng thời kêu gọi quân tình nguyện Việt Nam giúp đỡ nhân dân Campuchia tiêu diệt bè lũ diệt chủng. Đáp lời kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia, quân tình nguyện Việt Nam đã tiến công truy quét quân xâm lược diệt chủng. Hành động chính đáng của quân tình nguyện Việt Nam một lần nữa thể hiện tình đoàn kết chiến đấu chống kẻ thù chung vì lợi ích của hai dân tộc. Ngày 7-1-1979, Thủ đô Phnôm Pênh được giải phóng, nhân dân Campuchia thoát khỏi chế độ diệt chủng. Ngày 16-2-1979, Thủ tướng Phạm Văn Đồng thăm hữu nghị chính thức nước Cộng hoà nhân dân Campuchia. Ngày 18-2-1979, Việt Nam và Campuchia ký Hiệp ước hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Theo nội dung của Hiệp ước, quân đội Việt Nam tiếp tục có mặt ở Campuchia để cùng phía bạn bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của cả hai nước. Việt Nam và Trung Quốc là hai nước có quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời, núi liền núi, sông liền sông. Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, những người cộng sản và nhân dân hai nước đã đoàn kết, ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau. Từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời năm 1945 và Nhà nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa thành lập năm 1949, Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước càng tăng cường tình hữu nghị và hợp tác nhiều mặt. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Trung Quốc cùng Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã giành cho nhân dân ta sự ủng hộ và giúp đỡ toàn diện, to lớn và quý báu. Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam biết ơn sâu sắc đối với sự ủng hộ và giúp đỡ đầy tình nghĩa quốc tế của đồng chí, bè bạn trên thế giới trong đó có nhân dân Trung Quốc anh em. Nhưng từ năm 1978 Trung Quốc đã cắt viện trợ, rút chuyên gia về nước, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bỗng dưng xấu đi. Ngày 17-2-1979, Trung Quốc vô cớ tấn công trên toàn tuyến biên giới phía Bắc Việt Nam dài 1400 km bao gồm các tỉnh: Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh, có nơi họ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam tới 50 km. Quân đội và nhân dân Việt Nam mà trực tiếp là quân, dân 6 tỉnh biên giới phía Bắc buộc phải chiến đấu để tự vệ và đã chiến đấu ngoan cường để giữ vững chủ quyền lãnh thổ, độc lập của Tổ quốc. Nhân dân yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới đã ủng hộ cuộc chiến đấu chính nghĩa của Việt Nam. Ngày 5-3-1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân và ngày 18-3-1979 đã rút hết quân về nước. Thắng lợi của quân và dân ta trong cuộc chiến đấu bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của Tổ quốc có ý nghĩa lịch sử to lớn, đã kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đã bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, tiếp tục tăng cường tình hữu nghị và hợp tác giữa các nước và góp phần củng cố hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á và trên thế giới. IV. ĐỔI MỚI TỪNG PHẦN Yêu cầu bức thiết đặt ra cho đất nước ta sau ngày giải phóng miền Nam, nhất là sau chiến tranh biên giới là làm sao ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, bình thường hoá và mở rộng quan hệ đối ngoại, tăng cường đoàn kết nhân dân hai nước Lào và Campuchia. Yêu cầu nóng bỏng nhất là ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV họp tháng 8-1979 bàn về nhiệm vụ kinh tế cấp bách trước mắt. Theo dự kiến, Hội nghị sẽ bàn về sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương, nhưng trong quá trình thảo luận, đa số các Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương đã nêu lên những ý kiến phản ánh tình hình kinh tế - xã hội của đất nước đang ở trong tình trạng hết sức nghiêm trọng và đề nghị có giải pháp. Hội nghị đã quyết định phải khắc phục một bước cơ chế kế hoạch hoá tập trung và bao cấp, kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ thị trường, duy trì ba thành phần kinh tế ở miền Nam, kết hợp ba lợi ích là tập thể, cá nhân và xã hội. Khuyến khích mọi năng lực sản xuất làm cho sản xuất bung ra... Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV là bước đột phá đầu tiên để tìm đường đổi mới. Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV được nhân dân cả nước hào hứng đón nhận. Tuy nhiên, trong điều kiện lịch sử lúc ấy, Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu còn có chỗ hạn chế do nhận thức về con đường quá độ thích hợp lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta chưa được làm rõ, những giải pháp có tính chất tình thế của Hội nghị vẫn nằm trong khung cảnh chung là mô hình xã hội chủ nghĩa cũ và cơ chế quản lý cũ. Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu, tháng 9-1979, Hội đồng Chính phủ ra quyết định về việc tận dụng đất đai nông nghiệp để khai hoang,phục hoá được trả thù lao thích đáng và được sử dụng toàn bộ sản phẩm được miễn thuế. Tháng 10-1979, Hội đồng Chính phủ công bố quyết định xoá bỏ các trạm kiểm soát ngăn sông, cấm chợ, người sản xuất có quyền đưa sản phẩm ra trao đổi ngoài thị trường không phải nộp thuế sau khi làm nghĩa vụ đầy đủ cho Nhà nước. Nhân dân ta đã tận dụng 1,1 triệu hécta đất đai hoang hoá, Nhà nước đã tăng mức đầu tư cho nông nghiệp về phân bón, giống, cơ khí nông nghiệp. Năm 1979, sản lượng lương thực tăng 1.718.500 tấn so với năm 1978. Tháng 12-1979, Quốc hội khoá VI họp kỳ thứ 6 đã khẳng định những thành tựu sau giải phóng, đồng thời chỉ ra thiếu sót chưa huy động hết tiềm lực kinh tế, thiếu tập trung đầu tư cho nông, lâm, ngư nghiệp. Cơ chế quản lý kinh tế mang nặng tính chất hành chính quan liêu. Trong khó khăn, một số địa phương đã mạnh dạn tìm tòi cách tháo gỡ và làm thử cách quản lý mới. Ngày 27-6-1980, Thành uỷ Hải Phòng ra Nghị quyết 24-NQ/TƯ làm thử hình thức khoán việc và khoán sản phẩm cho xã viên và nhóm xã viên. Các thí điểm khác ở Vĩnh Phú, Nghệ Tĩnh cũng chứng minh hình thức đó là giải pháp tăng năng suất, tăng sản phẩm, phát huy tính tích cực lao động, nâng cao ý thức tiết kiệm chi phí sản xuất, khai thác thêm một phần vật tư của gia đình xã viên. Căn cứ vào thực tế đó, Ban Bí thư Trung ương Đảng cho phép các địa phương mở rộng thí điểm khoán sản phẩm và khoán việc. Tháng 12-1980, Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá IV bàn về phương hướng, nhiệm vụ kinh tế và xã hội năm 1981. Hội nghị nhận định: Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu của Ban Chấp hành Trung ương (tháng 8-1979) và một số nghị quyết cụ thể của Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã bước đầu tạo ra khí thế mới, tiến bộ mới trong nền kinh tế quốc dân; tuy nhiên, những khuyết điểm trong việc quản lý kinh tế, quản lý xã hội chậm được sửa chữa.Hội nghị nêu rõ kế hoạch năm 1981 có nhiệm vụ hàng đầu là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp ở tất cả các vùng trong nước, nhằm giải quyết lương thực, thực phẩm, cung ứng nguyên liệu cho công nghiệp và tăng nhanhnông sản xuất khẩu, coi trọng đầu tư sản xuấthàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; cho thăm dò và khai thác dầu khí, đồng thời đầu tư thích đáng cho các ngànhđiện, than, giao thông vận tải, cơ khí, sản xuất phân bón hoá học và vật liệu xây dựng nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ; tạo ra sự chuyển biến trên mặt trận phân phối lưu thông, chuyển mạnh sang phương thức kinh doanh xã hội chủ nghĩa,mở rộng việc thực hiện và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp, mở rộng việc trả lương theo sản phẩm khoán. Hội nghị quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng vào cuối quý IV năm 1981. Rút kinh nghiệm qua các thí điểm, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị 100/CT-TW về công tác khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị 100). Khoán 100 tạo ra hiệu quả kinh tế lớn trong nông nghiệp. Trong lĩnh vực công nghiệp, sau khi tổng kết những thí điểm, nhất là ở Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 21-1-1981, Chính phủ đã ban hành Quyết định 25-CP về quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính của các xí nghiệp quốc doanh. Quyết định nêu rõ: Cần lấy kế hoạch làm chính, đồng thời sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá, thị trường, kinh doanh có lãi. Quyết định còn cho phép các xí nghiệp quốc doanh có nhiều nguồn cân đốivà kế hoạch ba phần (phần Nhà nước giao, phần tự làm và phần sản xuất phụ). Trong điều kiện vật tư thiếu thốn, Quyết định 25-CP đã giúp các cơ sở khôi phục được khả năng sản xuất, giải quyết thêm công ăn việc làm cho công nhân, viên chức, làm cho hoạt động xí nghiệp trở lại bình thường. Cùng ngày 21-1-1981, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định 26-CP về việc mở rộng hình thức trả lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các đơn vị sản xuất kinh doanh của Nhà nước. Năm 1981, lần đầu tiên sau chiến tranh, sản xuất công nghiệp đạt kế hoạch, riêng công nghiệp địa phương vượt kế hoạch 7,5%. Đây là những kết quả của chủ trương đổi mới từng phần Chỉ thị 100 đến các Quyết định 25 và 26-CP. Trong khi sản xuất công, nông nghiệp có sự chuyển biến mới thì trên mặt trận lưu thông, phân phối có nhiều rối ren. Năm 1980, giá bán lẻ hàng hoá thị trường xã hội đã tăng 189,5% so với năm 1976, năm 1981 tăng 313,7%. Ngày 23-6-1980, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 26/NQ-TW về cải tiến công tác phân phối, lưu thông. Nghị quyết nhấn mạnh nguyên tắc: giá cả phù hợp với chi phí sản xuất và lưu thông; tạo những tiền đề cần thiết để tiến tới xoá bỏ từng bước chế độ cung cấp theo tem phiếu. Tuy nhiên, Nghị quyết 26/NQ-TW chưa phân tích đầy đủ nguyên nhân tình hình rối ren trong lưu thông, phân phối, do đó chưa nêu ra được những giải pháp về phân phối, lưu thông có hiệu quả. Trước và sau Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá IV, tỉnh Long An đã được phép thí điểm việc bù giá vào lương, mua và bán theo giá cao một số mặt hàng sát với giá thị trường. Long An đã thu được một số thành công trong việc lưu thông hàng hoá nhưng còn rất nhiều vấn đề đòi hỏi phải có chính sách chung của Đảng và Nhà nước. Cùng với việc đổi mới từng phần trong lĩnh vực kinh tế - xã hội, Đảng quan tâm kiện toàn bộ máy nhà nước và tăng cường công tác xây dựng Đảng. Từ ngày 4 đến ngày 10-9-1980, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá IV đã xem xét và cho định hướng về bản Hiến pháp mới. Ngày 18-12-1980, Quốc hội khoá VI thông qua Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hiến pháp năm 1980 khẳng định quyền lãnh đạo của Đảng, quy định cơ chế làm chủ tập thể của nhân dân lao động, bảo vệ các quyền dân tộc cơ bản, quyền và nghĩa vụ công dân, đường lối xây dựng kinh tế, tăng cường quản lý nhà nước và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trên lĩnh vực quốc phòng và an ninh ở biên giới phía Bắc và trên biển, các lực lượng vũ trang nhân dân thường xuyên bám địa bàn, bảo vệ biên cương Tổ Quốc.Ở biên giới Tây Nam, quân và dân ta vừa bảo vệ biên giới, vừa làm nghĩa vụ quốc tế giúp nhân dân Campuchia hồi sinh, xây dựng cuộc sống mới. Cho đến lúc này, xét về đại thể, tư duy cũ về kinhtế vẫn tồn tại, nền kinh tế nước ta vẫn nằm trong khủng hoảng. Việc thực hiện kế hoạch kinh tế 5 năm 1976 - 1980 chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng trong nền kinh tế quốc dân. Sản xuất phát triển chậm trong khi dân số tăng nhanh, thu nhập chưa bảo đảm tiêu dùng xã hội. Nền kinh tế chưa tạo được tích luỹ từ bên trong. Lương thực, vải mặc và các hàng tiêu dùng thiết yếu đều thiếu. Cung ứng lao động vật tư và giao thông - vận tải rất căng thẳng. Chênh lệch giữa thu và chi, giữa hàng và tiền, giữa xuất khẩu và nhập khẩu còn lớn. Thị trường vật giá không ổn định. Số người lao động chưa được sử dụng còn đông. Đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. V. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ V CỦA ĐẢNG (THÁNG 3-1982) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng tiến hành tại Thủ đô Hà Nội từ ngày 15-3 đến ngày 31-3-1982. Dự Đại hội có 1.033 đại biểu thay mặt cho hơn 1,7 triệu đảng viên cả nước. Có 47 đoàn đại biểu của các đảng cộng sản và công nhân, các tổ chức cách mạng trên thế giới đến dự Đại hội. Đại hội nội bộ diễn ra từ 15 đến 24-3-1982. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá IV đã nêu ra ba thắng lợi: - Nhanh chóng thống nhất nước nhà về mặt Nhà nước, thực hiện một bước quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. - Đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu biên giới, giúp đỡ Mặt trận đoàn kết dân tộc Campuchia và nhân dân Campuchia anh em giải phóng đất nước, cứu dân tộc Khơme khỏi hoạ diệt chủng. - Trên mặt trận kinh tế, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể, bước đầu khắc phục những hậu quả nặng nề do chiến tranh xâm lược và thiên tai liên tiếp gây ra. Về những khó khăn và yếu kém, Báo cáo chính trị vạch rõ: - Khó khăn của đất nước ta xuất phát từ nền kinh tế sản xuất nhỏ vừa gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề cuộc chiến tranh lâu dài vừa phải tiếp tục cuộc chiến tranh giữ nước, khắc phục hậu quả của thiên tai lớn dồn dập xảy ra. - Khó khăn còn do khuyết điểm và sai lầm của các cơ quan Đảng và Nhà nước ta từ Trung ương đến cơ sở về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Trên những mặt nhất định, khuyết điểm, sai lầm về lãnh đạo, quản lý là nguyên nhân chủ yếu gây ra khó khăn hoặc làm trầm trọng thêm tình hình kinh tế, xã hội. Sai lầm lớn là đã chủ quan, nóng vội đề ra một số chủ trương quá lớn về chỉ tiêu và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất, đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Đại hội nêu ra hai nhiệm vụ chiến lược cách mạng của nước ta trong giai đoạn mới: Một là, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Hai là, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Về xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đại hội nêu ra phương hướng mới như sau: 1. Chặng đường đầu bao gồm chặng đường 5 năm 1981-1985 và kéo dài đến 1990. Nhiệm vụ bức thiết trước mắt là ổn định tình hình kinh tế - xã hội. 2. Trong 5 năm 1981-1985 và đến cuối những năm 1980, tập trung sức phát triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục xây dựng một số ngành công nghiệp nặng. 3. Trong một thời gian nhất định, ở miền Nam còn 5 thành phần kinh tế (quốc doanh, tập thể, công tư hợp doanh, cá thể và tư bản tư doanh). Các đại biểu Đại hội nhất trí về cơ bản với nội dung Báo cáo chính trị và bổ sung nhiều ý kiến quan trọng về thực trạng nền kinh tế - xã hội, về chiến lược kinh tế dài hạn, về giải pháp đổi mới quản lý kinh tế trước mắt là vấn đề giá - lương - tiền, về cải thiện đời sống nhân dân và khắc phục tệ nạn xã hội. Sau khi thảo luận Báo cáo kinh tế và Báo cáo về xây dựng Đảng, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương mới gồm 116 uỷ viên chính thức và 36 uỷ viên dự khuyết. Đại hội công khai từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 nghe báo cáo tóm tắt về các văn kiện Đại hội, tham luận của các đại biểu, lời chào mừng của các đoàn đại biểu quốc tế, thông qua nghị quyết về các báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương. Ngày 30-3-1982, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá V họp bầu ra Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Lê Duẩn được bầu lại làm Tổng Bí thư. Trong phiên bế mạc ngày 31-3, Đại hội nhất trí ra Nghị quyết tán thànhBáo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá IV, thông qua Báo cáo về xây dựng Đảng và bổ sung Điều lệ Đảng. Bế mạc Đại hội, đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn nói: "Trước mắt chúng ta là một chặng đường phấn đấu gay go, phức tạp. Song toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang được tiếp thêm sức sống mới do những nghị quyết lịch sử của Đại hội đem lại. Chúng ta nhất định thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V dựa trên thực tiễn đất nước những năm sau giải phóng đã có những bước tiến mới về đổi mới tư duy trong việc tìm tòi con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, Đại hội chưa thấy được sự cần thiết phải duy trì nền kinh tế nhiều thành phần trong suốt thời kỳ quá độ, chưa xác định được những quan điểm cụ thể về kết hợp kế hoạch với thị trường, công tác quản lý lưu thông, phân phối vẫn một chiều do kế hoạch nhà nước quyết định. Đại hội coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, nhưng chưa có những chính sách, giải pháp cụ thể và đồng bộ để giải phóng các lực lượng sản xuất trong nông nghiệp. Những hạn chế này của Đại hội V là nguyên nhân của những khó khăn mà đất nước ta phải vượt qua sau Đại hội. VI. PHẤN ĐẤU ỔN ĐỊNH TÌNH HÌNH KINH TẾ - XÃ HỘI Thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V, nền kinh tế - xã hội nước ta đạt được một số tiến bộ. Tổng sản lượng nông nghiệp năm 1982 tăng 1.743.600 tấn so với năm 1981, nhưng từ năm 1983 đến năm 1987 lại có xu thế tụt dần trong khi dân số tăng 6 triệu (từ 1981 đến năm 1986), lạm phát tăng từ 131% năm 1981 lên 774,7% năm 1986. Tình hình khủng hoảng kinh tế rất nghiêm trọng. Cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước ta diễn ra trong khi Mỹ và các thế lực thù địch vẫn xiết chặt chính sách bao vây, cấm vận, tiến hành chiến tranh phá hoại nhiều mặt nhằm làm suy yếu nước ta. Trước những khó khăn phức tạp chồng chất, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân quyết tâm phấn đấu nhằm ổn định tình hình kinh tế - xã hội.  Từ Đại hội V đến Đại hội VI, Ban Chấp hành Trung ương đã tiến hành 11 cuộc hội nghị, trong đó có 8 hội nghị bàn về kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1982) nhận định: Bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm 1981 - 1985, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng tình hình kinh tế - xã hội nói chung còn nhiều khó khăn và có mặt rất gay gắt. Hội nghị xác định mục tiêu cơ bản về kinh tế - xã hội 3 năm (1983 - 1985) là cơ bản ổn định được tình hình kinh tế - xã hội. Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khoá V đã được cụ thể hoá và thể chế hoá trong kỳ họp thứ 3 Quốc hội khoá VII (tháng 6-1982) và trong kỳ họp thứ 4 cùng khoá (tháng 12-1982).  Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 6-1983) bàn những vấn đề cấp bách về tư tưởng và tổ chức bảo đảm thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1983) nhận định: Nền kinh tế nước ta đang có chuyển biến đi lên, song vẫn còn đứng trước những khó khăn và mất cân đối lớn. Hội nghị chỉ rõ: hai năm 1984 - 1985 có vị trí rất quan trọng đảm bảo cơ bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Ngày 14-1-1984, Ban Bí thư ra chỉ thị khuyến khích phát triển kinh tế phụ gia đình. Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 7-1984) đã bàn sâu về phân phối, lưu thông. Hội nghị cho rằng, chính sách giá - lương - tiền không phù hợp thực tế, thị trường tự do còn quá rộng, giá cả biến động mạnh, hệ thống tiền lương có nhiều bất hợp lý, tài chính thiếu hụt, đồng tiền liên tục mất giá. Hội nghị nêu ra hai loại công việc cần làm ngay về phân phối, lưu thông: một là, đẩy mạnh thu mua nắm nguồn hàng, quản lý chặt chẽ thị trường tự do;hai là, thực hiện điều chỉnh giá cả,tiền lương, tài chính cho phù hợp với thực tế. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1984) bàn về kế hoạch nhà nước năm 1985 nhận định: sản xuất lưu thông có chuyển biến khá hơn trước, nhiều nhân tố mới trong nông nghiệp, công nghiệp và phân phối lưu thông nảy nở, song nền kinh tế nước ta còn đang đứng trước tình hình nhiều mặt mất cân đối lớn, tình hình kinh tế - xã hội chưa ổn định, nhịp độ phát triển năm 1984 chậm hơn những năm 1981-1983. Giá cả thị trường chưa ổn định, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn, các hiện tượng tiêu cực chưa được ngăn chặn. Năm 1981 bù lỗ cho quốc doanh 6,2 tỷ đồng, năm 1984 bù lỗ 4,2 tỷ đồng. Lạm phát năm 1984 bằng 4,7 lần cuối năm 1981. Hội nghị biểu dương tinh thần năng động sáng tạo, tự lực, tự cường của nhiều địa phương và cơ sở trong việc tìm mọi cách tự khắc phục khó khăn, không đòi cấp trên đầu tư thêm tiền vốn, vật tự mà chỉ yêu cầu đổi mới cơ chế, chính sách. Những chủ trương của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khoá V đã được cụ thể hoá trong kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá VII (tháng 12-1984). Từ tháng 4 đến tháng 5-1985, Hội nghị Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã nghe báo cáo của Tiểu ban giá - lương - tiền, nghiên cứu kinh nghiệm của một số địa phương và góp ý kiến cho báo cáo của Bộ Chính trị về giá - lương - tiền. Hội nghị cho rằng: Nghị quyết số 26 của Bộ Chính trị năm 1980 và các nghị quyết về phân phối, lưu thông sau này sở dĩ không đưa lại hiệu quả thực tế là vì vẫn dựa trên cơ sở duy trì chế độ quan liêu, bao cấp. Để thực hiện mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, việc trước tiên cần làm là xoá bỏ chế độ quan liêu bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, bắt đầu bằng việc giải quyết giá, lương, tiền. Trong khi chờ đợi nghị quyết về giá và lương, cần mở rộng diện làm thử bù giá vào lương theo kinh nghiệm của Long An, phụ cấp ngay cho khu vực hành chính sự nghiệp, không đợi đến lúc giải quyết giá, lương, tiền. Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 6-1985) họp bàn chuyên về giá, lương, tiền. Hội nghị cho rằng: Sau 10 năm giải phóng, tình hình đất nước đã có nhiều thay đổi nhưng vấn đề tồn tại lớn nhất là hậu quả chiến tranh chưa được khắc phục. Chính sách giá, lương và phân phối, lưu thông vẫn chưa được giải quyết cơ bản. Thực tiễn chứng minh: Không thể ổn định tình hình kinh tế, đời sống, cân bằng ngân sách và tiền mặt trong khi vẫn duy trì chế độ bao cấp về lương. Hội nghị chủ trương dứt khoát xoá bỏ chế độ tập trung quan liêu, thực hiện đúng hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Hội nghị Trung ương 8 khóa V (6-1985) là bước đột phá thứ hai của quá trình hình thành đường lối đổi mới. Ngày 14-9-1985, cuộc tổng điều chỉnh giá, lương, tiền lần thứ hai bắt đầu bằng việc đổi tiền, ban hành một số giá mới và tiền lương mới, xoá bỏ hoàn toàn giá cung cấp và chế độ tem phiếu, chỉ giữ lại sổ gạo cho những người ăn lương. Chủ trương đổi tiền (1 đồng = 10 đồng cũ) nhằm tăng khả năng chi trả của ngân hàng, bảo đảm yêu cầu đủ tiền cho tăng lương, tăng giá. Đánh giá về cuộc cải cách giá, lương, tiền lần thứ hai, các Hội nghị lần thứ chín và thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá V đều cho rằng, chỉ cần khẳng định một lần nữa sự đúng đắn của chủ trương bù giá, thực hiện chính sách bán lẻ theo một giá là cần thiết, phù hợp với quy luật của nền sản xuất hàng hoá, nhưng vội vàng đổi tiền và tổng điều chỉnh giá, lương trong tình hình chưa chuẩn bị sẵn sàng về mọi mặt là một sai lầm. Hậu quả lớn nhất của cuộc cải cách giá, lương, tiền lần này đã dẫn đến tình trạng lạm phát "phi mã" trong 3 năm 1986 - 1988. Chính vì vậy, Nhà nước đã phải lùi lại một bước, thực hiện chính sách hai giá năm 1985. Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1985) bàn về kế hoạch nhà nước năm 1986, nhận định: Sau các Nghị quyết sáu, bảy, tám của Ban Chấp hành Trung ương, nền kinh tế đạt được một số tiến bộ. Sản lượng lương thực năm 1985 tăng 400.000 tấn, tốc độ sản xuất nông nghiệp tăng 7,4%, việc kết hợp kinh tế với quốc phòng có bước tiến khá. Tuy vậy, nền kinh tế nước ta vẫn đứng trước những khó khăn gay gắt. Lương thực, năng lượng, ngoại tệ, vật tư, tài chính vẫn rất căng thẳng. Cơ chế quản lý mới chưa hình thành. Kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước lỏng lẻo. Chủ trương lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu chưa được thực hiện đúng. Xây dựng cơ bản ham quy mô lớn. Chênh lệch giữa giá và lương, giữa lương danh nghĩa và lương thực tế nghiêm trọng đến mức khi người lao động chưa cầm được lương mới trong tay đã phải chịu ngay giá mới. Hội nghị chỉ ra một nguyên nhân sâu xa của tình hình trên là do nhận thức của Đảng về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn chưa rõ. Hội nghị nêu nhiệm vụ chủ yếu của kế hoạch năm 1986 là: Tập trung giải quyết những nhu cầu bức thiết nhất để từng bước ổn định tình hình kinh tế - xã hội, trước hết là tăng nhanh lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và các ngành công nghiệp nặng then chốt phục vụ nông nghiệp và công nghiệp nhẹ. VII. ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ VI CỦA ĐẢNG (THÁNG 12-1986) 1. Quá trình chuẩn bị Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được chuẩn bị từ năm 1984. Tháng 5-1986, Hội nghị lần thứ mười Ban Chấp hành Trung ương khoá V thông qua dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất và chủ trương đưa dự thảo xuống thảo luận ở Đại hội vòng 1 các cấp sau khi được Bộ Chính trị xem xét bổ sung hoàn chỉnh. Ngày 10-7-1986, giữa lúc toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang ra sức tháo gỡ khó khăn, khắc phục cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội và khẩn trương chuẩn bị mọi mặt cho Đại hội VI, đồng chí Lê Duẩn, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, qua đời.  Ngày 14-7-1986, Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Trung ương khoá V đã bầu đồng chí Trường Chinh, Uỷ viên Bộ Chính trị làm Tổng Bí thư. Từ giữa năm 1986 đến tháng 11-1986, Đại hội vòng 1 các cấp từ cơ sở quận, huyện đến tỉnh, thành phố và các Đảng bộ trực thuộc Trung ương góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội, phản ánh những thực tế nóng bỏng của cuộc sống xã hội. Tháng 7-1986, sau khi sơ bộ tổng hợp ý kiến đóng góp của Đại hội Đảng bộ vòng 1 các cấp, Bộ Chính trị nhận thấy dự thảo Báo cáo chính trị lần thứ nhất chưa đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; chưa rút ra được những bài học cơ bản từ thực tế xây dựng chủ nghĩa xã hội; chưa đề ra được nội dung đổi mới về kinh tế để có thể làm chuyển biến tình hình. Tháng 8-1986,Hội nghị Bộ Chính trị và Ban Bí thư đã thảo luận kỹ ba vấn đề lớn về kinh tế thời kỳ quá độ: cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, cơ chế quản lý kinh tế. Hội nghị cho rằng, phương hướng cơ bản để tháo gỡ là giải phóng năng lực sản xuất hiện có, khai thác và phát huy mọi tiềm năng của đất nước để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất. Hội nghị chỉ rõ: Hơn 10 năm qua, chúng ta đã mắc nhiều sai lầm, khuyết điểm trong bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư..., chúng ta muốn đi nhanh nhưng thực tế đã đi đường vòng, gây thêm cho mình những khó khăn mới và lãng phí thời gian, làm cho chặng đường đầu tiên bị kéo dài. Về cơ cấu kinh tế: Hội nghị vạch ra sai lầm chủ quan, nóng vội, quy mô quá lớn, nhịp độ quá nhanh trong xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất là một nguyên nhân quan trọng khiến cho sản xuất trong 5 năm gần đây như giẫm chân tại chỗ, năng suất lao động giảm sút, chi phí sản xuất không ngừng tăng lên, tình hình kinh tế - xã hội ngày càng không ổn định. Đây cũng là nguyên nhân trực tiếp chậm giải quyết vấn đề căn bản là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng thiết yếu và tạo nguồn hàng lớn cho xuất khẩu. Căn cứ vào nhận định trên, Hội nghị chủ trương điều chỉnh lớn trên cơ sở bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư theo hướng thật sự lấy nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, ra sức phát triển công nghiệp nhẹ. Hội nghị nhắc nhở các cấp đảng bộ và cơ quan nhà nước hiểu cho thấu đáo chuyển hướng là việc rất khó khăn, đòi hỏi phải đổi mới cách suy nghĩ và cách làm, dám thừa nhận và thay đổi các sai lầm trước đây của chính mình, dũng cảm xử lý những phức tạp nảy sinh trong quá trình chuyển hướng và điều chỉnh. Về cải tạo xã hội chủ nghĩa: Sau khi điểm qua những khuyết điểm nóng vội, chạy theo hình thức của công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa thời gian qua, Hội nghị chỉ ra nguyên nhân là do chưa nắm vững quy luật đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Quy luật này đòi hỏi: - Cải tạo quan hệ sản xuất cũ ở một nước từ sản xuất nhỏ đi lên như nước ta, trình độ xã hội hoá còn thấp, phải biết lựa chọn bước đi và hình thức thích hợp, phải qua những bước trung gian quá độ từ thấp lên cao và từ nhỏ đến lớn, làm cho quan hệ sản xuất luôn phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất. - Đặc trưng thời kỳ quá độ là nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần: a- Kinh tế xã hội chủ nghĩa (quốc doanh và tập thể); b- Các thành phần khác: công tư hợp doanh, tiểu sản xuất hàng hoá (thợ thủ công, nông dân cá thể, tiểu thương, kinh tế tự nhiên) và kinh tế tư bản tư nhân tồn tại trong một thời gian dài. Đó là sự cần thiết khách quan để phát triển lực lượng sản xuất. Kinh tế xã hội chủ nghĩa phải giữ vai trò chủ đạo. Về cơ chế quản lý kinh tế: Hội nghị cho rằng, cơ chế quản lý kinh tế cũ mang nặng tính chất tập trung quan liêu. Đặc trưng của cơ chế ấy là cơ quan quản lý hành chính có toàn quyền quyết định những vấn đề kinh tế nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về các quyết định của mình: không tính tới hiệu quả sử dụng tiền vốn, tài sản, vật tư, lao động; không gắn trách nhiệm với lợi ích vật chất, tách rời việc trả công lao động với số lượng và chất lượng lao động; bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều tầng lớp trung gian, cửa quyền, kém năng động, thiếu trách nhiệm. Hội nghị nêu nội dung chủ yếu của cơ chế quản lý kinh doanh xã hội chủ nghĩa là: - Đổi mới kế hoạch hoá theo nguyên tắc phát huy vai trò chủ đạo của các quy luật kinh tế xã hội chủ nghĩa, đồng thời sử dụng đúng đắn các quy luật của quan hệ hàng hoá - tiền tệ. - Làm cho các đơn vị kinh tế có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất, thu nhập của tập thể và người lao động phải căn cứ vào kết quả lao động và hiệu quả kinh tế. - Phân biệt chức năng quản lý hành chính - kinh tế của Nhà nước với chức năng quản lý sản xuất kinh doanh của các đơn vị kinh tế. - Phân công, phân cấp bảo đảm các quyền tập trung thống nhất của Trung ương trong những khâu then chốt về kinh tế, quyền chủ động của địa phương trên địa bàn lãnh thổ, quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của cơ sở. Trách nhiệm đi đôi với quyền hạn, nghĩa vụ gắn liền với lợi ích. Vừa chống tập trung quan liêu vừa chống tự do vô tổ chức, vô kỷ luật, cục bộ, địa phương. Công tác kế hoạch hoá phải được kết hợp chặt chẽ với thị trường. Kế hoạch phải thông qua thị trường, coi thị trường là căn cứ để xây dựng và điều chỉnh kế hoạch, điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Nhà nước cần sử dụng những biện pháp quản lý có hiệu quả kinh tế tư bản tư nhân, nghiêm trị bọn đầu cơ buôn lậu nhưng không thể xoá bỏ thị trường tự do theo ý muốn chủ quan bằng mệnh lệnh hành chính. - Chính sách giá cả phải vận dụng tổng hợp nhiều quy luật, trong đó quy luật giá trị có tác dụng trực tiếp, giá cả phải phù hợp với giá trị, sức mua của đồng tiền và quan hệ cung - cầu. Thước đo chính sách giá cả đúng đắn là ở chỗ làm cho người lao động làm ra nhiều sản phẩm hàng hoá, tích cực phấn đấu giảm tiêu hao sản xuất, hạ giá thành, nâng cao giá trị sản phẩm và hăng hái bán sản phẩm cho Nhà nước. Phấn đấu thi hành chính sách một giá, làm cho thương nghiệp mua được, bán được, Nhà nước không phải bù lỗ, không tạo ra nhu cầu giả tạo, ngăn chặn các hiện tượng thất thoát hàng hoá, tạo điều kiện giảm bớt căng thẳng cung - cầu và ổn định thị trường. Trong điều kiện Nhà nước chưa đủ điều kiện bảo đảm một số mặt hàng thiết yếu thì tạm thời áp dụng chính sách hai giá ở những nơi, những lúc nhất định. Những kết luận trên đây của Bộ Chính trị là cơ sở để đổi mới và hoàn chỉnh dự thảoBáo cáo chính trị trình Đại hội VI, là căn cứ để giải quyết những vấn đề cấp bách trước mắt, đồng thời là sự đổi mới tư duy về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, mở đường đưa đất nước ta ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội. Những kết luận của Bộ Chính trị (8-1986)là bước đột phá thứ ba để đi đến khẳng định đường lối đổi mới. Hội nghị lần thứ mười một Ban Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 11-1986) đã thông qua dự thảoBáo cáo chính trị mới được bổ sung và hoàn chỉnh bằng những quan điểm của Hội nghị Bộ Chính trị tháng 8-1986. Hội nghị cho rằng: Sau khi đã có chủ trương đổi mới thì việc lựa chọn cán bộ để thực hiện chủ trương trở thành khâu quyết định. Hội nghị nhất trí nêu ra những tiêu chuẩn lựa chọn cán bộ: đổi mới tư duy, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư; đồng thời nhấn mạnh công tác cán bộ phải đảm bảo đủ quy trình; Ban Chấp hành Trung ương cần có yêu cầu về chất lượng cao và có 3 độ tuổi; bố trí cán bộ cân đối cả nước, coi trọng các địa bàn, lĩnh vực quan trọng. Căn cứ vào những tiêu chuẩn trên đây, Hội nghị đã xem xét, lựa chọn, giới thiệu 177 đồng chí tham gia Ban Chấp hành Trung ương khoá VI. Hội nghị lần thứ mười haiBan Chấp hành Trung ương khoá V (tháng 12-1986) căn bản nhất trí với danh sách giới thiệu của Hội nghị lần thứ mười một, có điều chỉnh một số trường hợp và thông qua danh sách cuối cùng trình Đại hội VI. 2. Tiến hành Đại hội Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng được tiến hành tại Hà Nội từ ngày 5 -12-1986. Về dự Đại hội VI có 1.129 đại biểu chính thức, thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên cả nước, 35 đoàn đại biểu các đảng anh em, các tổ chức cách mạng và bầu bạn khắp năm châu, 300 nhà báo trong và ngoài nước. Đại hội nội bộ tiến hành từ ngày 5 đến ngày 14-12-1986. Đại hội đi sâu nghiên cứu và góp ý kiến vàoBáo cáo chính trị. Đại hội nhất trí khẳng định: Nhân dân ta đã đạt được những thành tựu quan trọng trong thời kỳ 1981 - 1985. So với 5 năm trước (1976 - 1980), thời kỳ này nông nghiệp bình quân hàng năm tăng gần 5%. Tổng sản lượng lương thực năm 1986 tăng hơn 3 triệu tấn so với năm 1981. Sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm 9,5%. Thu nhập quốc dân bình quân hàng năm tăng 6,4%. Công trình thuỷ điện Hoà Bình, Trị An đang được xây dựng, dầu mỏ bắt đầu được khai thác. Cải tạo xã hội chủ nghĩa tiến thêm một bước, đặc biệt chủ trương khoán sản phẩm theo Chỉ thị 100 đã mở lối ra cho quan hệ sản xuất ở nông thôn cũng như chủ trương nhiều nguồn cân đối và 3 phần kế hoạch trong Quyết định 25-CP đang mở đường cho sản xuất công nghiệp.Văn hoá xã hội phát triển. Cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đã giành được những thắng lợi to lớn. Nghĩa vụ quốc tế đối với nhân dân Lào và Campuchia được thực hiện tốt, góp phần tăng cường quan hệ giữa ba nước Đông Dương. Quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa thêm chặt chẽ. Những thành tựu trên đã tạo cho sự nghiệp cách mạng nước ta những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên. Báo cáo chính trị đã nghiêm khắc chỉ ra tính chất nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội : sản xuất tăng chậm, nhiều chỉ tiêu quan trọng của kế hoạch 5 năm không đạt được; tài nguyên bị lãng phí; phân phối lưu thông rối ren, nhiều người lao động chưa có việc làm, hàng tiêu dùng không đủ, nhà ở và điều kiện vệ sinh thiếu thốn. Thiếu sót lớn nhất là chưa thực hiện được mục tiêu ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân - mục tiêu hàng đầu do Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V đề ra. Nguyên nhân chủ quan của tình hình trên là những sai lầm nghiêm trọng về chủ trương, chính sách lớn; về chỉ đạo chiến lược và tổ chức thực hiện của Đảng và của Nhà nước. Sai lầm thể hiện trên các mặt: xác định mục tiêu và bước đi không sát thực tế nước ta, không coi trọng khôi phục kinh tế là nhiệm vụ cấp bách; nông nghiệp vẫn chưa thực sự là mặt trận hàng đầu; muốn xoá bỏ ngay các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong vòng 5 năm; chưa biết kết hợp kế hoạch hoá với quan hệ hàng hoá - tiền tệ; mắc sai lầm rất nghiêm trọng trong lĩnh vực phân phối, lưu thông. Trên lĩnh vực tư tưởng đã bộc lộ sự lạc hậu về nhận thức lý luận, chậm tổng kết kinh nghiệm về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong công tác tổ chức, chậm thực hiện đổi mới công tác cán bộ. Lựa chọn và bố trí cán bộ chỉ nhấn mạnh học vị, bằng cấp mà không chú ý đến thực chất năng lực làm việc và kinh nghiệm rèn luyện thực tế. Phong cách lãnh đạo mang nặng chủ nghĩa quan liêu. Việc điều chỉnh địa giới lãnh thổ thiếu căn cứ khoa học, dẫn đến nhiều tỉnh, huyện quá lớn, hợp tác xã quá rộng. Ban Chấp hành Trung ương khoá V tự phê bình nghiêm túc trước Đại hội:  "Trách nhiệm trước hết thuộc về Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng". Báo cáo chính trị nêu ra bốn bài học kinh nghiệm: Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng "lấy dân làm gốc". Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới. Bốn là, chăm lo xây dựng Đảng ngang tầm với một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Báo cáo chính trị xác định nhiệm vụ chung của chặng đường đầu tiên là:ổn định mọi mặt tình hình kinh tế - xã hội, xây dựng những tiền đề cần thiết cho việc công nghiệp hoá trong chặng đường tiếp theo. Mục tiêu cụ thể về kinh tế - xã hội của chặng đường đầu tiên là: 1. Sản xuất đủ tiêu dùng và có tích luỹ. 2. Bước đầu tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý hướng vào việc đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, chủ yếu là lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng và xuất khẩu. 3. Làm cho thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa giữ vai trò chi phối, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ, dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và tăng thu nhập cho người lao động. 4. Tạo ra chuyển biến về mặt xã hội, việc làm, công bằng xã hội, chống tiêu cực, mở rộng dân chủ, giữ kỷ cương phép nước. 5. Củng cố quốc phòng và an ninh. Về chính sách đối ngoại, Báo cáo chính trị nêu rõ: Góp phần phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, Đông Nam Á và thế giới, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội, tăng cường tình hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa; bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Về phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, Báo cáo chính trị đề ra khẩu hiệu "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra", và nêu rõ: tăng cường hiệu lực quản lý của Nhà nước là điều kiện tất yếu bảo đảm huy động lực lượng to lớn của quần chúng. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, Báo cáo chính trị nêu ra 6 yêu cầu: 1. Đổi mới tư duy, nâng cao phẩm chất cách mạng của cán bộ đảng viên và nhân dân là nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng. Coi trọng công tác lý luận, cung cấp nội dung cho sự nghiệp đổi mới. Đổi mới cả về nội dung, hình thức, phương pháp, con người và phương tiện làm công tác tư tưởng. Đổi mới đội ngũ cán bộ giảng dạy, viết lại sách giáo khoa và đổi mới cách dạy học ở các trường của Đảng, Nhà nước và đoàn thể. 2. Đổi mới đội ngũ cán bộ, kiện toàn các cơ quan lãnh đạo và quản lý. Trước hết phải đổi mới công tác cán bộ, bộ máy, cơ chế và đội ngũ những người làm công tác cán bộ. Tiêu chuẩn để đánh giá cán bộ là hiệu quả công tác. Chấm dứt tình trạng bổ nhiệm cán bộ không có hiểu biết hoặc kém chuyên môn vào các cương vị lãnh đạo và quản lý cơ quan chuyên môn. Thực hiện chế độ bãi miễn đối với cán bộ vô trách nhiệm, thiếu năng lực. 3. Đổi mới phong cách làm việc, mở rộng dân chủ, khuyến khích năng động, sáng tạo trên cơ sở nguyên tắc, đường lối của Đảng. Hoàn chỉnh các chế độ hội nghị, kiểm tra, tự phê bình và phê bình, điều tra nghiên cứu, nắm thông tin nhanh chóng, chính xác, tiếp xúc và lắng nghe ý kiến quần chúng, tổng kết kinh nghiệm, lãnh đạo tập thể. 4. Nâng cao chất lượng đảng viên. Mở cuộc vận động làm trong sạch Đảng. Học tập đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chống tham nhũng, chống đặc quyền đặc lợi, đưa lên phương tiện thông tin đại chúng những vụ sai lầm nghiêm trọng về phẩm chất. 5. Nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở. Tạo điều kiện để quần chúng tham gia xây dựng Đảng. 6. Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng. Báo cáo chính trị được Đại hội hoan nghênh và bổ sung phong phú thêm. Gần 700 ý kiến của đại biểu đề nghị nhấn mạnh việc tổng kết kinh nghiệm, giải quyết những trường hợp mất đoàn kết, đổi mới đội ngũ cán bộ cho đúng thực chất, vận dụng chính sách đối ngoại truyền thống. Báo cáo về phương hướng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990 đã cụ thể hoá những vấn đề kinh tế và xã hội lớn nêu trong Báo cáo chính trị, trước hết là ba chương trình lớn: lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Nhiều đoàn đại biểu cho rằng, Báo cáo kinh tế chưa tìm ra những giải pháp làm giảm nhịp độ tăng giá, giảm khó khăn trong đời sống của người ăn lương; đề nghị chỉ nêu dựa trên các nguồn lực đã nắm được để tập trung cho ba chương trình kinh tế lớn; phấn đấu thi hành chính sách một giá, tạm thời duy trì chính sách hai giá ở những nơi, những lúc Nhà nước chưa có đủ lực lượng. Báo cáo về sửa đổi Điều lệ Đảng được Đại hội thảo luận và bổ sung. Đại hội nhắc lại tiêu chuẩn của đảng viên là có lao động, không bóc lột. Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất về mọi mặt của Đảng; trên cơ sở đảm bảo sự lãnh đạo tập thể của tổ chức đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy ở tất cả các cấp trong quân đội. Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư do Ban Chấp hành Trung ương cử ra. Về kỷ luật của Đảng, chậm nhất là 1 năm sau khi đảng viên bị thi hành kỷ luật, tổ chức đảng phải nghe đảng viên báo cáo về tình hình sửa chữa khuyết điểm, nếu xét thấy đảng viên thực sự đã sửa chữa và tiến bộ thì quyết định công nhận đảng viên đã sửa chữa khuyết điểm, tổ chức đảng không có định kiến trong việc sử dụng, cất nhắc những đảng viên đó. Từ ngày 9 đến ngày 13-12-1986, sau khi nghe và thảo luận Báo cáo đề nghị của Ban Chấp hành Trung ương về nhân sự, tiêu chuẩn, cấu trúc, số lượng Ban Chấp hành Trung ương mới,Đại hội tiến hành bầu cử. Ban Chấp hành Trung ương mới gồm có 173 đồng chí (124 uỷ viên chính thức, 49 uỷ viên dự khuyết). Có 92 đồng chí khoá V được bầu lại và 81 đồng chí mới được bầu. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương khoá VI họp ngày 14-12-1986 đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 uỷ viên chính thức và 1 uỷ viên dự khuyết (9 đồng chí uỷ viên cũ và 5 đồng chí uỷ viên mới). Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư. Ban Bí thư gồm 12 đồng chí và Uỷ ban Kiểm tra Trung ương Đảng gồm 7 đồng chí. Đại hội công khai họp từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986. Ngày 15-12, Đại hội nghe đồng chí Trường Chinh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá V trình bày Tóm tắt báo cáo chính trị; đồng chí Võ Văn Kiệt, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng trình bày tóm tắtPhương hướng, mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế - xã hội 1986 - 1990; đồng chí Lê Đức Thọ, Uỷ viên Bộ Chính trị trình bày Báo cáo bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng. Các ngày tiếp theo, Đại hội nghe tham luận của các đại biểu. Tham luận của các đoàn đại biểu quốc tế đều nói lên tình cảm gắn bó với Đảng ta và nhân dân ta, đánh giá cao tinh thần dũng cảm tự phê bình của Đảng ta, bày tỏ lòng tin ở con đường và sức sống của Việt Nam đổi mới. Chiều ngày 17-12, Đại hội nghe đồng chí Phạm Hùng báo cáo về đề nghị không ứng cử của ba đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ. Đại hội tuyên dương công trạng to lớn vì nước vì dân của ba đồng chí đã làm nổi bật truyền thống cao đẹp của dân tộc ta: Truyền thống thế hệ trước ân cần dìu dắt thế hệ sau, thế hệ sau kế tục trung thành với sự nghiệp của thế hệ trước. Đại hội nhất trí trao trách nhiệm cao cả cho ba đồng chí làm cố vấn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Ngày 18-12, Đại hội thông qua Nghị quyết về Báo cáo chính trị, Báo cáo kinh tế và Báo cáo xây dựng Đảng. Nghị quyết Đại hội VI khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá VI chỉ đạo việc hoàn thành 10 nhiệm vụ cụ thể để thực hiện Nghị quyết Đại hội. Đồng chí Nguyễn Văn Linh, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương khoá VI đọc Diễn văn bế mạc Đại hội. Đại hội VI của Đảng có ý nghĩa lịch sử trọng đại, đánh dấu một bước ngoặt trong sự nghiệp quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với tầm nhìn thấu rõ thực trạng đất nước, tổng kết được những kinh nghiệm từ thực tiễn thành công và thất bại; với ý thức trách nhiệm vì dân, vì nước, dũng cảm thừa nhận sai lầm, khuyết điểm, với tinh thần đoàn kết, nhất trí cao. Đại hội VI đã tìm ra lối thoát cho cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, đặt nền tảng cho việc tìm ra con đường thích hợp đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tuy nhiên, Đại hội VI còn có hạn chế về những giải pháp tháo gỡ tình trạng rối ren trong phân phối, lưu thông. Từ tháng 3-1979 đến tháng 12-1986, nhân dân ta và Đảng ta đã vượt qua một giai đoạn thử thách vô cùng gay go, quyết liệt. Thành công nổi bật của giai đoạn này chưa phải là giải quyết được cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội mà chủ yếu là tìm ra con đường đúng đi lên chủ nghĩa xã hội, ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế. Qua 8 năm trăn trở, suy tư, từ những thử nghiệm thành công về khoán sản phẩm trong nông nghiệp và giao quyền tự chủ trong công nghiệp đến những thực tiễn thất bại, thành công trong lựa chọn cơ cấu kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, toàn dân ta hoàn toàn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng: con đường đúng đắn đã được tìm ra. Đó là con đường đúng đắn vì con đường đó hợp với lòng dân, ngày càng được thực tiễn cuộc sống chứng minh là phù hợp quy luật của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, dù đây mới chỉ là tìm tòi ban đầu. Tìm ra con đường thích hợp và giải pháp ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, một lần nữa Đảng ta tỏ rõ bản lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường. Qua quá trình tìm tòi con đường thích hợp, Đảng ta đã rút ra một số kinh nghiệm: 1. Muốn tìm ra con đường đúng, điều kiện tiên quyết là nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng thực trạng đất nước. Tổng kết thực tiễn một cách công phu và khoa học là phương pháp tốt nhất đánh giá thực trạng, tìm ra nguyên nhân, con đường. 2. Tổng kết thực tiễn đòi hỏi phải biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, phân tích từng loại ý kiến, tự đặt câu hỏi và tìm cách trả lời để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxTìm tòi con đường thích hợp đi lên Chủ nghĩa Xã hội (1975-1986).docx