Tiểu luận môn Dịch vụ công - Đề tài: Cung ứng dịch vụ văn hóa ở Việt Nam

Nhận thức về dich vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công vẫn còn là vấn đề mới mẻ ở nước ta. Thiết nghĩ Chính Phủ và người dân đều cần phải quan tâm hơn nữa đến chức năng này. Hoạt động cung ứng dịch vụ công là sự thể hiện trực tiếp nhất về hình ảnh của Nhà Nước trước công dân. Hoạt động cung ứng dịch vụ công nói chung, dịch vụ công về văn hóa nói riêng cũng phản ánh năng lực của bộ máy hành chính nhà nước, vì đó là những sản phẩm cụ thể của nhà nước đối với tổ chức và công dân. Hơn nữa, những hoạt động liên quan đến văn hóa thường diễn ra liên tục và có tính nhay cảm lớn. Vì vậy việc cải cách cung ứng dịch vụ công về văn hóa là một nội dung cơ bản để phục vụ tốt hơn các nhu cầu văn hóa của người dân. Trong đó giải pháp tiến hành xã hội hóa vẫn được coi là một hướng đi có tính thực tiễn và phù hợp, tuy nhiên trong thòi gian tới cung cần nghiên cứu những hình thức cung ứng mới như thành lập các cơ quan dịch vụ hành chính tự quản theo mô hình ở các nước phát triển (Anh, Mỹ, Canada.).

docx24 trang | Chia sẻ: linhmy2pp | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 194 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Tiểu luận môn Dịch vụ công - Đề tài: Cung ứng dịch vụ văn hóa ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN MÔN: DỊCH VỤ CÔNG Đề tài: “Cung ứng dịch vụ văn hóa ở Việt Nam”.  LỜI MỞ ĐẦU Cung ứng dich vụ công là một chức năng quan trọng của Nhà Nước trong xã hội hiện đại, nhất là khi các Nhà Nước đang cải cách theo hướng gần dân hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nhân dân. Một yêu cầu bức xúc đặt ra của nhiều nước trên thế giới hiện nay là làm rõ vai trò của nhà nước trong việc cung ứng dịch vụ công, từ đó xác định những nhiệm vụ nào chỉ có thể do Nhà Nước tự đảm nhận và những dịch vụ nào có thể thu hút sự tham gia của khu vực tư nhân. Cải tiến việc cung ứng dịch vụ công đã và đang là một chủ đề được nhiều chính phủ trên thế giới quan tâm. Ở nước ta cải cách hành chính được xác định là trọng tâm của việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Các nội dung của cuộc cải cách hành chính nhằm hướng vào xây dựng một nền hành chính trong sạch vững mạnh, từng bước hiện đại hóa nhằm phục vụ những lợi ích chung thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ của người dân. Thông qua cải cách hành chính, nhà nước từng bước nâng cao chất lượng cung ứng dich vụ công cho nhân dân. Quá trình ứng dịch vụ ở nước ta hiện nay đang tập chung vào một nội dung quan trọng là tiến hành xã hội hóa ngày càng rộng rãi các dịch vụ công trong một số lĩnh vực như: giáo dục, y tế, văn hóa, khoa học công nghệ bên cạnh, đó yêu cầu cải cách hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước trong việc cung ứng các dịch vị hành chính cho công dân cũng đang trở thành một trọng tâm của việc đổi mới hoạt động của bộ máy Nhà nước. Do phạm vi của dịch vụ công bao quát quá rộng nên tùy từng loại dịch vụ mà nhà nhước có thể lựa chọn các hình thức cung ứng khác nhau phụ thuộc vào tính chất của dịch vu cũng như khả năng cung ứng nó . Đời sống Kinh tế - Xã hội phát triển, nhu cầu hưởng thụ văn hóa tinh thần tất yếu cũng nâng lên đa dạng và phong phú. Các loại hình biểu diễn nghệ thuật nở rộ, trò chơi điện tử, dịch vụ karaoke, kinh doanh băng đĩa phát triển, nhiều lễ hội được khôi phục đặt ra nhiệm vụ là nhà nước phải cung ứng các dịch vụ hành chính công và dịch vụ công cộng thuộc lĩnh vực này sao cho tốt. Sở dĩ vì vậy mà chúng tôi nhận thấy lĩnh vực Cung ứng dịch vụ công về văn hóa cũng cần được xem xét và đưa ra phương hướng cải tiến chất lượng loại dịch vụ này ở nước ta hiện nay. NỘI DUNG CHÍNH I. TỔNG QUAN VỀ CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG VỀ VĂN HÓA 1. Khái niệm văn hóa, dịch vụ công 1.1. Văn hóa Có nhiều cách hiểu khác nhau về văn hóa: - Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sang tạo ra. Văn hóa là chìa khóa của sự phát triển. - Theo UNESCO: Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của một xã hội hay của một nhóm người trong xã hội.Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người,những hệ thống giá trị,những tập tục và những tín ngưỡng. 1.2. Dịch vụ công Là những hoạt động phục vụ các lợi ích chung, thiết yếu, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của tổ chức, công dân, do nhà nước trực tiếp thực hiện hoặc chuyển giao cho các cơ sở ngoài nhà nước thực hiện nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. 2. Cung ứng dịch vụ công về văn hóa 2.1. Hai lĩnh vực cưng ứng dịch vụ công: (phổ biến nhất) - Dịch vụ hành chính công: là dịch vụ gắn liền với chức năng quản lý Nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân. Do vậy cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập được ủy quyền. Đây là một phần trong chức năng quản lý Nhà nước. Nhà nước phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng ký, công chứng, thị thực, hộ tịch, - Dịch vụ sự nghiệp công, bao gồm: + Dịch vụ xã hội: xã hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức khoẻ, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội; + Dịch vụ công ích: cung cấp điên, nước sạch, vệ sinh môi trường, xây dựng đường 2.2. Cung ứng dịch vụ công về văn hóa: (theo ý kiến cá nhân của nhóm) Là một trong những hoạt động của hoạt động sự nghiệp công (chức năng xã hội) của Nhà nước. Văn hóa bao gồm: lễ hội,triển lãm,nghệ thuật kiến trúc, bảo tàng, du lich, khách sạn,vui chơi giải trí, ẩm thực, 3. Cung ứng dịch vụ công về văn hóa ở một số nước trên thế giới 3.1. Ở nước Anh Cơ quan quốc gia đầu tiên tài trợ cho nghệ thuật là Hội đồng khuyến khích Âm nhạc và Nghệ thuật (CEMA), sử dụng quỹ công và quỹ từ thiện để hỗ trợ cho nghệ thuật. Gần 20 năm sau chiến tranh, Bộ Tài chính là cơ quan nhà nước có trách nhiệm trợ cấp cho hoạt động của Hội đồng Nghệ thuật Anh quốc, các bảo tàng quốc gia và phòng trưng bày, thư viện Anh quốc v.v... Năm 1965,g iao cho Bộ Giáo dục và Khoa học. Uỷ ban Thường trực về Bảo tàng và Phòng trưng bày Năm 1963, có trách nhiệm trợ cấp cho các Bảo tàng Quốc gia. Các cơ quan chính quyền địa phương bắt đầu mở rộng sự hỗ trợ của mình, xây dựng hoặc khôi phục các nhà hát, các bảo tàng, phòng trưng bày và các trung tâm cộng đồng đa mục đích, cũng như điều hành các chương trình và lễ hội riêng của họ. * Cung cấp tài chính cho Văn hoá: Chi tiêu của Chính phủ trung ương thực hiện thông qua Bộ Văn hoá, Truyền thông và Thể thao theo năm tài chính (từ 31/4 đến 1/3 của năm sau) 2002/2003 là 1000 triệu Bảng, trong đó: - 379 triệu bảng cho các bảo tàng, phòng trưng bày và thư viện Quốc gia; - 296 triệu bảng cho nghệ thuật; - 113 triệu bảng cho phát thanh - truyền hình và truyền thông (bao gồm cả điện ảnh). - 153 triệu bảng cho các toà nhà, công trình và địa điểm có giá trị lịch sử. - 50 triệu bảng để dự phòng cho các hoạt động thể thao và nghệ thuật. - 8 triệu bảng cho văn hoá trực tuyến. Trong năm tài chính 2002/2003, Hội đồng Nghệ thuật Anh chi 290 triệu bảng, xứ Wales là 21 triệu bảng, Scotland là 36 triệu bảng, và Bắc Ireland là 8.7 triệu bảng. Chính phủ Scotland đã cung cấp 65 triệu bảng cho các Cơ quan Quốc gia (bao gồm các Bảo tàng Quốc gia, Phòng trưng bày Quốc gia và Thư viện Quốc gia của Scotland). Trong cùng giai đoạn này, Quốc hội Wales đã chi 24.4 triệu bảng cho các bảo tàng và phòng trưng bày Quốc gia, 13.5 triệu bảng cho Thư viện Quốc gia, và 28.5 triệu bảng chi cho nghệ thuật. Trong khi đó Bộ Văn hoá, Nghệ thuật và Giải trí Bắc Ireland chi 11.6 triệu bảng cho các bảo tàng.. Các chính quyền địa phương vẫn duy trì tài trợ cho khoảng 1000 bảo tàng và phòng trưng bày nghệ thuật địa phương, và một hệ thống các thư viện công,Năm tài chính 2000/2001, chi tiêu của chính quyền địa phương ở Vương quốc Anh cho văn hoá khoảng 1.269 tỉ bảng. Tổng đầu tư kinh doanh cho nghệ thuật năm 2001/2002 ước tính khoảng 111 tỉ bảng; giảm 3% so với năm 2000/2001 và thấp hơn con số được ghi nhận vào năm 1999/2000 là 150 tỷ bảng.Nghị viện anh và chính phủ chịu trách nhiệm về mọi vấn đề về văn hóa của nước Anh. * Một số hoạt động văn hóa: - Phim tại các rạp và những trung tâm khác – Kịch. - Nhạc cổ điển - Âm nhạc. - Lễ hội văn hóa - Đến thư viện. - Lễ hội, nghệ thuật đường phố, rạp xiếc - Tham quan bảo tàng. - Triển lãm nghệ thuật, nhiếp ảnh, kiến trúc - Nhạc pop hoặc nhạc rock. - Opera - Kịch câm. 3.2. Ở Hà Lan Chính quyền công ở Hà Lan tổ chức theo hệ thống 3 cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh và thành phố địa phương. Chính quyền ttrung ương phụ trách 1/3 trong tổng kinh phí cho các họat động liên quan đến nghệ thuật và văn hóa. Các viện văn hóa chính như Thư viện Hoàng gia, Trung tâm lưu trữ quốc gia, Viện di sản Hà Lan, nhiều viện bảo tàng quốc gia, và gần như toàn bộ các cơ sở giáo dục như nhạc viện và viện giáo dục bậc cao hơn, đều nằm dưới sự quản lý trực tiếp của chính quyền nhà nước. Trọng trách của cấp chính quyền trung ương là đảm bảo sao cho các viện, tổ chức và công ty này hoạt động thật tốt. Nhà nước cũng bảo trợ cho hàng trăm công ty biểu diễn nghệ thuật, các viện triển lãm nghệ thuật, các chương trình nghệ thuật, và nhiều viện cơ sở cũng như trung tâm chuyên ngành. Sau nghệ thuật và di sản văn hóa, cấp chính quyền trung ương chịu trách nhiệm trước nhất về hệ thống phát thanh công cộng quốc gia. Các thành phố địa phương và tỉnh thành, dành gần 2/3 ngân sách cho nghệ thuật và văn hóa, cùng với nhà nước thực hiện phân phối, sắp xếp cung và cầu giữa các vùng và địa phương. Về tài chính, phần lớn các viện bảo tàng của Hà Lan đều phụ thuộc vào chính quyền thành phố địa phương. Ở Hà Lan, các cơ sở văn hóa công cộng như thư viện thường được giao cho các địa phương quản lý. Nhà nước chỉ hỗ trợ cho các thư viện bằng cách cấp kinh phí hoạt động cho một trung tâm đầu não. 3.3. Kinh nghiệm cho Việt Nam - Xây dựng và hoàn thện cơ chế chính sách về lĩnh vực văn hóa, cung ứng dịch vụ công về văn hóa của nhà nước. - Phối hợp với tổ chức xã hội,tư nhân thực hiện cung ứng dịch vụ văn hóa theo pháp luật và theo quy chế nhằm giảm bớt gánh nặng công việc cho nhà nước mà vẫn thực hiện tốt chức năng của nhà nước. - Cải thiện, nâng cao chất lượng cung ứng dịch vụ công trong khu vực nhà nước và theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ. - Nhà nước cho thuê hay bán một phần tài sản hoặc một phần số cổ phiếu của danh nghiệp nhà nước cung ứng dịch vụ công ra ngoài xã hội cho tổ chức xã hội hay tư nhân. - Tạo ra và duy trì được sự cạnh tranh giữa các tổ chức cung ứng dịch vụ (đặc biệt là các tổ chức cung ứng dịch vụ công của nhà nước), nhà nước không chỉ diều tiết mà còn khuyến khích và tạo thị trường. - Nhà nước tạo ra sân chơi bình đẳng, đổi mới đi với nhau. - Tạo ra những sản phẩm văn hóa - nghệ thuât đương đại đỉnh cao - vừa thích hợp với xu thế toàn cầu, vừa mang tính bản sắc, mang lại nhiều lợi ích ở nhiều phương diện (thẩm mỹ, kinh tế, chính trị). - Thúc đẩy quá trình phát triển nền công nghiệp văn hóa (các nghành giải trí với công nghệ cao và giá thành hạ, các festval nghệ thuật đương đại,) để những sản phẩm văn hóa Việt Nam trở thành một loại hàng hóa có chất lượng trong thị trường văn hóa nội địa cũng như quốc tế. - Nhà nước cung ứng tài chính cho việc cung ứng dịch vụ công mà nhà nước là chủ đầu tư và trợ cấp cho các tổ chức khác thực hiện cung ứng dịch vụ cho xã hội. II. THỰC TRẠNG CUNG ỨNG DỊCH VỤ CÔNG VỀ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM 1. Tư tưởng, quan điểm của Đảng và nhà nước về cung ứng dịch vụ công về văn hóa Đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Có lẽ đây là nhận thức chung của mọi quốc gia khi nhìn nhận vấn đề đầu tư cho văn hóa. Nhưng nói đến dầu tư là phải tính đến hiệu quả, mặc dù đầu tư cho văn hóa hiệu quả không phải dễ lượng hóa và nhận biết trong một sớm một chiều. Vì vậy nhà nước cần phải có những chính sách, kế hoạch quản lý phù hợp và đúng đắn. Văn hóa là một lĩnh vực nhạy cảm. Những biến động của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội đều được phản chiếu trong văn hóa. Văn hóa trong các thời điểm nhất định có thể có những biểu hiện mất trật tự, lộn xộn do xu hướng phát triển tự phát. Để lập lại trật tự kỉ cương, nhà nước phải sử dụng các công cụ như chính sách, pháp luật để quản lý văn hóa tốt hơn. Đảng và chính phủ đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật, bản chiến lược phát triển văn hóa. Trong đó có các văn bản quan trọng như: + Luật di sản văn hóa: dựa trên Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, luật di sản văn hóa được ban hành tháng 6 năm 2001 nhằm bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, đáp ứng nhu cầu về văn hóa ngày càng cao của nhân dân, góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và đóng góp vào kho tàng di sản van hóa thế giới; Để tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của nhân dân trong việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Luật di sản văn hóa đã quy định quyền lợi và nghĩa vụ của các tổ chức cá nhân đối với di sản văn hóa; vai trò của nhà nước trong việc bảo vệ và phát huy các giá trị di sản văn hóa; thành lập các bảo tàng trưng bày, triển lãm các hiện vật văn hóa...; tổ chức việc thanh tra và giải quyết khiếu nại, tố cáo về di sản văn hóa; khen thưởng và xử lý vi phạm về di sản văn hóa. Luật di sản văn hóa được ban hành năm 2001 và bổ sung năm 2009 đã thể hiện quan điểm của Đảng và Chính phủ trong công tác bảo vệ các di sản văn hóa của đất nước. + Nghị định 103: Ngoài Luật di sản văn hóa và Chiến lược phát triển đến năm 2020 của chính phủ về văn hóa, chúng ta còn có các Nghị định, Quy chế như: Nghị định số 103/2009/NĐ- CP của Chính phủ ban hành năm 2009 cùng với Quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh văn hóa công cộng kèm theo Trong Nghị định kèm theo “quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh các hoạt động dịch vụ văn hóa công cộng”, cũng đã nêu rõ ràng mục đích, đối tượng về hoạt động văn hóa. Ví dụ Điều 1 “các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng phải nhằm xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; giáo dục nếp sống lành mạnh và phong cách ứng xử có văn hóa cho mọi người; kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nghĩa tình, thuần phong mỹ tục; nâng cao hiểu biết và trình độ thẩm mỹ, làm phong phú đời sống tinh thần của nhân dân, ngăn chặn sự xâm nhập và bài trừ những sản phẩm văn hóa có nội dung độc hại; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế- xã hội của đất nước”. Hay tại điều 2 quy định phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng: “1, Phạm vi điều chỉnh: a, Quy chế này quy định các hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng bao gồm: lưu hành, kinh doanh băng, đĩa ca nhạc, sân khấu; biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang; triển lãm văn hóa, nghệ thuật; tổ chức lễ hội; viết, đặt biển hiệu; hoạt động vũ trường, karaoke, trò chơi điện tử, các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa và các hình thức vui chơi giải trí khác. 2, Phạm vi điều chỉnh: quy chế này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam, trong trường hợp Điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định khác thì áp dụng quy định của Điều ước quốc tế đó.” Ngoài ra, trong nghị định có quy định rõ ràng và chi tiết cho từng loại dịch vụ văn hóa công: Lưu hành, kinh doanh băng, đĩa ca nhạc, sân khấu. Biếu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang. Triển lãm văn hóa, nghệ thuật. Tổ chức lễ hội. + Nghị định 185/2007/NĐ-CP của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch. + Nghị định 75/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa. + Nghị định 53/2006/NĐ-CP Về chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập: nhằm huy động sự tham gia và cùng với nhà nước cung ứng các dịch vụ cho nhân dân cũng như cho toàn xã hội.... Các văn bản pháp luật khác quy định cho từng lĩnh vực văn hóa cụ thể. Bên cạnh việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật quy định cho hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa công cộng thì Nhà nước còn tham gia cung ứng trực tiếp và cung ứng gián tiếp qua các hình thức: chuyển giao cho tư nhân phân bổ nguồn ngân sách Nhà nước cho cung ứng dịch vụ công hàng năm 2. Thực trạng cung ứng dịch vụ công về văn hóa ở Việt Nam Trước hết, cần khẳng định, đời sống văn hóa xã hội ta hiện nay so với thời cơ chế cũ có bước tiến bộ rõ rệt. Điều dễ thấy là tính năng động xã hội kinh tế và tính tích cực công dân được khơi dậy và phát huy thay cho tâm lý thụ động, ỷ lại, trông chờ bao cấp trong cơ chế cũ. Bầu không khí dân chủ, cởi mở trong xã hội tăng lên. Mặt bằng dân trí từng bước được nâng cao, sở trường, năng lực cá nhân con người được khuyến khích, tôn trọng. 2.1. Trong lưu hành, kinh doanh băng đĩa nhạc, sân khấu. Cũng kèm theo quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng trong Nghị định số 103/2009/NĐ- CP của Chính phủ; có quy định cụ thể cho kinh doanh băng đĩa nhac, thẩm quyền cấp giấy phép, thủ tục đăng ký Nhà nước ta cũng đã nghiêm cấm và ngăn chặn các hành vi buôn bán băng đĩa lậu dưới mọi hình thức, thường xuyên chỉ đạo các đội đội kiểm tra liên ngành của các xã, phừơng, huyện, thị tiến hành công tác kiểm tra, truy quét nạn buôn bán trái phép này. 2.2. Triển lãm, Bảo tàng. Việt Nam đang có hơn 100 bảo tàng. Nhằm mục đích bảo tồn nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng rất nhiều các hoạt động nhằm khơi dậy tinh thần dân tộc, gìn giữ các di sản, tài sản quốc gia như: tổ chức các cuộc tìm kiếm di vật của cha ông để lại; xây dựng các bảo tàng lưu giữ hiện vật... Cũng như có các văn bản pháp luật về tổ chức, hoạt động không chỉ của các hoạt động văn hóa, dịch vụ văn hóa công cộng mà cả những văn bản quy định riêng cho từng mảng dịch vụ. Chẳng hạn, Nghị định số 18/2010/TT- BVHTTDL của Bộ văn hóa- thể thao và du lịch quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng: quy định chi tiết từ phạm vi, đối tượng điều chỉnh; đặt tên, tổ chức bảo tàng; tới các hoạt động trong bảo tàng Ngoài ra, như chúng ta cũng biết Công nghệ thông tin là một trong những động lực quan trọng nhất của sự phát triển. Cùng với một số ngành khoa học khác, công nghệ thông tin đang làm biến đổi sâu sắc đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội của thế giới hiện đại. Chính phủ đã ban hành Nghị quyết (số 49/CP ngày 4/8/1993) về phát triển công nghệ thông tin ở Việt Nam trong đó nêu rõ mục tiêu: “Mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, an ninh, quốc phòng đều phải ứng dụng công nghệ thông tin để phát triển”. Hơn 10 năm qua các bộ, ngành trong cả nước đã triển khai nhiều đề án và kế hoạch để thực hiện mục tiêu này. Sau khi thử nghiệm một số dự án ứng dụng tin học trong quản lý, năm 2004, Cục Di sản văn hoá cùng với Công ty Cổ phần Truyền thống Việt Nam (Vinacomm) xây dựng dự án tiền khả thi nhằm thiết lập và phát triển hệ thống thông tin của ngành di sản văn hoá. Chúng tôi đã tiến hành điều tra hiện trạng ứng dụng công nghệ thông tin của ngành. 90% trong tổng số 170 đơn vị bảo tàng và ban quản lý di tích đã trả lời phiếu điều tra. Kết quả như sau: 78% đơn vị chỉ dùng máy tính để soạn thảo văn bản; 3% đơn vị có sử dụng các phần mềm tin học ứng dụng để quản lý hiện vật, quản lý khách tham quan, quản lý công văn, thư điện tử, kế toán; chỉ có 2% đơn vị đã kết nối và sử dụng Internet. Sau đây chúng ta điểm qua vài nét về một số bảo tàng của Việt Nam mà Nhà nước ta cho thành lập để bảo tồn và gìn giữ bản sắc văn hóa Việt: * Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam là một viện bảo tàng về lĩnh vực dân tộc học của Việt Nam, trực thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam Ngày 14 tháng 12 năm 1987, công trình Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam được chính thức phê duyệt luận chứng kinh tế - kỹ thuật. Ngày 24 tháng 10 năm 1995, Viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam chính thức được thành lập. Bảo tàng khánh thành vào ngày 12 tháng 11 năm 1997. Công trình Viện Bảo tàng Dân tộc học do kiến trúc sư Hà Đức Lịnh, người Tày thiết kế. Nội thất được thiết kế bởi nữ kiến trúc sư Véronique Dollfus (người Pháp). Bảo tàng gồm ba khu trưng bày chính: Khu trưng bày trong tòa Trống Đồng; khu trưng bày ngoài trời; và khu trưng bày Đông Nam Á (khởi công xây dựng vào năm 2008). Ngoài ra là khu vực cơ quan: cơ sở nghiên cứu, thư viện, hệ thống kho bảo quản hiện vật... Bảo tàng lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật văn hoá của cả 54 dân tộc Việt Nam gồm 15.000 hiện vật, 42.000 phim (kèm ảnh màu), 2190 phim dương bản, 273 băng ghi âm các cuộc phỏng vấn, âm nhạc, 373 băng video và 25 đĩa CD-Rom (tính đến năm 2000). Các hiện vật này được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: dân tộc, công dụng, y phục, trang sức, nông cụ, ngư cụ, vũ khí, đồ gia dụng, nhạc cụ, tôn giáo-tín ngưỡng, cưới xin, ma chay và nhiều hoạt động tinh thần, xã hội khác. Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam cũng có một chuyến trưng bày đầy ấn tượng ở Mỹ với chủ đề “Hành trình về cõi tâm linh”, giới thiệu được những nét văn hoá đặc sắc của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, thông qua những bộ sưu tập hiện vật gốc đầy sức thuyết phục, cùng những thước phim tư liệu công phu, chân thực và sống động, đã gây được cảm tình đối với công chúng Mỹ và khách du lịch quốc tế. Một cuộc trưng bày đứng vững được trong lòng nước Mỹ, chắc chắn phải có sự hấp dẫn và độ tin cậy cao, khi trình độ Việt Nam học ở Mỹ đang là một trong những quốc gia hàng đầu trên thế giới. * Bảo tàng Hà Nội Bảo tàng Hà Nội, trước đây nằm ở số 5B phố Hàm Long, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội, là nơi trưng bày giới thiệu về thủ đô Hà Nội từ khi dựng nước đến nay. Để kỷ niệm đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, một dự án xây dựng mới bảo tàng Hà Nội đã được thực hiện với số tiền đầu tư rất lớn, Bảo tàng Hà Nội mới nằm trong khu vực xây dựng Trung tâm Hội nghị Quốc gia Việt Nam tại Mỹ Đình, xã Mễ Trì, huyện Từ Liêm, Hà Nội; có kết cấu hình kim tự tháp ngược, trong đó tầng 4 có diện tích lớn nhất, các tầng dưới nhỏ dần. Thiết kế của Liên doanh tư vấn GMP - ILAG (Đức). Trong riêng từ năm 2010 đến 2011 các bảo tàng quy mô nhỏ hơn tại Hà Nội như Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam theo số liệu tổng hợp thu hút được 500.000 lượt khách, Bảo tàng Lịch Sử Việt Nam là 73.000 lượt. Từ năm 2010 đến nay Bảo tàng Hà Nội thu hút được khoảng 130.000 lượt khách. * Các bảo tàng khác Kế hoạch xây dựng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia: Xây dựng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là chủ trương chung của Đảng và Nhà nước. Khi hoàn thành bảo tàng sẽ trở thành công trình chung, tài sản chung của đất nước. Đây là một công trình văn hóa được xây dựng cho nhân dân, cho xã hội và đất nước. Một bảo tàng mang tầm cỡ quốc gia sẽ góp phần nâng cao nhận thức, lòng tự hào dân tộc của mỗi người dân. Cái được là vô hình và không thể đo đếm được. Đầu tư xây dựng một nhà máy, một khu công nghiệp sẽ gắn liền với quyền lợi về kinh tế. Còn lợi ích của bảo tàng mang lại không thể nhìn được, đếm được mà nó ảnh hưởng đến ý thức của mỗi người dân. Nói cách khác, cái được của bảo tàng không thể tính bằng tiền. Mặt khác hai bảo tàng trăm năm tuổi Bảo tàng Cách mạng và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam cũng đã mang lại hiệu quả thiết thực. Thực tế trước nay bảo tàng đã thu hút một lượng khách lớn, lên đến 800 đến 1 triệu lượt khách mỗi năm. Trong đó phải đến 60% lượng khách là người nước ngoài. Con số này đã nói lên hiệu quả của hai bảo tàng hiện có. Còn lý do trong bảo tàng mở cửa hàng ăn, quán cà phê... Theo nghị định 43 thì bảo tàng được phép tận thu để tăng nguồn thu cho bảo tàng. Phần diện tích này chỉ được tận dụng ở những vị trí, địa điểm không ảnh hưởng đến không gian trưng bày. Ngoài hiệu quả kinh tế, việc mở các dịch vụ như vậy cũng tạo điều kiện tối đa cho du khách, khi đến thăm quan bảo tàng có nơi mua sắm quà lưu niệm, nghỉ ngơi, ăn uống. Cách làm này các bảo tàng trên thế giới đều đang thực hiện chứ không phải chỉ có ở Việt Nam. Đến thời điểm này Chính phủ đã sáp nhập hai Bảo tàng Cách mạng và Bảo tàng Lịch sử làm một. Hai bảo tàng này sẽ được bổ sung thêm hiện vật và sẽ trở thành bảo tàng phương Đông. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam: Bảo tàng Mỹ thuật Việt nam được đánh giá là một trong những bảo tàng có vị trí quan trọng nhất trong việc lưu giữ và phát huy kho tàng di sản văn hoá nghệ thuật của cộng đồng các dân tộc Việt nam. Hệ thống trưng bày các sưu tập hiện vật và tác phẩm nghệ thuật quan trọng của Việt Nam cung cấp cho công chúng những hiểu biết sâu sắc độc đáo về nền văn hóa và lịch sử của cộng đồng dân tộc của Việt Nam. Theo Quyết định số 37/2004/QĐ - BVHTT ngày 28/6/2004 của Bộ Văn hoá Thông tin, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam có những chức năng cơ bản cũng như các nhiệm vụ cụ thể so nhà nước quy định. Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã đưa những tác phẩm mỹ thuật đương đại tới Vương quốc Bỉ, để trưng bày nhân kỷ niệm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao giữa nước ta và Cộng đồng Châu Âu. Đây là một sự kiện hết sức quan trọng, khai thông cho những bế tắc mà nhiều chục năm trước, chúng ta có chủ trương, nhưng bất thành, với nhiều lý do, mà lý do cơ bản là chưa đủ hành lang pháp lý cho vấn đề này. Với một bộ sưu tập tranh hiện đại, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam đã là sứ giả đầu tiên “mang chuông đi đánh nước người” và đã gặt hái được những thành công nhất định, giới thiệu được một phần trong kho tàng Mỹ thuật Việt Nam với thế giới, đặc biệt với công chúng Châu Âu khá sành điệu về nghệ thuật. Cùng thời gian này, một số sưu tập tranh tư nhân, tác phẩm của những danh hoạ thời Mỹ thuật Đông Dương được giới thiệu ở Cộng hoà Pháp, cũng đã gây được sự chú ý tới công chúng yêu nghệ thuật và được coi là hiện tượng đầu tiên, tranh tư nhân của hai nhà sưu tập Hà Nội được xuất ngoại - mở đầu cho một hướng khai thác cổ vật tư nhân đưa ra trưng bày của các Bảo tàng Việt Nam trong những năm sau đó. Rồi mười ba bảo tàng Việt Nam cùng phối hợp tham gia đưa những bộ sưu tập đặc sắc và quý hiếm của mình đi trưng bày ở Vương quốc Bỉ và Cộng hoà Áo, với chủ đề dung dị nhưng ấn tượng “Việt Nam - quá khứ và hiện tại” và “Việt Nam thần linh - tổ tiên và anh hùng”, đã đưa người xem, lần đầu tiên, hiểu Việt Nam một cách khá trọn vẹn và sâu sắc, mà bấy lâu nay, như báo giới Châu Âu thừa nhận “Quốc gia dân tộc ấy còn chứa đựng nhiều bí ẩn rất cần được tìm tòi, khám phá”. Cuộc trưng bày đã thu hút được hàng triệu lượt khách đến tham quan, gây được tiếng vang lớn trên thế giới. Gần đây, Bảo tàng Guimet (Cộng hoà Pháp) cũng đã tiếp xúc với một số Bảo tàng Việt Nam, mà đối tác chủ yếu là Bảo tàng nghệ thuật Điêu khắc Chăm ở Đà Nẵng và Bảo tàng Lịch sử Việt Nam Thành phố Hồ Chí Minh, để đưa bộ sưu tập điêu khắc đá Chămpa sang Pháp trưng bày tại thủ đô Paris, nhằm tôn vinh một nền nghệ thuật của một trong các cộng đồng dân tộc Việt Nam, trong quá khứ vàng son, đã đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật chạm khắc đá. 2.3. Dịch vụ vũ trường, karaoke Tại cuộc họp báo công bố Nghị định 11/2006/NĐ-CP do Bộ Văn hóa - Thông tin tổ chức, hầu hết các nhà báo đều quan tâm nhiều nhất đến những điểm mới của quy chế trong hoạt động vũ trường, karaoke và trò chơi điện tử, vốn là những loại hình hoạt động, kinh doanh văn hóa rất "nhạy cảm" hiện nay. Theo quy chế mới thì chỉ có khách sạn, nhà văn hóa và trung tâm văn hóa mới được phép kinh doanh vũ trường. Như vậy, các câu lạc bộ văn hóa không còn được phép kinh doanh vũ trường nữa. Cơ sở kinh doanh vũ trường, karaoke phải cách trường học, bệnh viện, cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng, di tích lịch sử - văn hóa, cơ quan hành chính Nhà nước từ 200m trở lên. Người điều hành hoạt động trực tiếp tại vũ trường phải có trình độ trung cấp chuyên ngành văn hóa nghệ thuật trở lên. Không cho người dưới 18 tuổi làm việc hoặc vào khiêu vũ tại vũ trường. Tất cả các vũ trường, cơ sở karaoke không được hoạt động sau 12 giờ đêm cho đến 8 giờ sáng hôm sau. Các cửa hàng trò chơi điện tử phải cách các trường tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông từ 200m trở lên và không được hoạt động quá 11 giờ đêm. Với loại hình kinh doanh karaoke, quy chế đã quy định rất cụ thể như sau: Phòng karaoke phải có diện tích sử dụng từ 20m2 trở lên, không kể công trình phụ, toàn bộ cửa ra vào phải là cửa kính không màu, bên ngoài có thể nhìn thấy toàn bộ phòng, không được đặt khóa, chốt cửa bên trong và các thiết bị báo động nhằm đối phó với hoạt động kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền; địa điểm hoạt động karaoke trong khu dân cư phải được sự đồng ý của các hộ liền kề; không được bán rượu và không được để cho khách uống rượu trong phòng karaoke. Mỗi phòng karaoke chỉ được sử dụng 1 nhân viên phục vụ từ 18 tuổi trở lên. Đối chiếu với quy chế này, trong thời gian tới, hàng chục ngàn phòng karaoke có diện tích tối thiểu là 14m2, kể cả công trình phụ, là những phòng hát đã được cấp giấy phép trước ngày 22.12.1995 và được Nghị định 87/CP chấp nhận, sẽ phải mở rộng. Toàn bộ cửa các phòng karaoke cũng phải được thay thế, sửa mới so với quy định có ô cửa kính như trước kia. Ông Lê Anh Tuyến - Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Văn hóa - Thông tin cho biết: “Tất nhiên, với những thay đổi về diện tích, cửa phòng, chúng tôi cũng sẽ dành cho các cơ sở kinh doanh một khoảng thời gian nhất định, cụ thể sẽ thông báo sau. Còn lại những quy định khác về tiêu chuẩn phòng karaoke đều phải được thực hiện ngay". Cũng theo quy chế mới, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang cũng được thông thoáng hơn trong khâu cấp giấy phép, đăng ký biểu diễn, quyền hạn của các sở Văn hóa - Thông tin được mở rộng hơn. Những hoạt động này cũng không được hoạt động quá 12 giờ đêm. Trong trường hợp cụ thể như biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang đón giao thừa... phải được sự đồng ý của Sở Văn hóa - Thông tin nơi tổ chức biểu diễn. Một số hoạt động, kinh doanh trong các lĩnh vực khác như bán và cho thuê xuất bản phẩm, quảng cáo, phát hành sách... không thuộc phạm vi điều chỉnh của quy chế này bởi đã có các luật, pháp lệnh khá hoàn thiện, các văn bản hướng dẫn thực hiện đồng bộ trong thời gian qua. Theo thống kê chưa đầy đủ, tính từ tháng 5.2005, thời điểm bắt đầu thực hiện Chỉ thị 17/2005 của Thủ tướng chính phủ về việc chấn chỉnh các hoạt động tiêu cực trong hoạt động kinh doanh quán bar, nhà hàng karaoke, vũ trường, trong vòng chưa đầy 9 tháng đã có 8.344 lượt kiểm tra, hơn 2.000 trường hợp vi phạm với hơn 2.500 đối tượng, trong đó 600 đối tượng sử dụng thuốc lắc, 58 kẻ chủ mưu, 60 đối tượng thoát y, hoạt động mại dâm; 85% đối tượng trong độ tuổi từ 16 đến 25; Số tiền xử phạt lên tới 2 tỉ 521 triệu đồng; 50 vụ đặc biệt nghiêm trọng, trong đó có 3 vụ đã khởi tố tại TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và Cần Thơ. 2.4. Tình hình kinh doanh khách sạn Nhằm phát triển ngành kinh tế du lịch cho Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta đảm bảo cung ứng dịch vụ khách sạn cho khách du lịch trong và ngoài nước, đặc biệt là du khách nước ngoài khi đặt chân tới Việt Nam. Không chỉ khách sạn do Nhà nước quản lý trực tiếp mà rất nhiều các tập đoàn tư nhân dưới sự cấp phép của nhà nước, sự thẩm định của các hội đồng, các chuyên gia về chất lượng khách sạn. Ví dụ như Tập đoàn Accor Hotels tiếp tục dẫn đầu trên thị trường với số lượng các khách sạn ở thành phố nhiều nhất và với hệ thống các khu nghỉ dưỡng Six Senses/Evason. Báo cáo Khảo sát Ngành dịch vụ Khách sạn năm 2011 thực hiện bởi Grant Thornton Việt Nam trình bày các thông tin về tài chính, tình hình hoạt động cũng như tiếp thị của các khách sạn và khu nghỉ dưỡng Việt Nam cho năm tài chính 2010. Năm 2010, một phần do sự phục hồi của nền kinh tế, ngành khách sạn ở Việt Nam đã có một năm thành công đáng kể. Khách sạn 4 sao có sự tăng trưởng đáng kể nhất về giá phòng, tăng 8,5%. Giá phòng khách sạn 5 sao chỉ tăng khoảng 0,8% và các khách sạn 3 sao tăng trưởng mạnh mẽ với 4,7%. Ngược lại với sự suy giảm trong năm 2009, công suất thuê phòng trug bình của khách sạn 4 và 5 sao trong năm 2010 lần lượt tăng 5,3% và 5,0%. Tuy nhiên, công suất khách sạn 3 sao lại giảm 1.6%. Sự thay đổi này cho thấy sự dịch chuyển về nhu cầu của khách hàng sang hướng các khách sạn có chất lượng cao hơn. Du khách ngày nay chọn loại hình khách sạn theo sự tiện nghi và đa dạng về mặt dịch vụ hơn là chỉ quan tâm đến giá cả. Công xuất sử dụng phòng cũng tăng ở khắp các vùng miền trên khắp cả nước, tương ứng với sự gia tăng số lượng khách du lịch quốc tế đến với Việt Nam. 2.5. Tổ chức lễ hội. Lễ hội Việt Nam là sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. "Lễ" là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. "Hội" là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Cũng như các hình thức hoạt động văn hóa khác, lễ hội là ảnh hưởng tới đời sống tinh thần của con người Việt. Nhưng không vì nó là cuộc sống tinh thần của con người mà pháp luật, Nhà nước không can thiệp, quản lý. Mà trái lại, bên cạnh việc ra các văn bản pháp luật quy định về tổ chức lễ hội( Chương 5 quy chế, kèm theo Nghị định 103), xử lý các vi phạm thuần phong mỹ tục văn hóa Việt, bài trừ tệ nạn, Nhà nước còn khuyến khích tìm về cội nguồn, tìm lại lễ hội xa xưa của dân tộc. Trong lễ hội, cũng đã có sự phân cấp của Nhà nước. Tùy vào từng thời điểm, vào chủ thể mà lễ hội hiện nay được tổ chức ở nhiều cấp khác nhau. Ví dụ như lễ hội đền Hùng được tổ chức ở quy mô quốc gia 5 năm/ lần. Những năm số lẻ thì lại được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh. Các lễ hội thường được tổ chức ở quy mô cấp tỉnh như hội Lim, lễ hội Lam Kinh (Thanh Hóa), lễ hội đền Trần (Nam Định)... Các lễ hội ở quy mô cấp huyện tiêu biểu như lễ hội đền Nguyễn Công Trứ ở Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Các lễ hội diễn ra ở đình Làng là lễ hội cấp nhỏ nhất, chỉ với quy mô làng, xã. Theo thống kê 2009, hiện cả nước Việt Nam có 7.966 lễ hội; trong đó có 7.039 lễ hội dân gian (chiếm 88,36%), 332 lễ hội lịch sử (chiếm 4,16%), 544 lễ hội tôn giáo (chiếm 6,28%), 10 lễ hội du nhập từ nước ngoài (chiếm 0,12%), còn lại là lễ hội khác (chiếm 0,5%). 3. Một số hạn chế còn tồn đọng Sự phát triển của văn hóa chưa đồng bộ và chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế, thiếu gắn bó với nhiệm vụ xây dựng và chỉnh đốn Đảng là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế và nhiệm vụ xây dựng Đảng. Tệ nạn xã hội, bạo lực gia đình, bạo lực học đường, coi thường pháp luật những biểu hiện “thương mại hóa", xu hướng vọng ngoại, lai căng, xa rời bản sắc, truyền thống văn hóa dân tộc ở một bộ phận chưa được ngăn chặn một cách hữu hiệu. Ví dụ: về nghệ thuật: Trong suốt 2 năm xây dựng đề án cấp thẻ hành nghề trước khi về hưu, NSND Lê Ngọc Cường (nguyên Cục trưởng Cục nghệ thuật biểu diễn) ấp ủ, tấm thẻ sẽ là một minh chứng cho sự đào tạo chuyên nghiệp, năng lực trình độ chuyên ngành và để đánh vào ý thức trách nhiệm của giới nghệ sĩ. Sự cấp tiến của ông sau đó cũng chìm vào im lặng, cho tới đầu năm 2012 lại được xới lên sau quá nhiều rối ren, scandal trong các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, trình diễn thời trang. Thực trạng hát nhép, ăn mặc phản cảm, loạn danh xưng của giới nghệ sĩ, chân dài làm khán giả nhức óc, hoa mắt. Sự ra tay liên tiếp của giới truyền thông phanh phui hiện trạng hát nhép, ăn mặc hở hang càng cho thấy lỗ hổng trong công tác quản lý, thanh tra, giám sát của các nhà quản lý. Một nghịch lý nữa sẽ khiến các nhà tổ chức khá đau đầu, đó là những người hoạt động nghệ thuật chuyên nghiệp (thường ít được khán giả biết tới) dù sở hữu tấm thẻ hành nghề nhưng lại vấp khe cửa hẹp của các nhà tổ chức khi làm sự kiện. Ngược lại, những cái tên mới nổi (kể cả bằng scandal hiếp dâm, lộ ngực, ăn mặc phản cảm, hát nhép) nhưng chưa có thẻ hành nghề lại được săn đón nhiệt trình và treo băng rôn quảng cáo khắp nơi. Việc chưa có thẻ hành nghề (được các nhà quản lý so sánh như thẻ dược sĩ), liệu các nghệ sĩ có được tham gia hoạt động biểu diễn nghệ thuật? Về mặt bảo tàng cũng có nhiều ý kiến trái chiều: Dư luận đang rộ lên chuyện xây dựng Bảo tàng lịch sử Quốc gia. Mỗi người mỗi ý kiến. Từ những chuyên gia chuyên ngành cho đến dân thường. Hay! Trong thời buổi giá cả leo thang sốt sít sìn sịt từng ngày, tưởng chuyện xây dựng Bảo tàng lịch sử Quốc gia nó thuộc tầm vĩ mô, thuộc hình thái thượng tấng kén người quan tâm chứ, ai dè người bàn ra kẻ tán vào xôm đáo để! Lại thêm, 11.000 tỷ có là gì? Nhìn ra thế giới có bao bảo tàng đồ sộ ngốn hàng chục tỷ đô mà ngườì ta vẫn chịu chơi, chịu chi và thực tế họ đã thu lãi bộn cả tiền bạc cũng như tinh thần. 11.000 tỷ có là gì, khi một Vinashin, một Vinasine đã ném sông ném biển mấy lần như thế. Đó là chưa kể hàng trăm công trình, dự án, khu công nghiệp ngốn cả núi tiền giờ đang ủ mền đắp chiếu. Hàng chục ngàn căn hộ bỏ hoang tiêu tốn cả trăm ngàn tỷ. Thực tế hơn cả có lẽ là luồng ý kiến đánh thẳng vào thực trạng kinh tế hiện thời đang khó. Bao chương trình an sinh đang thiếu vốn ngược xuôi. Cũng 11.000 tỷ ấy, người ta đưa ra bao phép so sánh thay vì xây bảo tàng có thể xây 11.000 nhà trẻ hay 5.000 trường mầm non nông thôn hoặc hơn nửa triệu ngôi nhà tình nghĩa. 11.000 tỷ ấy có thể triển khai hiệu quả chương trình dạy bơi cho học sinh toàn quốc để bớt đi những nỗi đau xé lòng vì những vụ đuối nước tập thể. Số tiền ấy đủ để giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện, ba bốn bệnh nhân nằm một giường và những cái chết tức tưởi vì chất lượng khám chữa bệnh ngày càng xuống cấp Mức hưởng thụ văn hóa tinh thần của nhân dân có nâng lên so với những năm trước, nhưng một số vùng sâu, vùng xa còn hạn chế, do thiếu điều kiện và phương tiện tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao. Kinh phí hoạt động văn hóa - thông tin - thể thao ở cơ sở còn thấp và còn phân bổ trên tổng số dân. Cán bộ văn hóa - thông tin - thể thao xã, phường hiện chưa có biên chế nên thường biến động. Việc xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao và du lịch có chuyển biến khá hơn, nhưng nhìn chung vẫn chưa huy động tốt nguồn lực của xã hội vào lĩnh vực này. Trong thời kỳ bùng nổ thông tin Internet, nhiều loại sách báo, phim ảnh, băng đĩa, game online,... không lành mạnh đã tác động xấu đến thanh thiếu niên và một bộ phận nhân dân, nhưng cũng chưa có giải pháp hữu hiệu để ngăn chặn. VD: Vừa qua, Phòng phòng Văn hóa và Thông tin thành phố Yên Bái đã phối hợp cùng đoàn kiểm tra của Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh kiểm tra hoạt động của 15 đại lý Internet công cộng và kiểm tra việc chấp hành các quy định của Nhà nước trong các hoạt động cung cấp dịch vụ thông tin di động, Internet trên địa bàn thành phố. Qua kiểm tra cho thấy, nhiều điểm Internet công cộng đang kinh doanh dịch vụ chưa tuân thủ các quy định của pháp luật về quản lý Internet như: không có biện pháp kỹ thuật đảm bảo an toàn, an ninh thông tin; không có sơ đồ hệ thống máy tính; không lưu giữ các thông tin người đã sử dụng dịch vụ trên máy chủ đủ 30 ngày; không có sổ theo dõi thông tin khách hàng. Tình trạng thanh thiếu niên, học sinh sử dụng Internet chơi các trò chơi điện tử trực tuyến có nội dung bạo lực vẫn diễn ra. Bên cạnh đó, tình trạng bán băng đĩa hình trôi nổi ngoài luồng rất khó kiểm soát. Băng đĩa được bày bán tại các chợ, trên các xe đẩy không có sự quản lý, kiểm tra; tỷ lệ băng đĩa in sao chiếm gần 50% nhưng ngành chức năng rất khó xử lý các cửa hàng vi phạm tại thời điểm kiểm tra mà chỉ lập biên bản, thu giữ băng đĩa, sau quá trình thẩm định nội dung vi phạm mới có thể xử phạt. III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CUNG ỨNG DVC VỀ VỀ VĂN HÓA Tập trung làm tốt công tác tuyên truyền, phổ biến, quán triệt để nâng cao nhận thức về xây dựng, phát triển văn hoá; hoàn chỉnh quy hoạch phát triển và phát huy hiệu quả hoạt động của hệ thống thiết chế văn hoá từ thành phố đến cơ sở, bảo tồn, tôn tạo, xây mới và phát huy tác dụng các giá trị văn hoá tiêu biểu của thủ đô; phát triển hệ thống thông tin đại chúng, phát thanh truyền hình, báo chí. Tăng cường công tác quản lý nhà nước nhằm định hướng phát triển văn hoá, chống các hiện tượng tiêu cực, các ảnh hưởng độc hại trong đời sống văn hoá. Tập trung xây dựng bộ máy thanh tra chuyên ngành và đội ngũ kiểm tra ở các phòng văn hoá thông tin có trình độ quản lý, có trang bị hiện đại nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ thanh kiểm tra. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền pháp luật, nhất là tuyên truyền cán bộ luật, các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực văn hoá - thông tin phù hợp từng đối tượng, từng vùng. Đưa ra các tiêu chí các danh hiệu “Gia đình văn hoá” , “Làng văn hoá” , khu phố văn hoá, trường học, cơ quan văn hoá.... phù hợp với đặc điểm từng vùng, từng dân. Nghiên cứu tập trung tuyên truyền vận động, xây dựng các chế tài phù hợp cải tạo các phong tục tập quán lạc hậu, các tệ nạn mê tín dị đoan gây mất trật tự xã hội, chia rẽ khối đoàn kết dân tộc. Đồng thời tránh chủ nghĩa chạy theo thành tích, cần coi trọng chất lượng của phong trào. Giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa phi vật thể (những phong tục, tập quán tốt đẹp, nghệ thuật diễn xướng và lễ hội dân gian) nhằm giáo dục truyền thống của các địa phương cho các thế hệ, thu hút khách thập phương, tôn vinh các danh nhân, địa danh văn hóa, những danh lam thắng cảnh của địa phương và qua đó tạo thêm việc làm và tăng thu nhập cho nhân dân. Đầu tư tôn tạo các di tích lịch sử văn hóa khác nhau nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa, giáo dục truyền thống và phát triển du lịch. Nâng cấp và hoàn thiện Trung tâm Văn hóa – Thông tin – Thể thao như: Các nhà văn hóa trung tâm, phòng truyền thống, thư viện, sân vận động đa năng, nhà luyện tập và thi đấu thể thao, bể bơi Mở rộng và phát triển các loại hình văn hóa – văn nghệ, thể dục thể thao truyền thống. Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền góp phần đưa đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống. Chủ động xây dựng một số cơ chế chính sách đặc thù trong lĩnh vực văn hoá thông tin . Trong đó chú trọng các nhóm chính sách về nâng cao nhận thức cấp uỷ và chính quyền cơ sở, chính sách về liên kết thông tin, chính sách về đào tạo, tập huấn, chính sách về tôn vinh các nghệ nhân, khen thưởng các hạt nhân văn nghệ... Phát huy vai trò của văn học, nghệ thuật trong việc bồi dưỡng tư tưởng tình cảm và khát vọng vươn tới cái đúng, cái tốt, cái đẹp của con người Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Phấn đấu có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật có giá trị tư tưởng và nghệ thuật cao, thấm nhuần tinh thần nhân văn, dân chủ, có tác dụng giáo dục xây dựng con người. Đấu tranh chống các hiện tượng phản văn hóa, phản thẩm mỹ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật. Đổi mới cơ chế quản lý văn hóa, thể thao, du lịch phù hợp với quản lý đa ngành, đa lĩnh vực. Tăng nhanh mức đầu tư của Nhà nước và xã hội cho văn hóa. Coi đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển. Nâng cao chất lượng và hiệu quả của các chương trình, mục tiêu quốc gia về văn hóa, thể thao, du lịch. Quản lý tốt thị trường văn hóa phẩm và xây dựng chiến lược phát triển ngành công nghiệp văn hóa. Đẩy mạnh hoạt động văn hóa đối ngoại và coi trọng ngoại giao văn hóa để quảng bá, giới thiệu hình ảnh con người và đất nước Việt Nam đối với cộng đồng quốc tế. Nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn cho các lĩnh vực hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch trong thời kỳ mới. Nâng cao chất lượng toàn diện các hoạt động thể dục - thể thao, nâng cao thể lực và sức khỏe của con người Việt Nam. Cần mở rộng và phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ văn hóa, gắn kết chặt chẽ văn hóa với nhiệm vụ phát triển kinh tế, khai thác tài nguyên văn hóa một cách hợp lý để phát triển du lịch dịch vụ. Đa dạng hóa các ngành nghề sáng tạo và sản xuất các sản phẩm văn hóa, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm văn hóa, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc trong thời kỳ hội nhập quốc tế. Cần nâng cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trên lĩnh vực văn hóa - thể thao - du lịch. Xây dựng cơ chế, chính sách chế tài ổn định phù hợp với yêu cầu quản lý văn hóa trong thời kỳ mới. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về văn hóa. Các cơ quan chức năng như ngành văn hóa, quản lý thị trường cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa với chính quyền các địa phương trong việc phòng chống và đấu tranh với các hoạt động như buôn bán băng đĩa lậu, karaoke, biểu diễn nghệ thuật, kinh doanh các dịch vụ văn hóa công cộng không đúng với quy định của pháp luật. KẾT LUẬN Nhận thức về dich vụ công và vai trò của Nhà nước trong cung ứng dịch vụ công vẫn còn là vấn đề mới mẻ ở nước ta. Thiết nghĩ Chính Phủ và người dân đều cần phải quan tâm hơn nữa đến chức năng này. Hoạt động cung ứng dịch vụ công là sự thể hiện trực tiếp nhất về hình ảnh của Nhà Nước trước công dân. Hoạt động cung ứng dịch vụ công nói chung, dịch vụ công về văn hóa nói riêng cũng phản ánh năng lực của bộ máy hành chính nhà nước, vì đó là những sản phẩm cụ thể của nhà nước đối với tổ chức và công dân. Hơn nữa, những hoạt động liên quan đến văn hóa thường diễn ra liên tục và có tính nhay cảm lớn. Vì vậy việc cải cách cung ứng dịch vụ công về văn hóa là một nội dung cơ bản để phục vụ tốt hơn các nhu cầu văn hóa của người dân. Trong đó giải pháp tiến hành xã hội hóa vẫn được coi là một hướng đi có tính thực tiễn và phù hợp, tuy nhiên trong thòi gian tới cung cần nghiên cứu những hình thức cung ứng mới như thành lập các cơ quan dịch vụ hành chính tự quản theo mô hình ở các nước phát triển (Anh, Mỹ, Canada...). Tài liệu tham khảo - Tập bài giảng Dịch vụ công- Học viện hành chính. - Nghị định 103/2009/NĐ- CP của Chính phủ ban hành ngày 06- 11- 2009 ban hành quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng. - Thông tư số 18/2010/NĐ-BVHTTDL của Bộ văn hóa thể thao và du lịch ban hành ngày 31- 12- 2010 quy định về tổ chức và hoạt động của bảo tàng. - Nghị định số 185/2007/NĐ-CP ngày 25- 12- 2007 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ văn hóa, thể thao và du lịch. - Luật điện ảnh năm 2006 và sửa đổi bổ sung năm 2009. - Thông tư số 04 /2009/TT-BVHTTDL ngày 16- 12- 2009 quy định chi tiết một số quy định tại quy chế hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng ban hành kèm theo nghị định 103/2009/NĐ- CP ngày 06- 11- 2009. - Nghị định số 75/2010/NĐ-CP ngày 12- 7- 2010 của Chính phủ về xử lý vi phạm hành chính trong hoạt động văn hóa và kinh doanh dịch vụ văn hóa công cộng. - Luật di sản văn hóa ban hành ngày 29- 6- 2001 và sửa đổi bổ sung ngày 18-6-2009. - Hệ thống các trang mạng, Internet, webside

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxtieu_luan_mon_dich_vu_cong_de_tai_cung_ung_dich_vu_van_hoa_o.docx