Tìm hiểu cơ bản về bộ nhớ DDR (Double Data Rate)
Chúng ta đã sử dụng bộ nhớ DDR (Double Data Rate) và chúng đã từng
phục vụ chúng ta rất tốt. Tuy vậy, có lẽ đã đến lúc phải nói lời chia tay
với công nghệ này - sứ mệnh của nó đã đến hồi kết thúc. Bộ nhớ DDR
quá chậm và có một số vấn đề về vận hành. Một số khả năng thay thế
đang được xem xét, trong đó có DDR2. Chúng ta sẽ nghiên cứu về DDR2
để tìm hiểu nó làm việc như thế nào. Nếu đang tìm mua bộ nhớ máy tính,
đây là những thông tin đáng giá đối với bạn.
Bộ vi xử lý có tốc độ ngày càng nhanh và cũng ngày càng nóng hơn khi
chạy. Hiện nay có những phần cứng đồ họa tiêu thụ công suất tới 75W,
bằng một bóng điện trung bình. Bộ nhớ cũng không phải là một ngoại lệ.
Các máy tính được trang bị bộ nhớ ngày càng nhanh và song song với đó,
điện năng tiêu thụ và nhiệt tỏa ra khi chạy cũng ngày càng tăng lên.
5 trang |
Chia sẻ: tlsuongmuoi | Lượt xem: 2407 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Tìm hiểu cơ bản về bộ nhớ DDR (Double Data Rate), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chúng ta đã sử dụng bộ nhớ DDR (Double Data Rate) và chúng đã từng
phục vụ chúng ta rất tốt. Tuy vậy, có lẽ đã đến lúc phải nói lời chia tay
với công nghệ này - sứ mệnh của nó đã đến hồi kết thúc. Bộ nhớ DDR
quá chậm và có một số vấn đề về vận hành. Một số khả năng thay thế
đang được xem xét, trong đó có DDR2. Chúng ta sẽ nghiên cứu về DDR2
để tìm hiểu nó làm việc như thế nào. Nếu đang tìm mua bộ nhớ máy tính,
đây là những thông tin đáng giá đối với bạn.
Bộ vi xử lý có tốc độ ngày càng nhanh và cũng ngày càng nóng hơn khi
chạy. Hiện nay có những phần cứng đồ họa tiêu thụ công suất tới 75W,
bằng một bóng điện trung bình. Bộ nhớ cũng không phải là một ngoại lệ.
Các máy tính được trang bị bộ nhớ ngày càng nhanh và song song với đó,
điện năng tiêu thụ và nhiệt tỏa ra khi chạy cũng ngày càng tăng lên.
Phần lớn các hệ thống máy tính được bán ra từ trước tới nay sử dụng bộ
nhớ DDR. Bộ nhớ DDR hoạt động nhanh gấp đôi so với các bộ nhớ tiền
nhiệm bởi vì nó có thể đọc/ghi dữ liệu theo cả chu kỳ lên và chu kỳ
xuống của đồng hồ hệ thống, tức mỗi chu kỳ của đồng hồ hệ thống chúng
thao tác được 2 mẫu dữ liệu. Chính vì vậy, các bộ nhớ DDR thường được
ghi nhãn với thông số tốc độ đồng hồ thực của nó, cao gấp hai lần tốc độ
của đồng hồ hệ thống. Ví dụ, một bộ nhớ DDR chạy ở tốc độ đồng hồ hệ
thống 200 MHz được ghi nhãn là DDR400.
Một cách ghi nhãn khác là căn cứ vào tốc độ truyền dữ liệu thực của bộ
nhớ. Bộ nhớ DDR400, có thể truyền 3,2 gigabyte dữ liệu một giây, còn
được ghi nhãn là PC320 (3200 Mbit/s). Tốc độ này thoạt đầu tưởng như
khá cao, nhưng quả thực so với các tiêu chuẩn bộ vi xử lý hiện nay nó
thực sự chưa thể theo kịp. Bộ vi xử lý Pentium 4 (3,4 GHz) hoặc Athlon
64 FX-53 (2,4 GHz ) vẫn phải mất khá nhiều thời gian chờ đợi dữ liệu
đọc từ bộ nhớ. Kích thước cache của các bộ vi xử lý đã tăng lên nhằm
giảm thiểu thời gian chờ đợi này.
Còn có một số vấn đề khác liên quan tới DDR làm ảnh hưởng tới sự ổn
định và vận hành của máy tính. Thí dụ, việc kết thúc bộ nhớ (MT -
Memory Termination) là rất cần thiết để giảm thiểu sự phản xạ tín hiệu có
thể làm giảm độ ổn định. MT không được thiết kế bên trong bộ nhớ DDR
mà trên thực tế nó được điều khiển bằng một tập hợp các gói điện trở
trong bo mạch chủ. Cách thiết kế này có chi phí tương đối cao và hơn nữa
lại làm tăng khả năng mất ổn định khi tốc độ đồng hồ tăng lên do các điện
trở kiểm soát việc kết thúc bộ nhớ cách xa các chíp DRAM.
DDR2: Giảm năng lượng tiêu thụ và vấn đề về độ trễ
Bộ nhớ mới nhất cho các dòng máy tính cá nhân chủ đạo hiện nay là
DDR2. DDR2 khắc phục một số vấn đề tiềm ẩn với bộ nhớ DDR nguyên
thuỷ (còn được gọi là DDR1). Ví dụ, DDR2 có cơ chế kết thúc bộ nhớ
khi thôi sử dụng (on-die termination) cho phép nâng cao tính toàn vẹn của
tín hiệu nếu tốc độ đồng hồ tăng lên.
DDR2 cũng khắc phục vấn đề điện năng tiêu thụ và nhiệt toả ra cao một
cách rất hiệu quả. Tỉ lệ đồng hồ thực sự của bộ nhớ DDR2 bằng 1/2 tỉ lệ
đồng hồ hệ thống nhận biết biết được. Trong khi đó, đồng hồ bộ nhớ của
DDR1 được giữ ở cùng tốc độ với đồng hồ nhập/xuất (I/O clock) bên
ngoài. Ví dụ, một bộ nhớ DDR2/533 (266 MHz) có nhịp đồng hồ nội tại
thực tế là 133 MHz. Đồng hồ bộ đệm nhập/xuất là 266 MHz nhưng đó là
nhịp đồng hồ dành riêng cho hệ thống. Để giải quyết cho sự không đồng
bộ về nhịp đồng hồ này, DDR2 sẽ chuyển tới 4 mẫu dữ liệu cho mỗi chu
kỳ đồng hồ. Vì bộ nhớ đệm I/O chạy nhanh gấp đôi, nó chỉ cần xử lý 2
mẫu dữ liệu cho mỗi chu kỳ đồng hồ I/O. Do đó, trên thực tế bộ nhớ
chuyển dữ liệu tới bộ nhớ đệm I/O ở tốc độ nhanh gấp bốn (quad data
rate) nhưng hệ thống chỉ “nhìn thấy” hai mẫu dữ liệu cho mỗi chu kỳ
đồng hồ I/O.
Còn độ trễ là một điều hoàn toàn khác. Độ trễ CAS (xung địa chỉ theo cột
) của bộ nhớ DDR1 có thể lên tới 2 chu kỳ đồng hồ, đối với một số
môđun trong hệ thống của các nhà sản xuất gốc (OEM) độ trễ có thể lên
tới 2,5 hoặc 3 chu kỳ. Độ trễ ghi dữ liệu của DDR là một chu kỳ nhưng
ngay cả khi tần số của phần cứng bên ngoài tăng lên, chỉ số này vẫn còn
khá thấp. Vì vậy DDR2 chấp nhận một hướng tiếp cận với thuật toán xử
lý khá đơn giản, đảm bảo độ trễ ghi luôn kém độ trễ CAS 1 chu kỳ đồng
hồ. Vì vậy, nếu độ trễ CAS là 4 (tiêu biểu cho các mô đun DDR2 hiện
nay) thì độ trễ ghi luôn là 3 chu kỳ.
Đứng trên góc độ của toàn hệ thống, độ trễ thực sự không có ảnh hưởng
nhiều lắm. Độ trễ CAS 2 cho DDR400 chỉ vào khoảng 15ms và độ trễ
CAS 3 cho DDR2.533 cũng tương tự như vậy. Băng thông tổng thể vẫn
tăng lên, bởi vì độ trễ tương đối thấp này chỉ xảy ra đối với lần đọc đầu
tiên của một dòng bộ nhớ. Sau đó, bộ nhớ sẽ chuyển dữ liệu cho hệ thống
theo một chu kỳ đồng hồ cao hơn. Nếu hệ thống chạy với bộ nhớ
DDR2/400, bạn sẽ không thấy một sự khác biệt đáng kể nào trong hiệu
suất vận hành.
Vấn đề điện năng tiêu thụ cao được xử lý bằng cách hạ thấp điện áp từ
2,5V xuống 1,8V. Khi dung lượng bộ nhớ tăng, điện năng tiêu thụ cho sự
gia tăng bộ nhớ cũng tăng theo. Theo tính toán, 4GB bộ nhớ DDR1 tiêu
thụ 35-40W điện năng. Điện áp giảm xuống giúp điện năng tiêu thụ cho
4GB bộ nhớ cũng chỉ còn 25-30W. Điện áp thấp còn giúp có thể nâng cao
tần số hoạt động của đồng hồ.
Bus hệ thống và các bộ điều khiển bộ nhớ
Các bộ vi xử lý LGA 774 Pentium 4 sử dụng bus hệ thống (Bus nối CPU
và bộ nhớ chính trên bo mạch chủ) tốc độ 200 MHz (tốc độ thực tế 800
MHz) nhưng tốc độ thực sự của đồng hồ bộ nhớ DDR2/533 lại là 266
MHz. Sự khác biệt này làm giảm tính hiệu quả của bộ nhớ cũng như ảnh
hưởng tới thông lượng. Lý tưởng nhất, chắc chắn bạn muốn đồng hồ của
bus hệ thống đồng bộ với đồng hồ bộ nhớ. Có nhiều khả năng Intel sẽ
tăng tốc độ bus hệ thống của dòng Pentium4 vào cuối năm nay.
AMD, trái lại, đang phải đối mặt với một vấn đề khác hơn chút ít. Bộ
điều khiển bộ nhớ của chíp Athlon 64 được tích hợp sẵn trong CPU. Mặt
tích cực của thiết kế này là độ trễ của bộ điều khiển bộ nhớ được giảm
xuống đáng kể vì chúng chạy cùng tốc độ với bộ vi xử lý. Nhưng điều đó
cũng có nghĩa AMD cần cải tiến lại Athlon 64 để hỗ trợ DDR2. Việc họ
có thực hiện sự cải tiến này cho các thế hệ CPU hiện nay hay phải đợi tới
công nghệ 90nm vẫn là một câu hỏi ngỏ. Với khả năng vận hành xuất sắc
khi chạy hệ thống của AMD với DDR400, sự chưa tương thích này chưa
phải đã ảnh hướng nhiều tới họ trong thời gian trước mắt.
Các bộ nhớ khác
Trong khi DDR và DDR2 chiếm thị phần lớn trên thị trường bộ nhớ hiện
nay, các loại bộ nhớ khác đang ganh đua để giành sự chú ý của các nhà
chế tạo gốc OEM. Các loại bộ nhớ này bao gồm QBM (quad-band
memory) của Kentrol và bộ nhớ XDR mới của Rambus. Sự ủng hộ đối
với QBM đã được VIA thông báo khá rầm rộ vào năm ngoái. Sản phẩm
này của Kentron không phải là một thiết kế hoàn toàn mới mà kế thừa từ
DDR và sử dụng công nghệ chuyển mạch để làm tăng gấp đôi thông
lượng. Có thể xem nó như một loại bộ nhớ kênh đôi (dual-channel) trên
một môđun đơn. ý tưởng của Kentron là dùng một bộ nhớ có tốc độ và
chi phí đều thấp và cải tiến để làm tăng gấp đôi khả năng vận hành nhưng
không tăng tốc độ đồng hồ.
XDR là nỗ lực gần đây nhất của Rambus nhằm thuyết phục các nhà sản
xuất PC và bộ nhớ sử dụng công nghệ độc quyền của công ty này. Một nỗ
lực đáng kể trước đây của Rambus trong lĩnh vực chế tạo bộ nhớ máy
tính là việc tung ra thị trường sản phẩm RDRAM. Sự kiện này cũng đã
gây tác động đáng kể với việc Intel công bố sử dụng RDRAM trong các
chipset Intel 820, 850 và 860. XDR DRAM thực sự là một công nghệ
hướng tới tương lai. Rambus dự đoán rằng DDR2/667 sẽ là bộ nhớ dòng
DDR2 đạt tốc độ tối đa, mặc dù một số nhà quan sát khác lại cho rằng
đỉnh cao về tốc độ phải là DDR2/800. Bất cứ kết cục như thế nào,
Rambus cũng cho rằng XDR DRAM sẽ là “bước tiếp theo” trong nỗ lực
cải thiện khả năng vận hành của bộ nhớ. Tất nhiên, với lịch sử đầy những
sự tranh chấp của Rambus, cũng chưa có gì chắc chắn ai sẽ hợp tác với
họ. XDR dựa vào công nghệ tín hiệu Yellowstone của Rambus, không có
gì phải bàn cãi về bản quyền sở hữu nhưng cần ít nhất 18 tháng để nó có
thể chiếm lĩnh được một vị trí đáng kể. Còn nhiều sự thay đổi trong thế
giới công nghệ trong khoảng thời gian đó.
Những sự lựa chọn khi nâng cấp bộ nhớ
Chỉ có hai trường hợp có thể xảy ra: bạn quyết định mua một hệ thống
mới hay nâng cấp từ hệ thống cũ. Nếu bạn đang sử dụng DDR1, việc
nâng cấp bộ nhớ có thể đồng nghĩa với việc mua thêm các mô đun DDR1.
Tuy nhiên, nếu bạn sử dụng một hệ thống cũ và dự định nâng cấp lên một
bộ vi xử lý mới, cần cân nhắc kỹ hơn nhu cầu về bộ nhớ trước khi thực
hiện việc nâng cấp hệ thống.
Nếu bạn quyết định mua một hệ thống mới thì bạn phải xem xét giữa hai
lựa chọn: AMD hay Intel. Nếu bạn chọn Intel, cần phải có một bo mạch
socket T có thể hỗ trợ các chipset dòng 900 mới và bộ nhớ DDR2. Trong
trường hợp này, bạn nên bỏ thêm chi phí và mua luôn bộ nhớ DDR2/533.
Một số công ty cũng bắt đầu cung cấp DDR2/667 nhưng hiện nay chưa
thực sự rõ ràng là liệu các mô đun với nhãn DDR2/667 có thể làm việc
thực sự trong các hệ thống DDR2/667 hay không. Ngoài ra, giá đắt cũng
là một vấn đề nữa, vì vậy bây giờ thì DDR2/533 là một lựa chọn tốt nhất.
Nếu muốn nâng cấp máy tính lên Athlon 64, lựa chọn của bạn rất đơn
giản: DDR400. Với ưu điểm của bộ điều khiển bộ nhớ tích hợp trong
thiết kế của Athlon 64, song song với chất lượng tốt, độ trễ thấp của
DDR400 cũng cải thiện sự vận hành chút ít. Nhưng bạn cũng nên cân
nhắc kỹ sự lựa chọn của mình vì nếu chờ tới mùa thu năm nay, Athlon 64
có thể hỗ trợ cả DDR2.
Vị trí của khe cắt (gọi là Key hole) ở cạnh chân DDR2 và DDR cũng
khác nhau. Nhưng do khe cắt trên DDR2 được di dời vào gần giữa hơn,
khó phân biệt đầu phải, đầu trái hơn, nên bạn phải “cẩn thận gấp đôi” khi
gắn thanh DDR2 vào socket.
Với DDR2, cấu hình Dual Channel cũng linh hoạt hơn. Bạn có thể gắn và
thanh 256MB ở một socket kênh 1, và hai thanh 128MB ở hai socket
kênh 2 (chứ không bắt buộc phải dùng mỗi kênh một thanh và có cùng
dung lượng như ở DDR).
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu cơ bản về bộ nhớ DDR (Double Data Rate).pdf